Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

DẠY VÀ HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY: THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.94 KB, 12 trang )

DẠY VÀ HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI TRONG
TRƯỜNG PHỔ THƠNG HIỆN NAY:
THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI MỚI


Nhóm tác giả1
Đỗ Ngọc Phương Quỳnh tổng hợp2

TĨM TẮT
Trong q trình đổi mới giáo dục toàn diện hiện nay, hoạt động dạy học
các môn khoa học xã hội (KHXH) trong trường phổ thơng gặp nhiều bất cập, hạn
chế. Vị trí, vai trị các mơn KHXH bị xem nhẹ và có ít phương pháp học tập đạt
hiệu quả cao. Chính vì thế, bài viết nhấn mạnh những thách thức và cơ hội mới
trong hoạt động giảng dạy các môn KHXH trong trường phổ thơng hiện nay
thơng qua việc trình bày những ngun nhân dẫn đến học sinh khơng ham thích
học các KHXH; những bất cập trong giảng dạy và sự tương tác thụ động giữa
người giảng dạy và người học… Từ đó có những phương pháp đổi mới phù hợp
trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều giúp học sinh tự phát huy tính chủ động, sáng tạo, rèn luyện
thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào
những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, hứng
thú trong học tập. Bài viết cịn góp phần đề xuất một số giải pháp mới để hoạt
động dạy học các môn KHXH trong trường phổ thông hiện nay ngày càng đạt
hiệu quả cao.
1 Đặng Quốc Trung, Trường THPT Chu Văn An, Đồng Tháp
Trương Lệ Tâm, Trường THCS Trần Thị Nhượng, Thành phố Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp
Cao Thành Đon, Trường THCS Phú Thuận A, huyện Hồng Ngự, Tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Ngọc Lợi, Trường THCS Phú Cường, huyện Tam Nông, Đồng Tháp
Nguyễn Hữu Giáp, Trường THPT Chu Văn An, Đồng Tháp
Trương Lệ Tâm, Trường THCS Trần Thị Nhượng, Thành phố Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp
Lê Nguyễn Diệp Khuê, Trường THCS Tràm Chim, Đồng Tháp


Cao Thành Đon, Trường THCS Phú Thuận A, huyện Hồng Ngự, Tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Thị Sáu, Trường THCS Phú Cường, huyện Tam Nông, Đồng Tháp
Lê Hồng Sơn, Trường THCS Nguyễn Thị Lựu, Đồng Tháp
2 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM


Từ khóa: KHXH, THPT, thách thức, cơ hội, đổi mới phương pháp giảng
dạy

1. Thách thức cho các môn KHXH trong nhà trường phổ thông hiện
nay
1.1. Vị thế các môn KHXH
Nếu như giáo dục Việt Nam thời phong kiến luôn coi trọng Văn chương,
Lịch sử, Triết học, Địa lý… thì ngày nay, do tác động của cơ chế thị trường, sự
phát triển khoa học công nghệ ngày càng mạnh mẽ vào đời sống sinh hoạt, sản
xuất kinh doanh… cho nên người ta quên dần những giá trị nhân văn, những giá
trị tinh thần mà các môn KHXH đem lại. Mặt khác, số ngành nghề thiên về khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, công nghệ ngày càng được đào tạo rầm rộ; trong
khi đó, các ngành nghề thuộc nhóm khoa học xã hội và nhân văn thì ngày càng bị
hạn chế. Sự mất cân đối trong quá trình phân bổ các nhóm ngành đào tạo ở các
trường Đại học, Cao đẳng và sự phân chia các môn trong kỳ thi Tốt nghiệp Trung
học phổ thông (THPT) và Đại học… đã vô hình chung làm thay đổi nhận thức của
người dân, người học về các mơn KHXH. Cùng với đó là thực trạng hàng ngàn
sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi các nhóm ngành xã hội khi ra trường khơng có
việc làm. Điều này cũng là một thách thức to lớn cho q trình dạy và học các
mơn KHXH trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Qua các giờ học, các bài kiểm tra các mơn KHXH, có thể nhận thấy nhiều
học sinh học theo kiểu đối phó, học vẹt, lạm dụng tài liệu tham khảo, không chú
trọng kỹ năng học tập và hờ hững với những mơn học này. Các em cịn cho rằng
việc đầu tư nhiều phương pháp học tập cho các môn KHXH trong nhà trường phổ

