Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Đề tài " Hiến pháp về chính sách kinh tế " Phần 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.12 KB, 5 trang )

James M. Buchanan Jr. – Bài giảng Nobel Ngày 8 tháng 9 năm 1986
Hiến pháp về chính sách kinh tế - Phần 2
(The constitution of economic policy)
VI. Chủ nghĩa hợp hiến và chủ nghĩa giao kèo (constitutionalism and
contractualism)
Mục tiêu cuối cùng là tính công bằng trước pháp luật, quyền tự do lớn nhất có
thể thực hiện được, và một nền kinh tế vững trãi cũng như sự cộng tác hoà bình
giữa tất cả mọi người. (Wicksell, trang 88).
Khi cấu trúc căn bản của Wicksell bị chuyển thành sự lựa chọn giữa các điều luật
hoặc giữa các hiến pháp và khi tình trạng không chắc chắn được tận dụng để khắc
phục những khó khăn giữa những lợi ích chung và lợi ích đồng nhất, chương trình
nghiên cứu trong kinh tế chính trị đã kết hợp vẫn đề này vào triết học mang tính
chính trị, cả hai vấn đề này đều có những thay đổi hiện đại và cổ điển. Đặc biệt,
nghiên cứu của riêng tôi có mối quan hệ giống với cấu trúc của John Rawls, ông
đã tận dụng sự thiếu hiểu biết (veil of ignorance) cùng với tiêu chuẩn công bằng có
nguồn gốc từ nguyên lý của sự công bằng nổi lên từ khế ước giao kèo ở giai đoạn
trước khi lựa chọn hiến pháp chính trị.
3

Sự thất bại của ông khi chuyển đổi cấu trúc giải tích của riêng ông lên tới mức độ
lựa chọn theo hiến pháp, Wicksell đã bị hạn chế đối với những đánh giá về quy
trình chính trị trong việc đưa ra những quyết định hiện tại. Ông không thể, và ông
hoàn toàn ý thức được điều này, ước định được những hoạt động kinh tế liên quan
tới hoặc là sự uỷ quyền trước kia của chính quyền, ví dụ như định mức lãi suất cho
nợ công cộng, hoặc là việc chuyển đổi thực hiện tài chính trong thu nhập và tài sản
giữa những cá nhân và một nhóm người. Những câu hỏi được đưa ra vẫn còn nằm
ngoài nghiên cứu định giá của Wicksell, và bởi vì họ là như vậy nên chúng ta xác
định vị trí của nguồn khác là những đóng góp căn bản mà chúng ta một thời gian
không chú ý tới. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi trong hiến pháp chính trị sự bắt
ép này ít nhất cũng một phần bị chuyển đi. Bên cạnh tính không chắc chắn và/hoặc
sự thiếu hiểu biết, sự tán thành theo khế ước về những điều luật tính đến sự


