Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tài liệu Đề tài " mô hình sản xuất rau " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.48 MB, 22 trang )

Đề tài

" MƠ HÌNH SẢN XUẤT RAU"


MỤC LỤC

Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật thì việc học đi đôi
với hành là rất quan trọng. Không chỉ giỏi trên lý thuyết mà mỗi sinh viên cần phải trang
bị cho mình những kiến thức thực tế để sau này ra trường lấy đó làm cơ sở cho việc
giảng dạy. Có lẽ chính vì thế mà trong khung đào tạo của khoa SPKTNL từ khi mới
thành lập cho đến nay đều rất coi trọng việc đi tham quan thực tế của sinh viên. Thông


qua những chuyến đi thực tế đó mà chúng em biết được rất nhiều kiến thức chuyên
ngành mà mới từng biết qua sách vở.
Được sự hướng dẫn tận tình của cơ giáo TS Lê Thị Khánh thời gian vừa qua lớp
chúng em đã có chuyến đi thực tế vườn trường ĐH Nông Lâm, tham quan mơ hình sản
xuất rau của nơng dân phường Tây Linh. Qua chuyến đi chúng em thu được một số kết
quả như sau:


Phần II: NỘI DUNG
I/ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
1. Vườn sản xuất rau công nghệ cao:
a. Hệ thống nhà lưới:

Với hệ thống này có thể trồng được rau trái vụ mà vẫn cho được năng suất cao,
tránh được những bất cập do thời tiết gây ra. Loại mơ hình này áp dụng trồng các loại
rau sạch để phục vụ thường xuyên cho nhu cầu của người tiêu dùng. Hệ thống nhà lưới
hạn chế được sâu hại, cỏ dại nên ít phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm được chi
phí đầu vào mang lại năng suất cao.
Song bên cạnh đó mơ hình này cịn tồn tại một số hạn chế như các vật liệu che
chắn, hệ thống tưới tiêu, dung dịch sinh trưởng…giá cả còn rất cao ( Một ha nhà lưới từ
250-300 triệu đồng, làm một nhà lưới xấp xỉ một tỉ đồng ). Do vậy người nông dân chưa
đủ vốn để đầu tư sản xuất.
Cấu trúc nhà lưới: Nhà được phủ kính hồn tồn bằng lưới nhằm ngăn ngừa côn
trùng xâm nhập ( Chủ yếu là các loại bướm, bọ cánh cứng, nhóm cơn trùng bay được ).
Loại nhà này được thiết kế với kiểu mái nghiêng hai bên. Khung nhà được làm bằng sắt,

hàn hoặc bắt ốc vít. Độ cao từ 2 – 3,9 m. Quy mơ diện tích từ 500 – 1000 m 2. Vào mùa
hè người ta phủ bằng lưới đen để giảm cường độ ánh sáng mạnh, vào lúc trời nắng to
tiến hành phụt nước bên ngoài nhà lưới để tăng độ ẩm cho cây.


b. Hệ thống tưới nhỏ giọt cho cây cà chua và dưa leo:
- Dung dịch dinh dưỡng: Bao gồm các nguyên tố đa lượng và vi lượng với tỉ lệ các chất
đã được tính tốn và pha trước đựng trong các bình chứa có dung tích 500 l. Từ bình
chứa này có hệ thống ống tưới đi về mỗi ơ, mỗi chậu. Mỗi ơ, mỗi chậu có Rumine tự
động nên có thể tưới hoặc khơng tùy người điều khiển. Biện pháp tưới nhỏ giọt này đang
được dùng phổ biến để sản xuất rau an toàn.
- Cách tưới:

Thời gian tưới tùy thuộc vào kích thước của cây ( Cây nhỏ tưới 5 phút/lần, cây lớn tưới
10 phút/lần hoặc có thể 15 phút/lần), mỗi ngày tười 2 lần.


c. Trồng rau thủy canh:
Phương pháp này gồm hai mô hình: Thủy canh tĩnh và thủy canh động.
- Thủy canh tĩnh:
Trồng rau theo phương pháp này bằng cách pha sẳn dung dịch gồm các nguyên tố đa
lượng và vi lượng cho vào thùng xốp ( Có thể thay hộp xốp băng nilong ). Hộp xốp dùng
để cách nhiệt với nhiệt độ bên ngồi ( Chênh lệch giữa hai mơi trường này từ 4 – 5 0C ).
Do vậy có thể sử dụng mơ hình này để sản xuất rau quanh năm.


