Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

VAI TRÒ CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI TRONG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.93 KB, 9 trang )

VAI TRỊ CÁC MƠN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRONG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG HIỆN NAY


Ngơ Thị Như∗

TĨM TẮT
Ở thời đại nào cũng vậy, khoa học ln là một trong những động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội lồi người. Do đó, việc giáo dục tri thức khoa học, trong đó có
khoa học xã hội, đối với mọi người, đặc biệt đối với thế hệ trẻ, là công việc cần
thiết. Trong giáo dục nhà trường bậc phổ thông ở Việt Nam hiện nay, các môn khoa
học xã hội như lịch sử, văn học, giáo dục cơng dân,… đóng vai trị quan trọng
trong việc bồi đắp nhân cách và đạo đức học sinh. Tuy nhiên, thực tế triển khai dạy
học các môn khoa học xã hội này vẫn cịn nhiều bất cập cả từ phía người dạy và
người học. Với bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, khi mà sự hội nhập kinh tế kéo
theo sự giao thoa văn hóa thì khơng thể tránh khỏi tình trạng lệch lạc đạo đức và
lối sống ở một bộ phận khơng nhỏ thế hệ trẻ. Do đó, giáo dục các môn khoa học xã
hội trong nhà trường phổ thông hơn bao giờ hết cần phải thể hiện được vai trò đặc
biệt trong bồi dưỡng đạo đức học sinh.
Từ khóa: khoa học xã hội, giáo dục, đạo đức, học sinh, nhà trường
1. Đặt vấn đề
Khoa học xã hội là khoa học nghiên cứu các hiện tượng xã hội, bao gồm chính trị học,
kinh tế học, pháp luật học, giáo dục học, văn học, lịch sử, mĩ học,… những phạm trù thuộc
thượng tầng kiến trúc xã hội. Khoa học xã hội có nhiệm vụ nghiên cứu các quy luật hình
thành và phát triển của xã hội và con người, cùng mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người với mơi trường tự nhiên và xã hội. Vì vậy, khoa học xã hội ngày càng có vai
∗ TS., Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.


trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia, nhất là trong


thời đại tồn cầu hóa. Khoa học nói chung, khoa học xã hội nói riêng chưa bao giờ tách rời
khỏi đời sống xã hội mà trong đó có đời sống tinh thần và đạo đức của con người.
Ở bậc học phổ thông, các môn khoa học xã hội cụ thể được giảng dạy là lịch sử, văn học,
giáo dục công dân,… Khoa học xã hội trong trường phổ thông có chức năng cơ bản là cung
cấp đến học sinh tri thức chung nhất về lịch sử, xã hội, mối quan hệ của con người với xã hội
con người đang sống. Có thể nói, mục tiêu tối hậu của các khoa học xã hội là hướng đến con
người, nghiên cứu con người và xã hội bằng hệ quy chiếu nhân văn.
Cụ thể hơn, mơn lịch sử có nhiệm vụ cung cấp những tri thức về lịch sử phát triển của xã
hội loài người từ khi loài người xuất hiện đến nay, đó là những kiến thức lịch sử thế giới, lịch
sử dân tộc về tất cả các mặt như kinh tế, chính trị, văn hố,… nhằm dựng lại những bức tranh
toàn cảnh về quá khứ một cách khách quan, sống động, về truyền thống đấu tranh bất khuất
trong dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam anh hùng, truyền thống nhân đạo sâu sắc
và rất nhiều những truyền thống, giá trị cao đẹp khác của dân tộc Việt Nam. Hơn tất cả, bộ
mơn lịch sử có vai trị vô cùng quan trọng trong giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước

nhà Việt Nam”. Điều đó có nghĩa là muốn giữ gìn và phát huy được những truyền thống hào
hùng đó thì trước tiên phải nắm và hiểu rõ được lịch sử của dân tộc mình, mơn học lịch sử có
vai trị quan trọng trong vấn đề này.
Với mơn Văn học, nói đến chức năng của văn học là nói đến vai trò, tác dụng của văn học
đối với đời sống xã hội, con người mà các hình thái ý thức xã hội khác khơng thể thay thế
được. Có thể xem việc rèn luyện, phát triển những năng lực tình cảm của con người như một
ý nghĩa xã hội quan trọng của văn học. Bởi thế, bên cạnh các chức năng nhận thức, thẩm mỹ,
dự báo, giải trí… thì chức năng giáo dục là một chức năng vô cùng quan trọng mà văn học
mang tới cho đời sống con người. Vũ Quỳnh đã từng nói: “Văn chương có khả năng khuyến
điều thiện, răn điều ác, bỏ giả, theo thật”. Còn Macxim Gorki trong bài viết Tôi đã học tập

như thế nào lại tâm sự: “Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách
khỏi con thú để lên tới gần Con Người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất và về sự
thèm khát cuộc sống ấy”. Và, văn học là một trong những loại sách, như quan niệm của M.