thông là không cần thiết, bởi đây là môn phụ, thuộc khối kiến thức sẵn có khơng
cần tư duy nhiều như các mơn tự nhiên. Đây là thực trạng rất phổ biến trong tâm
lý học tập các môn KHXH trong nhà trường phổ thông.
1.2. Phương pháp giảng dạy
Đi sâu hơn, chúng ta thấy rằng nội dung chương trình các mơn KHXH hiện
nay tuy đã được cải cách nhiều lần, đổi mới theo hướng tích cực, chú trọng phát


huy năng lực người học… nhưng vẫn chưa bắt kịp nhịp phát triển của xã hội và
nhu cầu tâm lý của người học. Ngun nhân thì có rất nhiều nhưng ở đây ta thấy
dung lượng kiến thức trong sách giáo khoa cịn khá hàn lâm, cịn nặng nề. Ví dụ
như chương trình Ngữ văn hiện hành được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp
nhưng nhiều bài chất lượng, hiệu quả chưa cao, nhất là tích hợp ở THPT. Thậm
chí, có những giờ học tích hợp một cách gượng ép. Một bài học ngồi kiến thức
bộ mơn cần có liên hệ tính giáo dục thực tiễn nhưng nếu gượng ép, khơng khéo
léo sẽ dễ dẫn đến khơ cứng, mất tính hấp dẫn.
Những năm gần đây, nhiều giáo viên dạy các môn KHXH rất chú trọng phương pháp
dạy học đọc hiểu văn bản như môn Lịch sử, Ngữ văn, Địa lý,… Ở môn Lịch sử, Địa lý, học sinh
thường dựa vào sách giáo khoa đọc và bám sát kiến thức. Giáo viên lên lớp thường căn cứ vào
sách giáo khoa để giảng dạy, đi sâu từng mảng kiến thức giúp học sinh hiểu rõ nội dung bài học.
Cịn ở mơn Ngữ văn, học sinh ngoài việc đọc văn bản, cần phải vận dụng tư duy, đào sâu suy
nghĩ mới hiểu rõ nội dung văn bản. Người giáo viên phải linh hoạt khéo léo dùng nhiều phương
pháp dạy học để giúp học sinh lĩnh hội văn bản, hiểu được thông điệp nhà văn gửi gắm qua từng
tác phẩm, trong đó chú trọng nhiều đến phương pháp đọc hiểu. Đa số giáo viên áp dụng phương
pháp đọc hiểu chỉ dừng lại ở mức nhận thức là chính. Nhìn chung, dạy học đọc hiểu và phương
pháp tích hợp hiện nay chưa được hiện thực hóa một cách toàn diện, đồng bộ, chưa mang lại
hiệu quả cao trong giảng dạy… Đặc biệt, với môn Ngữ văn, một bộ phận khơng nhỏ HS có thái
độ khơng thích học và yếu kém về năng lực cảm thụ văn chương đã ít nhiều tác động tiêu cực
đến người dạy. Nhiều giáo viên (GV) dạy Văn có tâm lí chán nản, bng xi, khơng có động
lực để trau dồi chun môn, tạo sức ỳ lớn trong tư duy đổi mới, cải tiến phương pháp giảng dạy.

Hay ở môn Địa lý, mơn học cần học sinh tư duy nhiều hình tượng thơng qua phương tiện
dạy học trực quan thì các em không biết sử dụng như thế nào là đúng, là đủ, như thế nào là
nguồn tri thức… vậy nên không tích cực, chủ động học tập và nghiên cứu. Có học sinh, do hạn
chế về kinh nghiệm tiếp cận bản đồ, khơng nhận thức được đầy đủ về hình ảnh trực quan như:
hình cầu, hình e líp gần trịn… Và khi yêu cầu các em xác định đối tượng trên tranh ảnh giáo
khoa, bản đồ các em không biết bắt đầu từ đâu và như thế nào. Cịn nếu tìm được các đối tượng
rồi thì chỉ dừng ở mức nhận biết chứ chưa nhìn thấy mối quan hệ và ý nghĩa của đối tượng đối
với vấn đề phát triển kinh tế, xã hội của vùng (khu vực hoặc quốc gia); chưa thấy được mối
quan hệ của đối tượng đó đối với các thành phần tự nhiên khác. Khi nhận xét bảng số liệu, học
sinh thường chuyển từ kênh hình sang kênh chữ bằng cách liệt kê lần lượt sự biến đổi các đối
tượng. Điều này cho thấy kiến thức và kỹ năng của học sinh còn rất mơ hồ, dẫn đến tình trạng
các em chỉ học thuộc kiến thức ghi trên lớp mà khơng hiểu gì về bản chất vấn đề mình đang nói.