- Thủy canh động:
Cũng như mơ hình thủy canh tĩnh, dung dịch được pha sẳn, nhưng có hệ thống máy bơm
bơm dung dịch dinh dưỡng từ bình chứa đi từ từ qua các cây. Hệ thống thủy canh động
cải tiến này ( Một bên cao một bên thấp ) có thể khắc phục được tình trạng mất điện vì
bào giờ ở bên dưới cũng có khoảng 3 cm nước đọng lại. Tuy nhiên vẫn tồn tại nhược


điểm là các cây nhận được chất dinh dưỡng không đều nhau. Cây đầu thường nhận được
nhiều dinh dưỡng hơn cây cuối của hệ thống.

Qua hai mơ hình trên ta nhân thấy rằng đó là các hệ thống trồng ra an toàn để sản
xuất một số loại rau như Xà lách, dưa leo, cà chua…Với cây ăn quả thì người ta thường

ứng dụng cho cây dâu tây.
2. Nhận dạng một số lồi cây trồng nơng nghiệp:
a. Cây cà chua:
Tên khoa học: Lycopersicum esculentum.
Cà chua là loại rau ăn quả đang được ưa chuộng bởi phẩm chất ngon và có thể
chế biến được nhiều món. Cà chua là loại cây ngắn ngày, người ta thường trồng theo các
vụ trong năm, nhưng trong điều kiện thích hợp thì cà chua có thể là cây nhiều năm.
- Cây cà chua có rễ chùm, rễ ăn sậu và phân nhánh mạnh, có khả năng phát triển rể phụ
rất lớn cho nên có thể chịu hạn tốt. Khi cấy, rể bị đứt, bộ rễ phụ phát triển và phân bố
rộng nên cũng chịu đựng được điều kiện khơ hạn.
- Thân cà chua thẳng đứng, ngồi phủ nhiều long. Thân mang lá và hoa.
- Lá thuộc là kép long chim lẻ, mỗi lá có 3 – 4 đôi lá chét.

- Hoa mọc thành từng chùm, lưỡng tính, tự thụ phấn là chính.
- Quả thuộc loại quả mọng, có nhiều hình dạng: Trịn, bầu dục, dài. Vỏ quả có thể nhẵn
hoặc có khía. Quả khi chín chuyển từ màu xanh sang màu đỏ.
Cà chua trồng thích hợp nhất là vụ đông xuân ( Tháng 10 – tháng 2 dương lịch ).
Để cho cây đứng thẳng cành lá và quả khơng chạm đất thì khi cây lớn người ta dùng dây
treo cây lên để cho cây cà chua bám vào.


b. Cây xà lách:
Tên khoa học: Lactuca sativa Var. Capitta L.
Xà lách là loại rau ngắn ngày có thời gian sinh trưởng ngắn nên rất thích hợp cho
việc trồng xen với những chủng loại cây rau khác.

Xà lách có thể trồng trên nhiều vùng đất khác nhau. Vụ thích hợp nhất là từ tháng 8 năm
nay đến tháng 4 năm sau.
Luống trồng Xà lách rộng 1m, cao 7 – 10 cm để có thể chống úng rễ trong mùa
mưa. Khoảng cách trồng từ 15 – 18 cm, mật độ trồng 10000 – 15000 cây/500 m 2. Mỗi
ngày tưới một lần vào buổi sáng sớm hay chiều mát.

c. Cây ngô:
Tên khoa học: Zea mays. L
Cây ngô là loại cây lương thực quan trọng ni sống 1/3 dân số tồn thế giới. Ngơ
có hệ rễ chùm với ba loại rễ chính: Rễ mầm, rễ đốt, rễ chân kiềng. Thân ngơ có đường
kính từ 2 – 4 cm tùy thuộc vào giống và điều kiện chăm sóc. Thân ngơ cao khoảng 1,5 –
4 m. Ngơ là lồi cây có hoa khác tính cùng gốc.