Gorki, giúp người đọc “tới gần Con Người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất”.


Văn học, bằng những hình tượng thẩm mỹ được xây dựng nên bởi một thứ chất liệu đặc biệt
- ngôn ngữ nghệ thuật, có khả năng làm cho con người ta tốt hơn hoặc là hoàn thiện hơn về
nhân cách, nếu đó là thứ văn học chân chính. Giáo dục ở văn học chính là tạo nên những giá
trị tinh thần, bồi dưỡng tâm hồn và tình cảm, xây dựng nhân cách và bản lĩnh cho mọi thế hệ
công dân, góp phần tạo nên mơi trường đạo đức xã hội trong sáng, lành mạnh, có văn hóa.
Với việc xây dựng nên những hình tượng thẩm mỹ, văn học hoặc làm cho con người yêu
mến kính trọng, hoặc khinh bỉ căm ghét, hoặc đau đớn xót thương, hoặc căm giận trào sơi.
Văn học góp phần ni dưỡng tâm hồn, trí tuệ, tình cảm đạo đức cho con người bằng cách
tập cho người đọc một thói quen cảm thụ tinh tế, mài sắc cho họ cảm quan nhận thức, khả
năng nhận ra cái chân, cái thiện, cái mỹ trong đời sống bộn bề. Từ chỗ say mê, xúc động
mãnh liệt, văn học làm cho con người nhận ra lẽ phải - trái, cái đúng - sai, nhận ra sự lầm lạc.
Bởi thế, cần khẳng định rằng, mục đích của văn học khơng phải là đạo đức, mục đích của nó
là chuẩn bị cho con người tiếp thu đạo đức. Văn học có khả năng thanh lọc và cảm hóa con
người rất lớn.
Mơn giáo dục công dân là một môn học phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội. Các tri thức trong môn giáo dục công dân là tri thức về triết học, kinh tế chính trị học,
chủ nghĩa xã hội khoa học, đạo đức học, pháp luật học, đường lối, chính sách của Đảng dưới
dạng phổ thơng hóa. Các kiến thức đó được sắp xếp, bố trí hợp lý, kết cấu chặt chẽ, logic,
phù hợp với tâm sinh lý học sinh THPT. Giáo dục công dân là một trong những bộ môn khoa
học được đưa vào dạy và học từ THCS đến THPT, là môn khoa học xét về cả nội dung lẫn
hình thức, cả về đối tượng và chức năng mơn học. Do đó mơn giáo dục công dân cần được
đối xử một cách công bằng, nghiêm túc và trân trọng.
Bản chất mỗi con người sinh ra là thánh thiện, là tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Do vậy, bên cạnh sự giáo dục
đạo đức ở gia đình, việc giáo dục đạo đức ở nhà trường cũng rất quan trọng. Mỗi người đều
trải qua một khoảng thời gian khơng ít để đến trường học tập. Ngay từ bé, chúng ta được đến
trường mầm non để học cách giao tiếp. Đến khi vào học tiểu học, các em học sinh bắt đầu

được thầy cô dạy chữ, dạy cách làm người. Rồi đến bậc trung học cơ sở thì nhân cách các em
cũng dần dần được hồn thiện. Bậc trung học phổ thơng, học sinh xem như cơ bản đã hoàn
thành việc học chữ, học làm người và có đủ trình độ chuẩn bị bước vào cổng trường đại học,


