Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Đề tài giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường đại học nội vụ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.46 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC

GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Mã số đề tài: ĐTSV.2020.09

Chủ nhiệm đề tài : Phan Lạc Hoàng Anh
Lớp
: 1605CTHA
Cán bộ hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tƣơi

Hà Nội, 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC

GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Mã số đề tài: ĐTSV.2020.09

Chủ nhiệm đề tài
: Phan Lạc Hoàng Anh - 1605CTHA
Thành viên tham gia : Vũ Thị Trúc Mai - 1605CTHA


Lại Thùy Dƣơng - 1805CTHA
Cán bộ hƣớng dẫn
: ThS. Nguyễn Thị Tƣơi

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài...................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 3
5. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................... 3
6. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 3
7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................... 4
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG
KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO
DỤC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HIỆN NAY ....................................................... 5
1.1. Tư tưởng khoan dung, đoàn kết – giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam 5
1.1.1. Khái niệm giáo dục,khoan dung, đoàn kết ............................................. 5
1.1.2. Khái quát tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam ..................................................................................................................... 9
1.2. Sự cần thiết của việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh
viên các trường Đại học trong bối cảnh hiện nay........................................... 19
1.2.1. Đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn lao động tồn diện của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ............................................. 19
1.2.2. Thực hiện xây dựng con người mới theo quan điểm của Đảng.......... 22
1.2.3. Chống lại những biểu hiện tiêu cực của bộ phận SV trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ............................ 24

1.2.4. Giữ gìn, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong quá trình hội
nhập quốc tế ...................................................................................................... 25
CHƢƠNG 2. GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI – THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.............................................................................. 28


2.1. Đặc điểm sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục tư tưởng
khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội............ 28
2.1.1. Đặc điểm sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............................ 28
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết
cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội................................................. 30
2.2. Thực trạng giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường
Đại học Nội vụ Hà Nội .................................................................................... 44
2.2.1. Kết quả một số hoạt động giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho
sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ........................................................ 44
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hoạt động giáo dục tư tưởng
khoan dung, đoàn kết cho sinh viên cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà
Nội ..................................................................................................................... 49
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn
kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội........................................... 52
2.3.1. Về phía nhà trường ................................................................................ 52
2.3.2. Về phía gia đình ..................................................................................... 62
2.3.3. Về phía bản thân sinh viên .................................................................... 63
Tiểu kết chương 2............................................................................................. 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta khẳng định
phương hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết tồn dân tộc:“tơn
trọng những điểm khác biệt khơng trái với lợi ích chung của quốc gia - dân
tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung
để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường
quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của
khối đại đoàn kết dân tộc‖. Thật vậy, khoan dung, đoàn kết là truyền thống
quý báu, là nét đẹp văn hóa như sợi chỉ đỏ xun suốt dịng chảy lịch tử tư
tưởng Việt Nam hàng ngàn năm qua. Nhờ có truyền thống khoan dung, đồn
kết, dân tộc ta đã giành thắng lợi lớn trong các cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại.
Sau khi giành độc lập, nhớ có tinh thần khoan dung, đoàn kết, thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau, đất nước ta đã thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa
nước ta ngày càng giàu mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Góp vào
thành cơng lớn lao ấy, có một phần khơng nhỏ cơng lao của các thế hệ thanh
niên, mà trong đó sinh viên là thế hệ trẻ tiêu biểu cho sức mạnh của đất nước
hôm nay và mai sau.
Việc giáo dục về tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung,
giáo dục tinh thần khoan dung, đồn kết nói riêng góp phần bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức, lối sống cho sinh viên là vô cùng cần thiết. Nhất là trong giai
đoạn hiện nay, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận sinh
viên có lối sống thiếu khoan dung trong giải quyết mâu thuẫn, chưa biết lắng
nghe, thấu hiểu và tôn trọng những điểm khác biệt của người khác, tư tưởng,
văn hóa khác biệt. Đây là vấn đề có tính chất thời sự trong bối cảnh hiện nay,
trong khi các cơng trình nghiên cứu về đề tài này gần như chưa có.
Vì những lí do trên, nhóm tác giả quyết định chọn đề tài: “Giáo dục tư
tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội‖
nhằm nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản liên
1