Riêng môn Lịch sử là môn học mà đa số học sinh đều có cảm giác “sợ” khi
đối diện dẫn đến khơng ham thích và kết quả đem lại thấp, bởi lẽ: Thứ nhất, các
em rất hay lẫn lộn và khó nhớ các sự kiện về ngày, tháng, năm. Thứ hai, hiện
tượng trong mơn học có nhiều sự kiện diễn biến phức tạp, thời lượng chương trình
dài và lại là mơn học bài nhiều (tuy có giảm tải nhưng nội dung học trong chuẩn
kiến thức vẫn còn dài). Cộng thêm mơn học có nhiều kiến thức cần phải tích hợp
như: mơi trường, kỹ năng sống, tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật... cũng dẫn đến
sự lười, chán học ở đa số các học sinh.
Cũng tương tự như các môn xã hội khác, GDCD là môn học tổng hợp nhiều
tri thức khoa học, vừa góp phần nâng cao nhận thức vừa giúp các em hoàn thiện
nhân cách bản thân. Tuy nhiên, với xu hướng kinh tế thị trường hiện nay tình trạng
học sinh tỏ ra coi thường các giá trị mà môn học mang lại là rất phổ biến. Một đặc
thù nữa của bộ môn này là sự liên kết, phối hợp của gia đình với nhà trường để
giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho các em học sinh tuy nhiên phần lớn phụ
huynh vì khơng đủ thời gian hoặc chưa nhận thức hết ý nghĩa việc học của con em
mình nên khâu phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh chưa được thường

xuyên. Còn bản thân các em học sinh các trường phổ thông hiện nay do chịu nhiều
áp lực học tập từ nhiều bộ môn, đồng thời do sự thay đổi trong thi cử mà chương
trình học tập các bộ mơn khoa học nói chung rất nặng, các bộ mơn KHXH trong
đó có mơn GDCD THPT thì kiến thức nhiêu khê, ít chú trọng thực hành. Cách học
tập và kiểm tra đánh giá vẫn theo lối truyền thống chủ yếu là ghi nhớ, học thuộc
lòng; kỹ năng hoạt động, kỹ năng sống, kỹ năng tra cứu thơng tin của học sinh cịn
nhiều hạn chế.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do đối tượng học
sinh chuyển cấp từ bậc tiểu học lên Trung học cơ sở (THCS) hay từ THCS lên
THPT còn nhiều bỡ ngỡ với cơ chế học mới. Đây là một trở ngại khá lớn khi các
em lại phải tiếp tục tìm hiểu khám phá những kiến thức cao hơn, rộng lớn hơn,
trừu tượng hơn. Chương trình sách giáo khoa các mơn KHXH vẫn cịn những bài
dung lượng kiến thức lớn so với thời lượng trên lớp nên học sinh càng khó tiếp thu
kiến thức.


Ngồi các ngun nhân trên, đơi khi các em học sinh khơng có hứng thú học tập cũng
bắt nguồn từ công tác giảng dạy. Giáo viên, trước hơn hết phải là người gợi mở, dẫn dắt và phải
tạo được sự hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Với một giáo viên nổi tiếng
nghiêm khắc, e rằng khó có thể tạo hứng thú học tập cho các em, mà thay vào đó chỉ là tâm lý
sợ sai mà các em ln phải duy trì trong suốt giờ học. Khơng những thế, ngày nay các giáo viên
cịn mắc một lỗi phổ biến khiến các em không hứng thú học đó là: thiếu tính sáng tạo trong
giảng dạy. Phần lớn giáo viên vẫn chưa áp dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến trong giảng dạy nhất là
các phương tiện công nghệ thơng tin để hỗ trợ. Vấn đề này địi hỏi sự cải thiện rất nhiều từ đội
ngũ giáo viên và sự đầu tư phương tiện vật chất, kỹ thuật từ nhà trường.