chuyển nhượng tài chính là hoàn toàn có thể.
Những nét đặc biệt trong cấu trúc chuyển nhượng được sự ủng hộ của hiến pháp,
tất nhiên không thể có nguồn gốc độc lập bởi vì sự hạn chế của những đánh giá đối
với quá trình tán thành hiến pháp. Về phương diện này, việc áp dụng là hoàn toàn
tương tự như sự miễn cưỡng của Wicksell khi bắt đầu xây dựng những quy tắc
riêng biệt cho việc phân bổ thuế độc lập với quá trình đi tới sự đồng ý. Bất kỳ sự
phân phối các phần của thuế nào tạo ra thu nhập đủ đề phân bổ tài chính cho
những chi tiêu liên quan tới dự án sẽ qua những kiểm tra của Wicksell, miễn là nó
phù hợp với thoả thuận chung của mọi người. Tương tự như vậy, bất kỳ sự sắp
xếp nào để thi hành những chuyển đổi tài chính sẽ phải đương đầu với thử thách
về hiến pháp của Wicksell, với điều kiện là nó có khả năng đưa đến sự thoả thuận
chung. Tính không xác định căn bản này đã gây ra nhiều phiền toái cho các nhà
kinh tế chính trị hay những nhà triết gia, những người đang tìm kiếm một cơ hội
để đưa ra những lời khuyên lớn lao, trên dưới những giới hạn theo thủ tục.
Sự thôi thúc theo xu hướng tạo dựng để thừa nhận vai trò như là một nhà xã hội,
để đề xuất những cải cách chính sách “nên” hay “không nên” làm, một cách độc
lập với những sở thích cá nhân thông qua chính sách chính trị, đã đưa ra rất nhiều
thứ để phản đổi mạnh mẽ điều này. Tính nguyên vẹn khoa học này bị sai khiến bởi
sự tín nhiệm nhất quán lên những giá trị cá nhân là một đặc điểm của một nền kinh
tế chính trị hiện đại.
Sự khó khăn của việc duy trì tính toàn vẹn như vậy bị làm nổi bật lên bởi sự thất
bại khi phân biệt giữa những lý lẽ có tính chất giải thích và lý lẽ có tính biện hộ,
một thất bại đã miêu tả rõ ràng vị trí của hầu hết tất cả mọi chỉ trích của những lý
thuyết xã hội trong trật tự chính trị. Chúng ta tất nhiên không quan sát quá trình để
đạt tới sự thoả thuận về những điều luật hiến pháp và nguồn gốc của những điều
luật tồn tại vào bất kỳ thời gian nào và trong bất kỳ hình thức chính trị riêng biệt
nào cũng không thể được giải thích được một cách hài lòng bởi mô hình hợp đồng.
Mục tiêu của việc thực hiện hợp đồng không được giải thích theo cách này.
Ngược lại chúng ta lại hài lòng với việc nó đã đưa ra một nền tảng cho định giá
mang tính quy chuẩn. Liệu những điều luật quan sát được đã chế ngự hoạt động

chính trị thông thường có hiện lên từ sự tán thành trong bản khế ước hiến pháp?
Trong phạm vi câu hỏi này có thể được trả lời một cách chắc chắn chúng ta đã
thiết lập được một sự liên kết hợp pháp giữa từng cá nhân và chính phủ. Còn trong
phạm vi câu hỏi gợi ra một câu trả lời mang tính tiêu cực, chúng ta có một nền
tảng cho sự chỉ trích về trật tự đang tồn tại, và một tiêu chuẩn cho những đề xuất
tiến bộ trong việc cải tổ hiến pháp.
Về điểm này và chỉ về điểm này, các nhà kinh tế chính trị, những người đang tìm
kiếm để giữ nguyên mọi điều trong sự ép buộc mang tính quy chuẩn bị đưa ra bởi
tiêu chuẩn cá nhân, có thể tham gia vào cuộc đối thoại đang tiếp diễn về chính
sách hiến pháp. Cách thức quản lý tài chính thiếu hụt trong chính quyền dân chủ
phương tây hiện đại đã đưa ra một ví dụ mạnh mẽ nhất. Đó là hầu như không thể
xây dựng một phép tính bằng khế ước mà trong đó những đại diện của các thế hệ
độc lập đồng ý thừa nhận số đông trong một thế hệ riêng lẻ khi cung cấp tài chính
cho sự tiêu dùng công cộng đang được ưa chuộng hiện nay thông qua việc đưa ra
nợ công cộng đảm bảo cho sự đánh thuế vào tổn thất của những vật có ích hày thế
hệ sau của những người đóng thuế. Một kết luận như vậy cũng được áp dụng vào
việc nợ tuyệt đối được phản ánh nhiều trong những chương trình chuyển nhượng
giữa hai thể hệ đặc chưng chính quyền thịnh vượng hiện đại.
Việc thi hành toàn bộ hợp đồng sẽ vẫn không được thực hiện nếu sự tin cậy đang
bị chỉ trích của những kết quả chính trị dựa trên những điều luật chế ngự hoạt
động chính trị bị phủ nhận. Nếu những chính quyền còn lại không thay đổi theo
những thay đổi trong cấu trúc hiến pháp thì vai trò của nền kinh tế chính trị theo
hiến pháp sẽ không tồn tại được. Mặt khác, nếu thể chế thực sự là vấn đề thì vài
trò này sẽ được xác định rõ ràng. Rõ ràng, vai trò này bao gồm phép phân tích của
của cải luân chuyển trong tập hợp xen lẫn nhau của những điều luật cưỡng chế.
Trong một phép suy loại lý thuyết, phép phân tích này là sự nghiên cứu cho những
giải pháp của vấn đề này, vì nó được định nghĩa bởi những điều luật.
Thông thường, nhiệm vụ của nhà kinh tế chính trị theo hiến pháp là giúp đỡ những
cá nhân, vì những công dân những người quyết định cuối cùng trật tự chính trị của
riêng họ, trong những nghiên cứu vẫn đang tiếp tục của họ về các điều luật chính