quan đến nội dung đề tài. Phân tích thực trạng từ đó đưa ra một số giải pháp
nâng cao hiệu quả việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên
Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận cơ bản về ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối
sống sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay, đề tài chỉ ra một số nguyên nhân
và giải pháp góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng khoan dung,
đoàn kết tới đạo đức lối sống của sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Nhằm đẩy mạnh giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV nói chung
và SV Trường ĐHNVHN nói riêng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi phải
giải quyết được các vấn đề sau:
Thứ nhất, tập trung tìm hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng
khoan dung, đoàn kết; giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên
trường Đại học Nội Vụ Hà Nội.
Thứ hai, nghiên cứu một số ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn
kết tới sinh viên Nội Vụ giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, chỉ ra một số nguyên nhân của những ảnh hưởng tiêu cực, giải
pháp phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới sinh
viên Nội Vụ giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, đề ra một số phương hướng, giải pháp để nhằm nâng cao hiêu
quả việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Đại học Nội
Vụ Hà Nội
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lý thuyết về khoan dung, đoàn kết và việc vận
dụng, phát huy tư tưởng khoan dung, đoàn kết đối với sinh viên nói chung và

2


sinh viên trường Đại học Nội vụ nói riêng.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Lịch sử tư tưởng khoan dung, đoàn kết;
+ Khảo sát thực tiễn vận dụng, giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết,
cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội cơ sở Hà Nội.
+ Từ năm 2016 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Quan điểm về khoan dung, đoàn kết trong lịch sử tư tưởng Việt Nam;
+ Quan điểm về khoan dung, đoàn kết của Đảng ta.
+ Những kết quả nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước liên quan đến
chủ đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu chủ yếu vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Đồng thời, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: phân tích, tổng hợp, logic –lịch sử, so sánh đối chiếu, phương pháp
liên ngành; chính trị học so sánh...
5. Giả thuyết nghiên cứu
Ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống
sinh viên ngày càng rõ nét. Nhưng hiện nay, nhận thức của bộ phận sinh viên
về vấn đề này chưa thật sự rõ nét.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài “Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường
Đại học Nội Vụ Hà Nội‖ là công trình nghiên cứu chuyên sâu và đưa ra một
số điểm mới sau:

- Hệ thống hóa lý thuyết về khoan dung, đoàn kết trong lịch sử và xác
định giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong thực
3


tiễn xã hội hiện nay;
- Phân tích thực trạng của việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết
cho sinh viên trường Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc giáo dục tư tưởng
khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội giai đoạn
hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài được kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết.

4


CHƢƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG
KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN Ở CÁC CƠ SỞ
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HIỆN NAY
1.1. Tƣ tƣởng khoan dung, đoàn kết – giá trị tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm giáo dục,khoan dung, đoàn kết
- Khái niệm giáo dục
Theo cuốn Tài liệu bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo
dục, 2007 của Ts. Nguyễn Văn Tuấn, Giáo dục vừa mang tính khoa học vừa
mang tính nghệ thuật. Giáo dục là một q trình đào tạo con người một cách
có mục đích, nhằm chuẩn bị cho họ tham gia vào đời sông xã hội, lao động

sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hộiinh nghiệm lịch sử xã
hội của loài người. Giáo dục được hiểu dưới hai góc độ:
(1) Giáo dục được xem như là tập hợp các tác động sư phạm đến người
học với tư cách là một đối tượng đơn nhất;
(2) Giáo dục được như là một hoạt động xã hội, dạng tái sản xuất ra lực
lượng lao động mới. Ở đây, đối tượng là thế hệ trẽ, là tập hợp các đối tượng
đơn nhất. Giáo dục là đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động;
Khi nói đến giáo dục theo nghĩa rộng, là ta thường liên tưởng ngay đến
cụm từ "giáo dục theo nghĩa hẹp và đào tạo".
Giáo dục theo nghĩa hẹp, là một quá trình hoạt động có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch của một người (hay một nhóm người) - gọi là giáo viên nhằm tác động vào hệ thống nhận thức của người đó, để làm phát triển trí
thơng minh, phát triển khả năng nhận thức phù hợp với thế giới khách quan,
và làm phát triển nhận thức của người đó lên; qua đó tạo ra một con người
mới, có những phẩm chất phù hợp với yêu cầu được đặt ra.
Giáo dục theo nghĩa hẹp là nuôi dưỡng, làm cho phát triển hoặc triệt
tiêu, giảm cái có sẵn. Ví dụ như trí thơng minh căn bản là cái có sẵn, tính
5