cao đẳng, trung học chuyên nghiệp để trở thành những trí thức góp phần xây dựng đất
nước. Thực tế cho thấy, hiện nay, học sinh ở các cấp học đều có những biểu hiện suy thối về
đạo đức. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này. Một trong những nguyên nhân đó là
do một số giáo viên chỉ chú trọng dạy chữ mà chưa quan tâm đến việc dạy học sinh cách làm
người. Một phần do thời lượng chương trình khơng cho phép giáo viên bộ mơn có thêm thời
gian uốn nắn học sinh. Một phần do nhận thức sai lệch của giáo viên khi cho rằng, giáo dục
đạo đức học sinh là trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm hay giáo viên giảng dạy các môn
khoa học xã hội mà quên rằng đây là trách nhiệm chung của tất cả các giáo viên đứng lớp. Vì
vậy, giáo viên dạy các môn khoa học xã hội càng phải ý thức được trách nhiệm to lớn cuả
mình trong việc bồi đắp nhân cách cho học sinh. Thông qua các tiết dạy, giáo viên vừa trang
bị kiến thức, vừa trang bị kỹ năng sống và vừa giáo dục đạo đức trong học sinh.
2. Thực trạng giảng dạy và học tập các môn KHXH trong trường THPT hiện nay
Sách giáo khoa phổ thơng hiện hành gần như tóm tắt sách sử của người lớn để cho học
sinh học. Chương trình đồng tâm của môn lịch sử chưa sâu, chưa thực sự nâng cao về nhận
thức, trình độ học sinh mà lên trung học phổ thông, các em lại phải học lại những nội dụng
đã học ở trung học cơ sở. Mặc dù đã có phần chuẩn kiến thức, kỹ năng nhưng vẫn chưa thể
hiện được rõ mức độ cần đạt. Cấu trúc chương trình sách giáo khoa chưa thật cân đối giữa
lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới, lịch sử khu vực, giữa các nội dung về chính trị với kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Lịch sử cần là một trong những mơn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thơng.
Đổi mới chương trình theo hướng chuyển từ cách tiếp cận nội dung truyền thụ kiến thức là
chủ yếu sang tiếp cận mục tiêu phát triển năng lực học sinh phổ thông. Môn lịch sử cần phải
trở thành một trong những mơn học nền tảng suốt đời. Chương trình và sách giáo khoa lịch
sử có nhiệm vụ chủ yếu là góp phần giáo dục phẩm chất và năng lực con người Việt Nam để
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng mới “hoạt động ngoại khóa sáng tạo” của

môn lịch sử trên cơ sở kết hợp hoạt động theo khả năng hiện có như dạy học ở di sản, bảo
tàng lịch sử, gặp gỡ nhân chứng lịch sử.
Về thực trạng của môn văn học, phần lớn học sinh trong nhà trường phổ thông, nhất là học
sinh trung học đang dần chán học bộ môn này, học với một tâm lý ép buộc, miễn cưỡng, học
cho xong. Hơn thế, áp lực bối cảnh xã hội hiện đại và xu thế thực dụng trong việc lựa chọn


ngành nghề, công việc để thăng tiến và đảm bảo cuộc sống, mưu sinh của người học.
Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn chưa hấp dẫn, thiết thực, chưa đáp ứng được nhu
cầu và sở thích của người học. Tư tưởng đổi mới quan trọng nhất đối với môn học là: chuyển
từ nội dung sang phát triển năng lực, năng lực văn học thể hiện mang tính chất cơng cụ, làm
thế nào để học sinh phát triển năng lực giao tiếp ngơn ngữ qua các kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết.
Về thực trạng dạy và học môn giáo dục công dân trong nhà trường phổ thơng hiện nay,
chương trình, sách giáo khoa giáo dục đạo đức - công dân hiện hành đã có những ưu điểm so
với với chương trình, sách giáo khoa trước đó. Phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết
quả giáo dục đã có những chuyển biến tích cực. Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đã có
những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, chương trình, sách giáo khoa hiện này đặt ra mục tiêu
kiến thức quá cao, không phù hợp với năng lực và tâm lý nhận thức của học sinh phổ thông.
Kiến thức về pháp luật, triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học ở nhiều bài học
trong sách giáo khoa cịn khơ khan, trừu tượng, khó hiểu, tạo áp lực cho việc dạy và học.
Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, chủ yếu tiến hành trong phịng học.
Mục tiêu giáo dục sẽ góp phần xây dựng con người như thế nào? Mỗi môn học sẽ có
nhiệm vụ gì, tác động vào khía cạnh nào trong việc xây dựng con người? Từ đó, hướng tới sẽ
đổi mới như thế nào trong quá trình dạy và học các môn khoa học xã hội ở bậc phổ thông
trung học nhằm bồi dưỡng đạo đức cho học sinh. Và q trình đổi mới đó cần phải đảm bảo
ngun tắc bảo tồn và phát huy cốt lõi những giá trị đạo đức của con người Việt Nam.
Qua các giai đoạn lịch sử dù có điều chỉnh, bổ sung như thế nào, nhưng cốt lõi những giá
trị đạo đức của con người Việt Nam trong lịch sử được đa số các nhà khoa học thừa nhận
là “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng

gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lí; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống” 1, đều
được các thế hệ Việt Nam kế thừa và phát huy, bổ sung thêm những nội dung mới.
Trong bối cảnh hiện nay, để đáp ứng những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, tiêu chí
đạo đức con người Việt Nam phải đạt được là: “Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc,
1 Đảng Cộng Sản Việt Nam 1997,Văn kiện hội nghị lần thứ V – BCH TW Đảng khố VIII, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1998, tr.56.


phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên để đưa đất nước thốt
khỏi nghèo nàn lạc hậu, đồn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hồ
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi
ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỉ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao
vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết,
trình độ chun mơn, trình độ thẩm mĩ và thể lực”2.
Trên cơ sở những tiêu chí về đạo đức của con người mới mà Đảng cộng sản Việt Nam đã
định hướng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cụ thể hố những nội dung đó bằng các thông tư,
quy định, quy chế chỉ đạo các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông xếp loại
hạnh kiểm học sinh theo những chuẩn mực khác nhau. Đối với học sinh tiểu học, giáo viên
đánh giá đạo đức học sinh dựa vào kết quả rèn luyện đạo đức và kĩ năng sống qua việc thực
hiện 5 nhiệm vụ:
- Thực hiện đầy đủ và có kết quả học tập; chấp hành nội quy nhà trường; đi học đều và
đúng giờ; giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập.
- Hiếu thảo với cha mẹ, ông bà; kính trọng, lễ phép với thầy giáo, cơ giáo, nhân viên và
người lớn tuổi; đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ bạn bè và người có hồn cảnh khó khăn.
- Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân.
- Tham gia các hoạt động tập thể trong và ngoài giờ lên lớp; giữ gìn, bảo vệ tài sản nơi
cơng cộng; tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường; thực hiện trật tự an tồn giao thơng.

- Góp phần bảo vệ và phát huy truyền thống của nhà trường và địa phương” 3.
3. Một số giải pháp nâng cao vai trị các mơn KHXH trong bồi dưỡng đạo đức học
sinh THPT hiện nay
Thứ nhất, cần tạo hứng thú cho học sinh đối với các môn khoa học xã hội. Muốn nâng cao
hứng thú trước hết phải hình thành, giáo dục động cơ học tập, nhu cầu học tập đúng đắn.
2 Đảng Cộng Sản Việt Nam 1997,Văn kiện hội nghị lần thứ V – BCH TW Đảng khố VIII, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1998, tr.58-59.
3 Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học (Ban hành theo thông tư số 32/2009/TT-BGDDT ngày 27 tháng
10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo).


Động cơ học tập là mn hình mn vẻ, muốn phát động động cơ học tập đúng đắn, động cơ
chiếm lĩnh tri thức thì trước hết cần phải khơi dậy ở các em nhu cầu nhận thức, nhu cầu
chiếm lĩnh đối tượng học tập vì nhu cầu chính là nơi khơi nguồn của tính tự giác, tính tích
cực học tập. Mặt khác, hành vi của con người phụ thuộc vào nhiều khả năng khách quan,
nhất là ở những học sinh có nhân cách chưa hình thành ổn định, chưa có mục đích sống chủ
đạo, cho nên mơi trường khách quan cần có những điều kiện thuận lợi, là mảnh đất màu mỡ
để ươm mầm cho hứng thú phát triển: thư viện phong phú các đầu sách, phịng thí nghiệm,
thực hành đầy đủ, những kỳ vọng, sự động viên của thầy cơ và gia đình.
Thứ hai, cần coi trọng đúng mức việc giảng dạy các môn xã hội cũng như vị trí và vai trị
của mơn học này trong giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh; đổi mới nội dung
chương trình và phương pháp dạy các mơn xã hội nói riêng, phương pháp dạy học nói chung
một cách khoa học hơn nữa để phù hợp với sức học của học sinh, không nên quá dồn ép kiến
thức tạo áp lực trong việc học của học sinh. Trên thực tế, chúng ta đã và đang tiến hành đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy học nhưng hiệu quả mang lại chưa cao, minh chứng cho điều
này có thể thấy qua kết quả các kì thi tốt nghiệp THPT những năm gần đây tỷ lệ học sinh thi
trượt tốt nghiệp là khá cao, trong đó tỷ lệ điểm thấp mơn lịch sử và văn học khơng phải nhỏ.
Điều đó cũng có nghĩa là học sinh chưa hiểu biết nhiều về lịch sử nói chung và lịch sử Việt
Nam nói riêng, nên tất yếu dẫn đến những hệ luỵ của nó là những giá trị, chuẩn mực đạo đức
truyền thống đang dần bị giảm sút trong giới trẻ hiện nay