d. Cây lúa:
Tên khoa học: Oryza sativa. L
Lúa là loại lương thực quan trọng trong bữa ăn hàng ngày cho hàng tỉ người trên
trái đất. Thân lúa được cấu tạo bởi các lóng và đốt. Màu sắc của thân có thể xanh, tím
hoặc đỏ hồng tùy theo giống. Lá lúa hoàn chỉnh bao gồm bẹ lá, phiến lá, tai lá và thìa lìa,
lá có chức năng quang hợp tạo ra chất dinh dưỡng để ni cây.
Hoa lúa gồm có: Mày hoa, vỏ trấu trong, vỏ trấu ngồi, có một nhụy gồm hai vòi nhụy .
Nhị đực gồm 6 cái mang bầu phấn. Cây lúa là một loại cây tự thụ phấn rất chặt chẽ.



e. Cây đậu xanh:
Tên khoa học: Vigna radiate Wilc.
Họ đậu: Leguminoseae
Đậu xanh là loại cây hoa màu ngắn ngày, dễ trồng có tác dụng bồi dưỡng và cải
tạo đất. Hạt đậu xanh là loại nông sản quen thuộc được sử dụng rộng rãi trong nhân dân.
Lúc tươi thi người ta dung để luộc, chín thì có thể dùng để nấu chè hoặc cháo rất tốt cho
sức khỏe.

f. Cây đậu tương:
Tên khoa học : Glicine max.L
Cây đậu tương có nguồn gốc ở
Trung Quốc, được đưa vào nước ta từ lâu

đời. Đậu tương cịn có tên gọi là “ đậu
nành”, là cây trồng cạn ngắn ngày có giá
trị kinh tế cao, trong thành phần của hạt có
chứa tới 38-45% prơtêin và từ 18-255 dầu.
Đậu tương có thể gieo trồng nhiều vụ
trong năm, là cây thích hợp cho luân canh,
tăng vụ và làm tăng độ màu mỡ cho đất
sau khi trồng. Muốn trồng đậu tương đạt
năng suất cao, chất lượng hạt tốt cần phỉa
nắm vững một số đặc tính thực vật học,
đặc tính sinh trưởng của cây và các nhu
cầu cơ bản về ngoại cảnh và dinh dưỡng

để làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp gieo trồng, chăm sóc cho phù hợp.
g. Cây lạc:
Tên khoa học: Arachis hipogaea. L
Lạc là một nguồn thực phẩm quý cung cấp cho con người nhiều chất dinh dưỡng
như Lipit, Protein. Lạc cũng có thể ép thành dầu, bã lạc làm phụ phẩm chăn nuôi rất tốt.


Lạc là cây trồng mang lại nhiều lợi ích, tất cả các bộ phận của cây như rễ, thân, lá,
quả, hạt đều đem lại tác dụng lớn cho cuộc sống. Rễ lạc khi mới phát triển có màu trắng,
chuyển thành màu vàng nhạt khi được 40 – 45 ngày sau đó chuyển thành màu nâu. Sự
phát triển của rễ phụ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh, chế độ chăm sóc, lượng phân
bón...Rễ có nút sành chứa vi khuẩn Rhizodium sống cộng sinh để cố định đạm giúp cải

tạo đất.
Thận lạc được sinh ra từ trục phơi. Lạc có thể mọc đứng hoặc bị, lá lạc thuộc loại
lá kép lơng chim 1 lần, mỗi lá có 3 – 5 lá chét. Trên cuống lá và hai mặt lá đều có lơng.
Hoa lạc thuộc loại hoa lưỡng tính. Quả lạc gồm hai bộ phận là bầu hoa và tia quả. Quả
lạc do bầu hoa phát trỉên thành. Hạt gồm có võ lụa và phơi, phơi có màu phớt hồng,
trắng hồng, đỏ, tím nhạt, tím đậm tùy theo đặc tính di truyền của giống.
II/ THAM QUAN MƠ HÌNH SẢN XUẤT RAU CỦA NƠNG DÂN Ở PHƯỜNG
TÂY LINH-HUẾ
1. Mơ hình sản xuất rau mống ở Hồ Tịnh Tâm.
Rau muống bè trồng trên mặt nước.
Quy trình: Thân chuối đan thành bè, rãi trên mặt bè một lớp bùn, rãi dây rau
muống của vụ trước lên sau đó rãi thêm một lớp bùn mỏng. Sau khi rau đâm nhánh cắt ra