Trên đây là một số hiện trạng, thách thức bấy lâu trong dạy và học các môn
KHXH ở nhà trường phổ thơng. Tình trạng chung đó đã dẫn đến tâm lý chán nản
của nhiều học sinh, vị thế hạn chế của các mơn KHXH, người giáo viên ít có sự
đổi mới trong phương pháp dạy, kiểm tra đánh giá mơn học, nâng cao trình độ bản

thân.
2. Cơ hội mới cho các môn KHXH trong nhà trường THPT
2.1. Khẳng định vị thế các mơn KHXH
Đó là mối quan hệ giữa mục tiêu “dạy chữ”, “dạy người” và định hướng
nghề nghiệp ở nhà trường phổ thông. Bản thân người dạy và cả người học cần hài
hòa giữa hai mục tiêu cao đẹp ấy. “Dạy chữ” phải gắn liền với “dạy người”. Do
đó, người giáo viên ngồi nhiệm vụ truyền thụ kiến thức phổ thông cũng cần phải
chú trọng đến chức năng “giáo dục” nhân cách người học. Mặt khác, người giáo
viên cần thường xuyên định hướng, khơi gợi niềm say mê lao động, tìm hiểu
ngành nghề tương lai cho các em học sinh khối KHXH. Vì vậy, khi xây dựng
chương trình các mơn KHXH phải phát triển chương trình theo định hướng năng
lực. Muốn làm được như vậy, nhà trường THPT cần có những kế hoạch, chiến
lược hướng nghiệp, khẳng định vai trị khơng thể thiếu của các mơn KHXH trong
việc phát triển tồn diện cho học sinh. Ln đặt các môn KHXH trong mối quan
hệ biện chứng với khoa học tự nhiên.
Cập nhật với tình hình hiện nay, sự điều chỉnh về cách thức tổ chức kỳ thi
tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng, trong đó có việc điều chỉnh, sắp xếp
lại cơ cấu các môn ở các khối thi có thể tác động lớn đến tư tưởng, nhận thức cũng
như động lực học tập các môn KHXH của học sinh. Trong năm 2015, cùng với


việc tổ chức một kỳ thi Quốc gia chung, kết quả của kỳ thi vừa để xét tốt nghiệp
vừa là căn cứ tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng xuất hiện những nét
mới trong cơ cấu phân bổ khối thi. Theo đó, lần đầu tiên sau 13 năm thực hiện
tuyển sinh theo phương thức “3 chung”, đã xuất hiện một số tổ hợp mới trong
khối thi với sự góp mặt nhiều hơn của các mơn KHXH.
Ví dụ như tổ hợp: Toán, Vật lý, Ngữ văn; Tiếng Anh, Ngữ văn, Lịch sử;
Tốn, Hóa học, Ngữ văn; Tiếng Anh, Lịch sử, Tốn; Hóa học, Địa lý, Tiếng Anh…
Đáng nói là, nhiều nhóm ngành kỹ thuật, kinh tế cũng quyết định sử dụng các môn
KHXH trong tổ hợp khối thi mới. Đây có thể xem là một tín hiệu đáng mừng