Thứ ba, giáo viên cần không ngừng trau dồi kỹ năng, phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp, cải
tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc truyền thụ tri thức ngày càng chính xác, hấp dẫn,
có chất lượng. Giáo viên cần giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa và vai trò của các kiến
thức môn học đối với cuộc sống; giúp học sinh biết cách học thích hợp đối với mỗi bộ mơn,
tăng cường thời lượng, chất lượng thực hành cho mỗi bộ môn, nắm vững lý thuyết, ln có
sự vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình huống trong đời sống
theo các khía cạnh khác nhau. Cần có những bài giảng nêu vấn đề, những giờ thảo luận trên
lớp, những trị chơi mang tính chất giáo dục để kích thích hứng thú học tập cho các em. Q
trình kích thích hứng thú khơng chỉ diễn ra ở bài giảng này hay bài giảng khác mà cần phải
diễn ra trong suốt q trình. Do đó, trong q trình giảng dạy, người giáo viên cần tạo ra các
hồn cảnh nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh, tăng tính tích cực của trí tuệ.


Trong giảng dạy, giáo viên cần chỉ ra cái mới, cái phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, tính chất
sáng tạo và triển vọng trong hoạt động học tập để tạo ra hứng thú vững chắc cho học sinh
trong quá trình học tập.
Đặc biệt, muốn giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh qua giảng dạy các môn khoa
học xã hội đạt hiệu quả thì người giáo viên khơng đơn giản là người có tri thức, có nghiệp vụ
sư phạm vững vàng, mà cịn phải là người có tác phong chuẩn mực, tư cách đạo đức tốt,…
Giáo viên không được phép phạm sai lầm về đạo đức, hay nói cách khác, cuộc sống của
người giáo viên khơng được có tì vết. Giáo viên phải là một tấm gương sáng, mẫu mực để
học sinh soi mình. Đây là một vấn đề quan trọng cần thực hiện tốt, vì trên thực tế không phải
người thầy nào cũng thực hiện tốt được những chuẩn mực đạo đức của nghề thầy. Nhìn thẳng
vào sự thật, chỉ ra những hạn chế, chúng ta mạnh mẽ lên án những hành vi vi phạm đạo đức
nhà giáo như bạo hành học sinh, xúc phạm nghiêm trọng đến phẩm chất, danh dự của học
sinh.
Thứ tư, về phía nhà trường, cần thường xuyên tổ chức các hoạt động học tập, sinh hoạt
mang tính tập thể. Điều đó sẽ kích thích sự hăng hái thi đua, cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức
các buổi ngoại khóa, trị chuyện, giao lưu giữa thầy cô - học sinh, học sinh - học sinh nhằm
khắc phục những khó khăn gặp phải trong q trình học tập. Từ đó, tìm thấy tiếng nói chung,

sự đồng thuận giữa các học sinh để các em cùng giúp nhau học tốt hơn. Trang thiết bị phục
vụ cho môn học xã hội phải được trạng bị đầy đủ như: bản đồ, tranh ảnh, phim tư liệu, phịng
bộ mơn,… bằng nhiều kênh cung cấp thông tin, đặc biệt là kết hợp giữa việc cung cấp kiến
thức với cho học quan sát những hình ảnh, thước phim,… liên quan đến nội dung bài học
(trực quan sinh động). Học sinh sẽ cảm thấy thích thú khi học các mơn xã hội, chủ động tìm
tịi, say mê nghiên cứu.
Kết luận
Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức học sinh nói riêng nhằm hình thành hành vi ứng
xử văn hố cho học sinh là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay. Đó chính là sự định hướng vào
những bản chất tốt đẹp của con người Việt Nam mới, vừa giữ được thuần phong mỹ tục của
dân tộc, vừa thể hiện sự thông minh sáng tạo của các thế hệ học sinh Việt Nam. Đây là việc
làm vừa mang tính cấp bách, vừa có tính lâu dài và cũng khơng hề đơn giản trước những làn
sóng nhiễu của thời kỳ hội nhập và kinh tế thị trường. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho


hoạt động giáo dục, trong đó có hoạt động dạy và học các môn khoa học xã hội, phải tổ chức
như thế nào để hình thành và bồi đắp đạo đức cho người học. Khi đó, các mơn khoa học xã
hội trong nhà trường phổ thông sẽ thể hiện được vai trò quan trọng trong sự nghiệp giáo dục
và đào tào thế hệ học sinh vừa hồng, vừa chuyên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Phạm Khắc Chương 1997, Một số vấn đề giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức ở trường
phổ thông, Nxb. Giáo dục, Hà Nội
2 Đảng Cộng Sản Việt Nam 1997, Văn kiện hội nghị lần thứ V – BCH TW Đảng khố VIII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
3 Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học (Ban hành theo thông tư số 32/2009/TTBGDDT ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)




×