trồng ở những nơi khác để nhanh giống. Mỗi luống rau cách nhau 3 – 4 m để khi rau ra
nhánh tạo thành từng băng, cứ 10 – 15 ngày thu hoạch một lần. Vào tháng 12 thời tiết
lạnh, rau muống ngừng sinh trưởng, rau muống vàng và rụng đi, người ta dùng cọc cắm
xuống để giữ lại cho vụ sau. Đến cuối tháng 2 dương lịch lại bắt đầu quy trình như trên.

2. Mơ hình trồng rau trên bờ thành ở vườn rau Thuận Lộc – Tây Linh – Huế.
Mơ hình này có khoảng 5 ha, trồng rau trên bờ thành được áp dụng từ rất lâu, nó
vừa mang lại giá trị kinh tế, phù hợp với nhu cầu của người dân, tăng nguồn thu nhập,
vừa tạo ra cảnh quan đẹp phục vụ cho du lịch sinh thái. Trong đó có chương trình du
lịch: “Ấn tượng Huế xanh”
Các loại rau trồng trên bờ thành:
a. Cây măng tây:

Là loại cây trồng mang lại thu nhập tương đối cao cho người dân, loại này chỉ sử
dụng làm phụ liệu trong cho trang trí.


b. Cây húng chó:
Là loại hoa màu được trồng phổ biến ở Thừa Thiên Huế, nó là món khơng thể
thiếu trong bữa ăn hành ngày của người dân xứ Huế.

c. Rau Pearaux:


Pearaux được cha đạo đưa vào nước ta từ những năm của thế kỉ 20 để phục vụ

cho thực dân Pháp. Hiện nay Pearaux là một loại gia vị không thể thiếu trong bữa ăn
hàng ngày của người dân. Thời gian từ khi trồng cho đến khi thu hoạch là 60 – 70 ngày,
cũng có khi từ 70 – 75 ngày.
Pearaux trồng với mật độ dày để bán gọi là Pearaux thịt.
Pearaux giống trồng với một độ thưa:
Hàng x hàng 3 cm, cây x cây 3
cm.Pearaux sinh trưởng dinh dưỡng vào
năm này nhưng lại sinh trưởng sinh
thực vào năm khác, Pearaux có thể chịu
nắng, chịa mưa. Một cây có từ 2 – 3
hoa, thụ phấn nhờ cơn trùng, gió, mỗi
quả có 3 – 4 hạt, hạt có màu đen.

Khi hoa thụ phấn hình thành
quả, quả chín thì cây sẽ mọc tiếp nhánh
khác. Mỗi cây có từ 2 – 3 nhánh.
Những nhánh này có thể tận dụng để ăn
sau khi thu hoạch. Những nhánh này
thường ngọt, thơm, ngon và không bị
sâu bệnh hại.
Pearaux xuất hiện bệnh giòi đục vào năm 2000 và bệnh phát triển thành dịch mạnh nhất
vào năm 2003 – 2004. Sau đó giịi giảm dần và đến năm 2007 thì hết do cân bằng sinh
thái. Sự xuất hiện các loại thiên địch của giịi như nhện, ơng kí sinh làm giịi từ từ biến
mất.
Pearaux thường bị bệnh khơ đầu lá do thiếu dinh dưỡng và nhiệt độ cao làm ngọn lá bị

khô, héo.
3. Tham quan vườn nhà bác Tùng.
Ghép cây bông giấy:
- Cách ghép: Cắc một cành dưới mắt cây bông giấy, chuẩn bị một nắm đất sét bao quanh
mặt cắt cành bơng giấy. Đem cành đó ươm xuống đất cát. Sạu khi cành ra rễ thì ta bừng
lên trồng vào chậu lớn. Nên trồng vào những có nhiều ánh sáng mặt trời để cây có nhiều
hoa.
Tương tự như vậy chúng ta sẽ ghép được các cây khác