trong việc cải thiện vị trí của các mơn xã hội trong hệ thống các mơn học thuộc
chương trình giáo dục phổ thơng hiện nay.
Song song đó, nhà trường phổ thơng nên giáo dục cho học sinh gạt bỏ
những suy nghĩ có tính phân biệt mơn KHXH như: mơn chính, mơn phụ, môn
không thi đại học, chỉ học khoa học tự nhiên mới phát triển tốt tư duy… Cần phải
giúp học sinh hiểu rằng, học không chỉ để thi đỗ và kiếm tiền mà còn học để biết,
học để làm và học để chung sống với cộng đồng.
2.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập
Trước thời cơ và thách thức của việc đổi mới dạy học các môn KHXH ở
trường phổ thông trong thời gian tới, chúng ta cần thay đổi từ chương trình tập
trung vào nội dung hiện tại sang chương trình hướng đến hình thành và phát triển
năng lực của học sinh. Với cách tiếp cận như vậy, việc thực hiện đổi mới chương
trình, sách giáo khoa các môn KHXH từ sau năm 2015 về nội dung bảo đảm ở bậc
tiểu học và THCS thực hiện tốt hơn phương châm dạy học tích hợp, ở THPT có
thêm nhiều nội dung dạy học tự chọn. Nội dung giáo dục cần mang tính chuẩn
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Cụ thể là ở mơn Lịch sử, ngồi những nội dung qui định trong chương
trình, người dạy cần làm hấp dẫn bộ môn bằng cách chủ động giới thiệu thêm các
sự kiện lịch sử của địa phương và đất nước, đặt ra các nhiệm vụ giữ gìn và phát
huy các giá trị lịch sử để học sinh càng q trọng thành quả đấu tranh giữ nước của
cha ơng và hiểu rằng học lịch sử không chỉ để biết, để thi cử mà còn để bồi dưỡng


tình u q hương đất nước. Ngồi sách giáo khoa ra, chương trình học cần có
nội dung được giảng dạy tích hợp với các mơn học có liên quan. Nhà trường cần
thường xuyên quan tâm thực hiện các hoạt động ngoại khóa nhằm tăng cường
khai thác tư liệu bảo tàng, tổ chức dạy lịch sử tại bảo tàng, nhà truyền thống, từng
bước thực hiện giáo dục di sản và dạy học theo dự án cho học sinh.
Còn đối với bộ môn Địa lý khối THCS, nên tùy theo khối lớp mà có
phương pháp dạy cho phù hợp như:

Với khối lớp 7, 8 trong các tiết ôn tập người giáo viên nên cho học sinh
thảo luận theo hình thức khăn trải bàn, sơ đồ tư duy, mảnh ghép... trả bài bằng
cách cho học sinh lên bảng vẽ sơ đồ tư duy và cuối giờ nếu còn thời gian giáo viên
nên cho học sinh viết sơ đồ tư duy bài vừa mới học. Đối với khối lớp 9 các tiết
làm bài tập Địa lý, giáo viên hướng dẫn học sinh cách sử dụng Atlat nhằm mục
đích hạn chế học sinh học máy móc, học thuộc lịng. Giáo viên giảng dạy thường
xun cho học sinh sưu tầm ảnh về môi trường, du lịch, các đới cảnh quan, các
hình ảnh có liên quan đến bài học... đóng thành một quyển, các tiết trả bài hoặc ơn
tập cho học sinh nhìn vào ảnh để trả lời các câu hỏi.
Với mơn học Địa lý ngồi việc sử dụng hiệu quả các phương pháp giảng
dạy trên cần kết hợp thêm một số phương tiện dạy học trực quan để tiết học thêm
sinh động như: bảng số liệu, biểu đồ, atlat, tranh ảnh, quả địa cầu... Vấn đề người
giáo viên phải biết kết hợp sử dụng làm sao để phương tiện dạy học trực quan
không biến thành vật minh họa mà có vai trị như nguồn gốc của tri thức.
Ví dụ: cũng với bản đồ nếu giáo viên không vừa giảng vừa chỉ minh họa mà
đặt các câu hỏi yêu cầu các em học sinh quan sát và trả lời sẽ mang lại hiệu quả
cao hơn. Chẳng hạn: Các em hãy quan sát bản đồ cho biết vị trí của nước ta
(nước ta nằm ở đâu?) Phía bắc giáp với nước nào? Phía tây giáp với nước nào?
Em có nhận xét gì về hình dạng của nước ta? ... Các em học sinh hồn tồn có thể
trả lời được những câu hỏi như vậy. Khi này người giáo viên không cần cung cấp
kiến thức cho học sinh mà chỉ dùng hệ thống câu hỏi mở đưa học sinh vào một
q trình học tập tích cực (tích cực suy nghĩ, động não khi quan sát, quan sát một
cách tỉ mỉ...) để tìm ra câu trả lời. Những câu trả lời của các em cũng chính là


nguồn kiến thức của bài học. Như vậy giáo viên đã dẫn dắt học sinh tự khám phá
ra kiến thức bài học cho mình.
Trong giảng dạy mơn Ngữ văn, do đặc thù bộ mơn mang tính văn chương,
triết lý cao, vì vậy để mang lại khơng khí hứng thú trong học tập thì phương pháp
trị chơi học tập và đóng vai, diễn kịch rất phù hợp để người giáo viên áp dụng.