thiện là cái có sẵn,... Giáo dục làm tăng trưởng trí thơng minh căn bản, và tính
thiện lên.
Ðào tạo là một quá trình truyền thụ, chuyển giao kiến thức và kinh
nghiệm một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người (hay một
nhóm người) - gọi là giáo viên - vào người đó, nhằm tạo ra một số sự nhận
thức, một số kỹ năng hoạt động phù hợp với yêu cầu của công việc, và phát
triển chúng nó lên bằng cách rèn luyện. Cơng việc này có thể là hoạt động trí
não, hay hoạt động chân tay.
Đào tạo là tạo ra cái mới hoàn toàn, chứ khơng phải là cái có sẵn. Ví dụ
chữ viết, những kiến thức về toán học, các kỹ năng về tay nghề, các thế võ,...
Ban đầu chúng hồn tồn chưa có nơi một con người. Chỉ sau khi được huấn

luyện, đào tạo thì chúng mới có ở nơi ta.Ví dụ: học sinh được dạy học mơn
tốn, để có kỹ năng tính tốn. Một nhà khoa học được đào tạo, để có các kỹ
năng nghiên cứu khoa học. Một vị Tu sĩ được dạy cách ngồi thiền, để có thể
ngồi thiền tu tập sau này. Một người công nhân, được đào tạo tay nghề, để có
thể làm việc sau này...
Tuy rằng, khơng phải là đào tạo, nhưng muốn giáo dục thành công thì
cần phải thơng qua cơng tác đào tạo. Vì vậy chúng có mối liên hệ rất mật thiết
với nhau. Cho nên khái niệm giáo dục trong bộ môn này được hiểu bao gồm
cả giáo dục và đào tạo.
- Khái niệm khoan dung
Khoan dung là phạm trù xuất hiện từ lâu và như sợi chỉ đỏ xuyên suốt
dòng chảy lịch sử tư tưởng Việt Nam các thời kỳ. Quan niệm về khoan dung
cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo Hán Việt từ điển giản yếu, học giả Đào
Duy Anh: bao dung là người có đại độ, tức là độ lượng, rộng lượng; khoan
dung là rộng lòng bao dung.
Trong Từ điển tiếng Việt, tác Hoàng Phê cho rằng, bao dung thuộc loại
tính từ với nghĩa là có độ lượng, rộng lượng với mọi người; cịn động từ
khoan dung lại có nghĩa là rộng lượng tha thứ cho người có lỗi lầm.
6


Trong dự thảo Tuyên bố về sự khoan dung của Liên hợp quốc (tổ chức
ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 16—1993), UNESCO đã nêu ra nội hàm khái
niệm và hành động cho sự khoan dung như sau: ―Người ta cần những niềm tin
của mình. Nhưng ngày nay địi hỏi một hình thức đồn kết mới, một cuộc
sống gắn bó mật thiết hơn bao giờ hết để đảm bảo rằng, những niềm tin của
chúng ta không được dẫn đến những mô hình hành vi loại trừ các niềm tin
khác. Điều chủ yếu là phải thừa nhận rằng trong khi tất cả mọi người đều bình
đẳng về phẩm cách thì họ lại khác nhau về tài năng, về niềm tin và tín ngưỡng
và những sự khác nhau đó là tồn bộ nền văn minh nói chung miễn là mọi

cơng dân được bảo đảm có những cơ hội để đối thoại và tham gia vào đời
sống cộng đồng cả về chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội ở tất cả các giai
cấp‖.
Tiếp nối tinh thần ấy, Ủy ban UNESCO Việt Nam cho rằng: ―Khoan
dung là một hình thức tự do, tự do về tư tưởng, tự do về pháp lý. Một con
người khoan dung là người làm chủ về tư tưởng và hành động của mình.
Khoan dung là một thái độ ứng xử tích cực, khơng hàm ý ban ơn hay hạ mình
chiếu cố đối với những người khác. Khoan dung là thừa nhận và chấp nhận sự
khác biệt. Đó là học cách nghe, cách thông tin và cách hiểu người khác.
Khoan dung là chấp nhận sự đa dạng của các nền văn hóa; là sự cởi mở đối
với những tư tưởng triết lý khác mình, là sự ham học hỏi, tìm hiểu những điều
bổ ích để làm giàu cho bản thân, khơng bác bỏ nhưng gì mà mình chưa biết.
Khoan dung là tôn trọng quyền tự do của người khác. Khoan dung là sự thừa
nhận khơng có một nền văn hóa, một quốc gia hay một tơn giáo nào độc tôn
về tri thức và chân lý‖
Như vậy, khoan dung là một phạm trù dùng để chỉ thái độ, cách ứng xử
tơn trọng, xóa bỏ sự kỳ thị đối với các khác biệt; là việc chấp nhận có phê
phán những tư tưởng khác mình trên vũ đài cơng khai và có sức thuyết phục
tất cả các bên trên cơ sở hiểu mình, hiểu người để cùng tồn tại trong hịa bình.
Khoan dung khơng phải là sự nhượng bộ, sự hạ mình mà là trách nhiệm của
7