III/ THỰC HÀNH CÁCH CHIẾT GHÉP CÂY TẠI VƯỜN CÂY BÁC NGHĨA PHƯỜNG TÂY LỘC – HUẾ.
1. Chiết cây:

Bộ phận định chiết là cành cây, người ta thường gọi là chiết cành. Nhân giống
bằng phương pháp này thường dùng áp dụng cho một số loại cây ăn quả như nhản, vải...
Cây chiết nếu muốn ra hoa thì khơng nên dùng cành vượt. Chọn những cành mà cây mẹ
có phẩm chất tốt không bị sâu bệnh hai, đã ra hoa kết quả 2 – 3 năm.
- Chọn cành đã chiết:
Chọn cành đã hóa gỗ từ 1 năm tuổi trở lên, cành ở giữa cành tán, ngồi ánh sáng. Khơng
dùng cành non, cây bị sâu bệnh, cành đang dâm hoặc non.
Đường kính của cành từ 1 cm trở lên tùy theo từng giống, nên chọn cành có 2 – 3
chạc để sau khi chiết có bộ tán rộng, sinh trưởng khỏe.
- Thời vụ chiết:
Vụ Xuân: Tháng 3 – 4
Vụ Thu: Tháng 8 – 9

- Chuẩn bị bầu bó cành chiết:
Hỗn hợp bầu bó gồm rơm rạ mục, đất tầng mặt, trộn đều hai thành phần này với
nước tới độ ẩm là 70 % sao cho khi bóp hỗn hợp sẽ có một ít nước rỉ ra ở kẽ tay, khi bỏ
tay ra thì hỗn hợp vẫn giữ ngun dạng mà khơng bị tơi ra.
Để bọc bầu người ta thường dùng loại bao nilong tốt sao cho khi rễ đâm ra không
làm thủng bao giúp rễ phát triển không ngừng, lan rộng ra tạo điều kiện tố khi đem đi
trồng.
- Khoanh vỏ:
Dùng dao khoanh một lớp vỏ phía dưới khoảng 10 cm, độ dài vết khoanh từ 1.5 –
2 lần đường kính của cành, mặt cắt phía trên của lát khoanh phải nhẵn, khơng bị dập nát.
Sau đó cạo sạch lớp tượng tầng bám quanh phần gỗ để tránh được hiện tượng lớp tượng
tầng này hình thành và vận chuyển dịng nhựa luyện trở lại. Chính vì lẽ đó mà đối với

những cây như: Nhãn, vãi sau khi cạo còn phải dùng dao cạo sạch phía bên trong những
cạnh nhỏ.


Trước khi bó bầu có thể dùng một số chất kích thích sinh trưởng, nhúng vào đó để
kích thích q trình ra rễ.
- Cách bó bầu:
Hỗn hợp đất bó bầu cần được nhào trộn trước khi bó 2 – 3 ngày. Vắt hỗn hợp
thành từng nắm bỏ vào tấm nilong trong , ốp hỗ hợp bó bầu vào vết khoanh, buộc chặt
để hỗn hợp tiếp xúc với phần đã được khoanh vỏ.
Kích thước bầu: Bầu có đường kính từ 6 – 8 cm, chiều dài bầu 8 – 12 cm, tùy
theo kích thước cành và lồi cây cần chiết.

- Cắt cành chiết:
Không nên cắt một cách động loạt mà chỉ tiến hành cắt những cành khi nhìn qua
lớp vỏ thấy có rễ dạng chân rết màu vàng nâu.
Dùng dao sắc hoặc kéo cắt cành, cắt dưới bầu khoảng 2 cm.
Khi cắt, vận chuyển và giâm cành chiết cần phải thao tác cẩn thận tránh làm đứt
rễ, ảnh hưởng đền khả năng sinh trưởng của cành chiết.
- Giâm cành chiết sau khi cắt:
Tỉa bớt lá của cành chiết sau khi cắt cành, cành chiết được chuyển vào bầu hoặc
sọt tre và giâm thành từng luống để tập cho cây chiết thích nghi dần với điều kiện sống
tự lập sau khi đã tách khỏi cây mẹ.
Lưu ý: Phải có giàn che nắng, gió cho những lng giâm, giai đoạn đầu cần tưới đủ nước
để giữ độ ẩm cho đất bầu, sau đó giảm dần độ che bóng và lượng nước tưới, khi có điều

kiện thời tiết thích hợp thì mang cành chiết đi trồng.