Phương pháp đóng vai, diễn kịch thường có tác dụng trong việc phát triển
“kỹ năng giao tiếp” của học sinh. Ngồi ra cịn mang đến cho học sinh cơ hội
thâm nhập tìm hiểu tâm tư, thái của độ nhân vật trong từng tác phẩm văn học. Từ
đó thơi thúc lịng say mê như chính mình được sống trong câu chuyện. Thậm chí
học sinh có thể tự đưa ra hay sáng tạo những tình huống theo nội dung bài học mà
mình đóng vai, diễn kịch.
Khi vào bài, giáo viên có thể chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ. Mỗi nhóm được u cầu
tìm hiểu một thơng tin trong bài. Ví dụ: Để phân loại kiến thức về danh từ, động từ, tính từ,
hốn dụ, nhân hóa, diệp ngữ, tứ láy, từ ghép, từ phức… giáo viên có thể dùng đồ dùng dạy học
trong một số trò chơi như: tiếp sức, điền vào chỗ trống trong các sơ đồ khuyết, dạng trò chơi
“trúc xanh” … khơng chỉ tạo thêm khơng khí sinh động trong giờ học mà còn giúp học sinh
khắc sâu kiến thức, nhanh hiểu bài.

Ngoài các phương pháp trên, trong giảng dạy các mơn KHXH nói chung và
các mơn Văn, GDCD nói riêng cũng cần nhắc đến phương pháp trải nghiệm.
Phương pháp trải nghiệm về bản chất là cách dạy học trong đó giáo viên đặt
ra những tình huống có vấn đề, yêu cầu học sinh, trên cơ sở vận dụng những hiểu
biết của bản thân hoạt động tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn
đề và thơng qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện các kỹ năng sống và đạt được
những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học trải nghiệm là giáo
viên tạo ra những tình huống gợi vấn đề để khai thác vốn sống, vốn hiểu biết, trải
nghiệm của học sinh, kích thích học sinh hứng thú, sáng tạo trong học tập. Đây là
cách dạy học không ảnh hưởng nhiều đến thời gian, nội dung cũng như phương
pháp đặc thù bộ mơn nhưng lại có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao chất lượng; vận
dụng dễ, phù hợp tâm lí lứa tuổi học sinh và đặc thù bộ môn Ngữ văn, GDCD...


Chẳng hạn, khi dạy những bài học về thơ, văn của Bác, người giáo viên áp
dụng câu hỏi đặt ra tình huống hoặc những thơng tin, hiểu biết, mẫu chuyện... khai
thác những điều học sinh ít nhiều đã nghe, biết trong cuộc sống trải nghiệm bản