mỗi người để duy trì và bảo đảm quyền con người
- Khái niệm đoàn kết
Đoàn kết là hiện tượng nhiều người kết hợp với nhau thành cộng đồng
thống nhất cùng hoạt động vì một mục đích chính đáng, phù hợp trên cơ sở
pháp luật và chuẩn mực đạo đức. Khái niệm đồn kết có khi cịn được hiểu là:
đồng tâm hiệp lực, tề tâm nhất trí, liên hợp, kết hợp,...
Đồn kết là một xu thế tất yếu trong sự phát triển của các cộng đồng

người. Các cộng đồng người đang hiện diện trên trái đất đều đã trải qua nhiều
thử thách trong quá trình phát triển của mình. Sự khắc nghiệt của quy luật
cạnh tranh sinh tồn, của hiện tượng cá lớn nuốt cá bé đã chi phối các quan hệ
giữa các tộc người, không trừ bất cứ một cộng đồng nào. Cộng đồng nào vượt
lên được thì sống, khơng vượt lên được thì chết. Sống được, ngồi lý do khác
ra thì đồn kết là một yếu tố quan trọng có tính quyết định.
Tinh thần đồn kết là sự gắn kết, sự liên kết bền chặt giữa các cá nhân
trong một tập thể để trải qua hoặc hoàn thành những giai đoạn khác nhau của
cuộc sống. Nó giúp cho con người cảm thấy bản thân mình khơng bị lạc lõng,
ln có động lực để phấn đấu tới những điều tốt đẹp hơn. Tinh thần đoàn kết
giống như một tấm lá chắn lớn giúp con người vững bước vượt qua những
khó khăn, thách thức trong cuộc sống. Tinh thần đoàn kết khơng chỉ có ý
nghĩa và vai trị quan trọng trong quá khứ mà còn nguyên những giá trị tới
hiện tại và tương lai. Tinh thần đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý
báu của dân tộc ta từ xưa đến nay.
Như vậy, khoan dung, đoàn kết (KD, ĐK) là truyền thống tốt đẹp của
nhân dân ta từ bao đời nay. Tinh thần ấy thể hiện qua sự tương trợ, giúp đỡ
lẫn nhau bằng những hành động cụ thể. Nhất là những khi gặp hoạn nạn, khó
khăn; khoan dung, đồn kết cũng có khi chỉ đơn giản thể hiện ở những việc
nhỏ nhặt hằng ngày, như cùng nhau giải một bài tốn khó hay cùng nhau làm
một bài văn hay, bỏ qua những sai lầm khi người ta biết xin lỗi, sửa chữa. Và
dĩ nhiên, kết quả sau khi khoan dung, đồn kết thường tốt hơn, vì đó là ý kiến
8


của nhiều người, từ đó chính sự khoan dung, đồn kết là con đường, sức mạnh
dẫn đến thành cơng. Đồn kết, khoan dung có ở khắp mọi nơi như trong gia
đình anh em hồ thuận, thương u, chia sẻ khó khăn với nhau, ở trường, các
bạn cùng giúp nhau tiến bộ, hợp sức lại để lớp đi lên; nhà trường quyên góp
tiền cho đồng bào lũ lụt, giúp bạn nghèo vượt khó…

1.1.2. Khái qt tư tưởng khoan dung, đồn kết trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam
Tư tưởng khoan dung, đoàn kết như dịng chảy vơ tận, đóng góp lớn
vào kho tàng tri thức của lịch sử tư tưởng Việt Nam xưa và nay. Trong đề tài
nghiên cứu này, nhóm tác giả khái quát tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong
quan niệm truyền thống Việt Nam, quan niệm về khoan dung, đoàn kết của
một số danh nhân tiêu biểu như: Trần Nhân Tơng, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh
và quan niệm của Đảng ta về khoan dung, đoàn kết.
* Khoan dung và đoàn kết trong quan niệm truyền thống Việt Nam
Mặc dù chúng ta không đồng thuận lắm về cách hiểu từ khoan dung,
nhưng trong cách hiểu của chúng ta vẫn có gặp gỡ nhất định. Trên nghiên cứu
của nhóm tác giả thấy lĩnh vực khoan dung sáng giá nhất của sử Việt Nam
trong kỷ nguyên Đại Việt chính là khoan dung tôn giáo.
Trong lịch sử du nhập tôn giáo từ phương Đông và Phương Tây vào
Việt Nam, sự tiếp nhận của người Việt không bao giờ là cực đoan, nghiệt ngã,
hay lạnh lẽo, kỳ thị, mà là sự tiếp nhận rộng lượng, nhân ái, thuận hịa. Có lẽ
vì thế, ở Việt Nam hầu như khơng có chiến tranh tơn giáo. Ngay từ thời Lý Trần, đã diễn ra sự kiện tôn giáo đặc sắc về tinh thần khoan dung: Tam giáo
đồng tơn, giữa Nho - Phật - Đạo. Theo nhóm tác giả, nghĩa bản vị của cụm từ
này là đồng tôn, không chắc là đồng nguyên, theo cách gọi thông thường là
Tam giáo đồng nguyên. Và đồng tôn, là tôn trọng nhau, không lệ thuộc,
không áp đặt, xâm lấn nhau, và cùng tồn tại. Tôn giáo nào trong ba tôn giáo
này cũng nhận được sự tôn trọng của người Việt về sự độc lập của chính tơn
giáo ấy. Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, dù vào Việt Nam theo cách nào,
9