2. Ghép cây.
Muốn nhân giống thì ngồi việc chiết cây người ta còn dùng biện pháp ghép cây.
Sau khi chọn được gốc ghép có sức sinh trưởng tốt người ta tiến hành chọn cành ghép.
Gốc ghép được ghei trước 1 – 2 năm tùy theo loài.Cành ghép được lấy từ những gốc
ghép tốt được chọn.
Để gốc ghép đạt tỷ lệ sống cao thì khi ghép phải chú ý giữa cành ghép và gốc
ghép phải có sự tương đồng ( Nếu gốc ghép bóc voe được thì cành ghép cũng phải bóc


vỏ được...), mặt cắt phải thật nhẵn để tăng bề mặt tiếp xúc giữa bề mặt gốc ghép và cành

ghép.
Sau khi ghép cần phải làm giàn che, giàn che có độ che phủ từ 50 – 80 % để hạn
chế sự thốt hơi nước, tăng độ ẩm khơng khí, đất...tạo điều kiện cho cây ghép sinh
trưởng và phát triển tốt.
Ở khâu chăm sóc thì ngồi các biện pháp thơng thường như bón phân, tưới nước... cịn
phải chú ý cắt bỏ chối của gốc ghép để tập trung dinh dưỡng cho cành ghép giúp cành
ghép phát triển tốt. Cây ghép ngừng chăm sóc trước khi đem trồng 1 – 2 tháng.
Ghép có nhiều phương pháp:
+ Ghép nêm: Ghép nêm thích hợp với gốc ghép to. Cách ghép như sau: Bổ đơi
phía trên gốc ghép sâu khoảng 3 cm, cắt cành ghép nghiêng. hai bên vừa với mặt cắt gốc
ghép, đặt vào rồi dùng dây đay buộc chặt, phủ kín đất để vết cắt không bốc hơi.


+ Ghép mắt
Là cách ghép phổ biến, áp dụng cho nhiều loại cây có thể vận chuyển cành ghép
đi xa, ít bị nhiễm bệnh, kết quả cao.
- Mắt ghép lấy ở cành bánh tẻ (đường kính
gốc cành 6 – 10 mm), mỗi cành có 6 – 8 chồi
ngủ ở các nách lá to). Dùng dao sắc cắt mắt
ghép, mỗi mắt có lớp gỗ rất mỏng, phía trong
có kèm 2 đi 15 – 20 mm. Lát cắt phải thật
“ngọt” tránh dập nát tế bào
+ Ghép cửa sổ:
Dùng dao ghép mở cửa sổ 1 x 2cm ở
vỏ gốc ghép. Cắt một miếng vỏ trên cành

ghép có mắt ghép ở giữa với kích thước bằng
miệng cửa sổ. Đặt mắt ghép vào và quấn dây
nilon bịt cửa sổ lại. Sau 15 – 20 ngày có thể
mở dây buộc, 7 – 10 ngày sau đó cắt nghiêng
ngọn gốc ghép cách mắt ghép 2cm.
Cần tưới nước, phun thuốc trừ sâu bệnh và
bón phân để chăm sóc cành ghép. Khi cành
ghép mọc cao 40 – 50cm, tuỳ giống cây ăn


quả, tuỳ dạng hình gốc ghép mà tiến hành tỉa cành con, bấm ngọn, tạo tán cho cành
ghép. Trên một cành ghép chỉ để 2 – 3 cành chính khỏe, phân bố về mọi phía. Khi cành

chính mọc dai 20 – 30 cm lại tiếp tục bấm ngọn, để lại ở mỗi cành chính 2 – 3 cành cấp
2.
+ Ghép chữ T

Chữ T ngược
Chữ T xuôi
Dùng dao ghép rạch 1 đường ngang 1 cm cách mặt đất 10 – 20 cm. Sau đó rạch một
đường vng góc dài 2 cm ở giữa (hình chữ T). Dùng dao tách vỏ theo chiều dọ, cắm
đuôi mắt ghép gài và đẩy nhẹ vào khe chữ T. Buộc chặt và làm kín vết ghép. Sau 15 – 20
ngày có thể mở dây buộc. 7 – 10 ngày sau cắt ngọn gốc ghép để chất dinh dưỡng ở gốc
ghép nuôi mắt ghép.