trị mà sẽ phục phụ tốt nhất cho những mục đích của họ, bất kể chúng là điều gì.
Vào năm 1987, Hoa Kỳ đã tổ chức lễ kỷ niệm hai trăm năm một lần của hội nghị
hiến pháp đã cung cấp những điều luật cơ sở cho hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Hội
nghị này là một trong những tấm gương trong lịch sử mà trong đó những điều luật
chính trị được lựa chọn một cách cân nhắc. Ảo tưởng về chính trị mà đã cho biết
suy nghĩ của James Madison hoàn toàn giống, về bản chất, với nhúng điều được
đưa ra bởi Knut Wicksell, tuy rằng bản phân tích thuế và chi tiêu của Knut
Wicksell không toàn diện bằng, nhưng lại tập trung hơn. Cả hai đều bác bỏ tất cả
những khái niệm cơ bản nào coi chính quyền như là một người cấp trên uyên thâm
đối với những cá nhân là thành viêc của chính quyền này. Cả hai đều tìm kiếm để
đưa ra bản phân tích khoa học có hiệu lực có thể giúp giải quyết câu hỏi vẫn đang
tiếp tục về trật tự xã hội: Làm thế nào để chúng ta có thể chung sống cùng nhau
trong hoà bình, thịnh vượng và đoàn kết, trong khi đó vẫn phải duy trì quyền tự do
của chúng ta vì những cá nhân tự trị, những người có thể và phải tạo ra giá trị
riêng của chính chúng ta?

Tôi vô cùng biết ơn Robert Tollison, Viktor Vanberg, và Richard Wagner vì
những lời góp ý bổ ích.
1. This and subsequent citations are from Knut Wicksell, "A New Principle of Just
Taxation," included in Classics in the Theory of Public Finance, edited by R. A.
Musgrave and A. T. Peacock (London: MacMillan, 1958), pp. 72-118. The more
inclusive work from which this translated essay is taken is Knut Wicksell,
Finanzthcoretische Untersuchungen (Jena: Gustav Fischer, 1896).
2. In my own retrospective interpretation, the shift of the Wicksellian construction
to the constitutional stage of choice was the most important contribution in the
Calculus of Consent, written jointly with Gordon Tullock (Ann Arbor: University
of Michigan Press, 1962).
3. John Rawls, A Theory of Justice (Cambridge: Harvard University Press, 1971).
4. A generalized argument for adopting the constitutionalist-contractarian
perspective, in both positive and normative analysis, is developed in The Reason

of Rules, written jointly with Geoffrey Brennan (Cambridge: Cambridge
University Press, 1985).
Tài liệu trích dẫn: Nobel Lectures, Economics 1981-1990, World Scientific
Publishing Co., Singapore

×