thân về Bác. Trên cơ sở những thơng tin học sinh vừa cung cấp đó, giáo viên dùng
làm đề dẫn kết hợp giới thiệu bài học mới. Nếu dạy bài chữa lỗi dùng từ, giáo viên
có thể lấy ngữ liệu từ những bài viết Tập làm văn của các em, trích những câu,
đoạn học sinh dùng từ sai đọc hoặc viết ra, sau đó yêu cầu cả lớp (nghe hoặc quan
sát) phát hiện ra. Trên cơ sở đó, giáo viên dùng làm đề dẫn kết hợp giới thiệu bài
học mới.
Đối với môn GDCD, hiện nay chương trình sách giáo khoa ở các khối
10,11,12 cơ bản phù hợp với nhận thức của học sinh (đã giảm tải theo quy định
của Bộ GDĐT), phát huy được tính tích cực, tư duy của học sinh, khả năng vận
dụng kiến thức đã học để lí giải một số vấn đề thực tiễn đặt ra trong cuộc sống.
Nhiều giáo viên bộ mơn đã nỗ lực tìm con đường đi sao cho tiết dạy của mình đạt
hiệu quả cao, giúp học sinh nắm bắt được trọng tâm của bài học một cách nhẹ
nhàng và sinh động nhất, cố gắng xóa bỏ định kiến mơn chính, mơn phụ trong dạy
và học GDCD khối THPT.
2.3. Ứng dụng hiệu quả CNTT trong giảng dạy các môn KHXH ở
trường phổ thông
Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học thì đã rõ, song để thực hiện được rộng
khắp trong tồn ngành thật khơng đơn giản. Nó địi hỏi người thầy khơng chỉ có bản lĩnh nghề
nghiệp vững vàng, mà cịn phải tự mình vượt qua những thói quen đã ăn sâu, bám rễ. Trong đó,
việc ứng dụng CNTT vào trong các bài giảng hiện nay là một nhu cầu khơng thể thiếu. Cụ
thể:
Các hình thức giảng dạy hiệu quả được giáo viên thường xuyên sử dụng là: dạy trình
chiếu với cách thiết kế các slide có hình thức gần giống với bảng truyền thống (màu sắc, cách
chia bảng, cách trình bày đầu bài, đề mục,...); sử dụng máy chiếu như là phương tiện hỗ trợ
cung cấp kênh hình với nhiều hình ảnh sinh động, âm thanh, video mà không phải mang vác
nhiều tranh ảnh, bảng phụ, máy móc thiết bị khác...

Người giảng dạy cần thường xuyên tham gia lập và sử dụng “nguồn học
liệu mở” về đề thi, giáo án, tài liệu tham khảo trên website của Bộ giáo dục, Sở
Giáo dục và đào tạo cùng website các trường bạn... Đẩy mạnh việc khai thác tài



nguyên trên mạng Internet phục vụ công tác giảng dạy của người giáo viên thông
qua bồi dưỡng, tập huấn, cung cấp địa chỉ hoặc mở liên kết với trang web của các
trường.
Khi thiết kế bài giảng điện tử, giáo viên cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu
(Video, hình ảnh, bản đồ…) chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới
bắt tay vào soạn giảng. Nếu sử dụng phần mềm PowerPoint thì cần lưu ý về Font
chữ, màu chữ và hiệu ứng thích hợp (hiệu ứng đơn giản, nhẹ nhàng tránh gây mất
tập trung vào nội dung bài giảng). Muốn được như vậy, nội dung bài giảng điện tử
cần cơ động, xúc tích, hình ảnh, các mơ phỏng cần sát chủ đề (trong 1 slide khơng
nên có nhiều hình hay nhiều chữ), nội dung bài giảng chứa nhiều liên kết nhất là
liên kết đến hệ thống câu hỏi để khắc phục những tình huống sư phạm phát sinh
(như nhắc lại kiến thức, dàn bài, hết giờ…), cần khai thác thế mạnh của CNTT
trong kiểm tra đánh giá và kiểm chứng kết quả. Kết thúc tiết dạy, người giáo viên
củng cố bài cần hướng đến các câu hỏi mang tính vận dụng hay các hình thức trắc
nghiệm nhanh trên PowerPoint máy chiếu.
Đặc biệt đối với môn Văn, trong quan niệm truyền thống người ta thường cho rằng
không cần thiết phải ứng dụng CNTT. Người giáo viên dạy văn vẫn có thế dạy rất hay mà
khơng cần đến sự hỗ trợ của CNTT. Bởi việc ứng dụng có thể làm mất cảm xúc của giáo viên
trong quá trình giảng dạy. Nhưng thật ra, chúng ta đang sống giữa thời đại công nghệ và kỹ
thuật số. Người học ngày nay luôn trong hồn cảnh bị bao vây bởi thế giới cơng nghệ. Nếu
người dạy văn hồn tồn khơng biết và khơng ứng dụng được những thiết bị hỗ trợ hiện đại thì
chính là bản thân giáo viên đang xa rời với thực tại chung. CNTT không hề làm mất đi cảm xúc
mà ngược lại còn tác động làm cho cảm xúc được tăng thêm. Khi người học hứng thú với môn
học thì người giáo viên mới thật sự có cảm xúc.
Ví dụ, khi dạy về bài hai cây phong, giáo viên có thể đưa học sinh đến với hình ảnh này
trên internet để học sinh có thể quan sát cây phong thật ngồi đời, tạo khơng khí hứng thú để
việc cảm thụ tác phẩm này được hiệu quả. Hoặc khi dạy về thuyết minh một lễ hội nào đó, qua
CNTT Giáo viên có thể đưa học sinh đến với bầu khí, những hoạt động rất thực tế và sinh động