+ Ghép nối tiếp
+Ghép áp:
Có tỉ lệ sống cao (90 – 95%). Cành ghép có đường kính tương đương với gốc ghép đặt
sát nhau. Dùng dao sắc cắt vát một miếng nhỏ (dài 1,5 – 2 cm, rộng 0,4 – 0,5 cm) vừa
chạm vào lớp gỗ ở cả cành và gốc ghép, cắt gốc cành ghép cách chỗ buộc 2 cm.
Phương pháp này có thể dùng nhân giống cây hoa và cây cảnh. Thường chọn cây có
quan hệ họ hàng để làm gốc ghép. Ghép cùng giống, cùng loại dễ thành công nhất.
IV. SỬ DỤNG CHẤT TĂNG TRƯỞNG ‘‘ VƯỜN SINH THÁI ’’ VÀ CÁCH
PHUN THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT.
1. Sủ dụng chất tăng trưởng ‘‘ Vườn sinh thái ’’ :
Đây là một lọai sản phẩm mới đa chức năng dùng được cho cả trồng trọt và chăn
nuôi mà vẫn cho năng suất cao, đảm bảo được sức khỏe cho con người và môi trường

sinh thái.
Loại sản phẩm này gồm có 4 nhóm chính :
- Nhóm 1 : Đạm hữu cơ dễ tiêu được chế xuất từ tảo biển bằng công nghệ Nanô
tiên tiến, 104g N/lít, sản phẩm này thuộc nhóm giàu đạm, với vai trò tăng cường khả
năng quang hợp, tăng cường sinh trưởng và phát triển cho cây.
- Nhóm 2 : Vi khống và vi lượng. Nhóm này có vai trị tăng cường khả năng
chống chịu (hạn, rét), tăng khả năng miễn dịch và tỷ lệ đậu quả của cây.
- Nhóm 3 : Vi sinh vật có ích : Nhóm này chứa cả vi sinh vật hoạt động trong đất
và trong nước, vi sinh vật hoạt động trong đất có nhiệm vụ phân giải chất hửu cơ, vơ cơ
trong đất, cịn vi sinh vật hoạt động trong nước thì tăng cường oxy và làm sạch mơi
trường nước.
- Nhóm 4 : Enzym vi sinh



Cả 4 nhóm này có tác động tương hỗ lẫn nhau giúp cây trồng, vật nuôi tăng khả
năng miễ dịch lại, giảm được chi phí đầu vào trong q trình sản xuất, đem lại năng suất
cao.
2 Phun thuốc bảo vệ thực vật :
Khi cây trồng xuất hiện sâu, bệnh hại đạt quá ngưỡng gây hại thì tiến hành phun
thuốc bảo vệ thực vật. Khi phun cần phải đảm bảo một số nguyên tắc sau :
* Sử dụng theo nguyên tắc 4 đúng :
a. Đúng thuốc :
Phải xác định rõ đối tượng gây hại thuộc loại nào, đang hại loại cây trồng hay
nơng sản nào để từ đó chọn cho đúng loại thuốc.