của lễ hội đó thì rõ ràng tiết dạy sẽ đạt hiệu quả hơn rất nhiều.
Nói tóm lại, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy các môn KHXH mang lại rất nhiều
ưu điểm như nâng cao hiệu quả tiếp nhận, tạo hứng thú cho người học, tiết kiệm được thời gian.
Như vậy máy tính, Internet khơng phải là những cơng cụ vơ hồn, nếu chúng ta biết cách ứng
dụng thì chúng sẽ hỗ trợ rất đắc lực cho việc dạy học rất nhiều. Chính vì vậy, người giáo viên


cần phải nâng cao trình độ tin học, nắm vững những kiến thức cơ bản của SGK, chuẩn kiến thức
kỹ năng u cầu của mơn học…, nghiên cứu, tìm tịi một số phần mềm có liên quan để soạn
giáo án điện tử như phần mềm Power Point, Prezi, Potatoes, Proshow…

Kết luận
Trên đây là một số hiện trạng, thách thức bấy lâu trong dạy và học các môn
KHXH ở nhà trường phổ thơng. Tình trạng chung đó đã dẫn đến tâm lý chán nản
của nhiều học sinh, vị thế hạn chế của các mơn KHXH, ít có sự đổi mới trong
phương pháp dạy, kiểm tra đánh giá môn học, nâng cao trình độ giáo viên… Cùng
với yêu cầu về đổi mới giáo dục đã mở ra nhiều cơ hội cho các mơn KHXH.
Chính vì vậy, tham luận trình bày một số phương hướng trong giảng dạy và học
tập đạt hiệu quả ở nhà trường phổ thông. Các phương pháp được đề xuất tuy
không mới nhưng với thời đại giáo dục mới như hiện nay thì cần mỗi người giáo
viên và học sinh có cái nhìn đúng đắn về vai trị của đổi mới phương pháp dạy và
học để từng bước phát huy tính tích cực trong học tập các mơn KHXH. Vẫn biết
rằng việc đổi mới giáo dục các môn KHXH trong nhà trường phổ thơng cịn cần
rất nhiều thời gian để đồng bộ hóa tuy nhiên với những dấu hiệu tích cực như trên
chúng ta hồn tồn có thể tin tưởng vào kết quả của chương trình đổi mới giáo
dục, đào tạo và tương lai tươi sáng cho các môn KHXH ở trường phổ thông trong
thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đặng Thành Hưng (2004), Thiết kế phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hóa, Tạp chí giáo dục số 102 (chuyên đề), quý IV/2004, trang 10.
2.
Nguyễn Ngọc Quang (1989), Những khái niệm cơ bản về lý luận
quản lý giáo dục, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3.
Trần Bá Đệ chủ biên (1992), Một số vấn đề về nội dung và phương
pháp giảng dạy lịch sử Việt Nam lớp 12 CCGD: Sách bồi dưỡng giáo viên PTTH,
Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội.
4.
Nguyễn Vinh Hiển (2009), Đánh giá tình hình năm học 2008-2009
và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ


thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2009-2010,
Tạp chí Khoa học giáo dục, số 48, tr 1-4.
5.
Lê Xuân Trường (2004), Một số biện pháp sử dụng nguồn lực tài
chính nhằm phát triển giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay, Nxb Hà Nội.
6.
Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đào tạo giáo viên công nghệ đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục phổ thông, Tạp chí Khoa học ĐHSP Hà Nội, 2005.
7.
Hồng Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy nghiên
cứu văn học dân gian, Nxb Giáo dục.



×