b. Đúng lúc :
Dùng thuốc khi sâu, bệnh hại diễn ra trên một diện hẹp và ở các giai đoạn mẫn
cảm với thuốc như : Lúc bệnh mới xuất hiện, thời kỳ sâu non... Nếu phun trễ thì hiệu quả
không cao và ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh tế.
c. Đúng liều lượng, nồng độ :
Trước khi dùng thuốc, cần phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng ghi trên nhãn bao
bì,phải đảm bảo đúng liều lượng, nồng độ bởi nếu dùng thuốc ở nồng độ thấp nhiều lần
sẽ gây hiện tượng quen thuốc ở sâu hại, nhưng nếu liều lượng quá cao thì sẽ gây ngộ độc
cho cây và xuất hiện thêm nhiều chủng kháng thuốc.
d. Đúng cách :
Tùy theo loại thuốc, đặc tính của thuốc cũng như nơi xuất hiện dịch hại để sử
dụng cho đúng cách. Nên phun thuốc vào buối sáng sớm hay chiều mát. Không nên phun

thuốc vao buổi trưa làm cho thuốc nhanh mất tác dụng do nhiệt độ cao và tia tử ngoại
đồng thời lúc này thuốc bốc hơi mạnh sẻ gây ngộ độc cho người sử dụng, khi phun nên
đứng đầu gió rồi phun tới để gió khỏi thổi thuốc vào mặt, người.
* Hỗn hợp thuốc :
Người ta có thể pha hỗn hợp với hai hay nhiều loại thuốc với nhau theo tỉ lệ nhằm
ngăn ngừa một lúc nhiều dịch hại gây ra. Khi pha thuốc thì cần phải đọc kỹ hướng dẫn
ghi trên nhãn thuốc. Chú ý chỉ tối đa 2 nhóm thuốc khác gốc hóa học, khác cách tác
động, khác đối tượng phịng trừ trong cùng một bình phun.
Sử dụng hỗn hợp thuốc này cò nhiều ưu điểm như sau :
- Mở rộng được phổ tác dụng ( cùng một lúc nhưng ngăn ngừa được nhiều laòi sâu ,
bẹnh hại).
- Sử dụng được sự tương tác có lợi

- Tiết kiệm được công lao động, tăng hiệu quả kinh tế...
Tuy nhiên khi sử dụng cần cần phải tuân thủ theo những khuyến cáo của nhà sản
xuất, khơng hỗn hợp thuốc có tính axit với tính kiềm.
*Lưu ý : Từ khi phun thuốc cho đến khi thu hoạch phải đảm bảo cho thuốc bảo vê thực
vật có đủ thời gian phân hủy để không gây ra những tác động xấu cho cơ thể người và
gia súc khi sử dụng nông sản.


Mäột số hình ảnh thu được trong quá trình thực tập

Cây xồi


Cây bơng

Cây thanh trà

Cây bưởi

Cây khế


Cây xồi

Vải thiều


Mai chiếu thủy

Cà phê mít

Cà phê Catimo

Hoa hồng môn


Cây mưng


Cây đậu xanh

Hoa lay ơn

Cúc vàng hè

Thanh trà


Hoa hướng dương

Cây xương rắn


Cây Bầu eo

Cây sơ - ri

Cây măng tây

Cây húng chó


Phần III : KẾT KUẬN, ĐỀ NGHỊ:
I. Kết luận :

Qua q trình đi thực tế ở vườn trường ĐH Nơng Lâm, vườn cây bác Nghĩa ở
phường Tây Lộc, ở phường Tây Linh ( vườn rau ), mơ hình sản xuất rau muống ở hồ
Tịnh Tâm, vườn nhà bác Tùng bản thân em cũng như các bạn trong lớp đã có thêm
những kiến thức bổ ích như cách ghép, chiết cây, cách phun thuốc kích thích sinh trưởng
cho các loại cây và nhiều cái khác. Đặc biệt chúng em còn được biết thêm mơ hình trồng
rau sạch ở vườn trường ĐH Nông Lâm và rất nhiều vấn đề khác.
II. Kiến Nghị :
Do thời gian đi thực tế còn hạn chế cộng với điều kiện thời tiết bất lợi nên chuyến
đi này của chúng em khơng được thuận lợi cho lắm. Vì vậy em có đề nghị là cần có thời
gian đi thong thả và thoải mái hơn để các bạn sinh viên những khóa sau có điều kiện tiếp
cận tốt hơn với những kiến thức thực tế bổ ích như thế này, có thể nói đó là những kiến
thức rất cơ bản mà sau này ra trường chúng em cần nó rất nhiều.




×