cũng đều được Việt hóa, và tơn giáo nào cũng được tôn trọng, trong đời sống
xã hội của người Việt qua hàng nghìn năm lịch sử. Đây chính là cơ sở văn hóa
của sự khoan dung tơn giáo ở Việt Nam.
Ở Việt Nam đã tiếp tục xuất hiện sự khoan dung trong lĩnh vực rất khó

khoan dung, đó là lĩnh vực quân sự, chính trị. Đây chính là ứng xử Việt mang
nhiều tinh thần rộng lượng, khoan hòa, tha thứ. Ở thế kỷ 13, năm 1289, sau
chiến thắng Bạch Đằng, kết thúc 3 cuộc đại thắng quân Nguyên, các vị vua
nhà Trần không chỉ nổi bật ở tinh thần Sát Thát của danh tướng Trần Bình
Trọng, mà cịn cư xử đầy khoan dung với những lầm lỗi lịch sử của khanh
tướng nhà Trần. Thượng Hồng Trần Thánh Tơng và vua Trần Nhân Tông dù
biết mười mươi (do lấy được tài liệu mật từ cuộc quy hàng của Thoát Hoan)
tội phản nghịch của các vị tướng lĩnh, quan lại tôn thất nhà Trần (viết sớ xin
hàng Thoát Hoan, dâng đất, vàng bạc cống nạp, nịnh nọt thăng quan tiến
chức…), nhưng hai vị vua anh minh và nhân ái này đã chọn cách ứng xử: coi
như không biết, và tha cho bằng hết các vị tôn thất phản nghịch này, sai đốt
sạch các thư từ tài liệu ghi chép về tội phản nghịch lấy được từ Thốt Hoan,
để làm n lịng những kẻ phản nghịch (điều này được sử gia Ngô Sĩ Liên ghi
chép và bình luận trong ―Đại Việt Sử ký tồn thư‖).
Sau khi đánh tan giặc Minh năm 1427, khơng những chấp nhận cho
Vương Thơng ―giảng hịa‖, và thấy rõ tướng giặc ―thực bụng cầu hòa‖ rút tàn
quân về nước, Lê Lợi lại còn cấp thuyền, ngựa, lương thực… cho cuộc lui
qn này, nhằm mục đích ―ta muốn giữ tồn quân để dân yên nghỉ‖. Nên việc
tha thứ, khoan dung của người Việt trong lịch sử đã thành một truyền thống,
được tiếp nối rất tốt đẹp trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
sau này…
* Khoan dung và đồn kết trong tư tưởng Trần Nhân Tơng
Khơng chỉ là một vị minh quân, một vị anh hùng trong chiến tranh và
nhà kiến tạo trong hịa bình, Trần Nhân Tơng còn là sơ tổ của Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử, là một trong những đại diện xuất sắc nhất của truyền thống tư
10


tưởng Việt Nam mà trong bài viết Cội nguồn ngôn ngữ học của đặc điểm tư
duy người Việt chúng tôi đã định danh bằng thuật ngữ ―thực tiễn luận cộng

đồng‖.
Ở Trần Nhân Tơng, truyền thống ấy có thể gọi là ―thực tiễn luận Thiền
tông‖, một hệ thống triết lý được Trần Nhân Tơng trình bày đặc biệt súc tích
trong Cư trần lạc đạo: sống giữa phàm trần mà vui với đạo, thuận theo hồn
cảnh mà làm, tìm giác ngộ ở chính tâm mình.
Trần Nhân Tơng vừa lên ngơi thì Hốt Tất Liệt đã phái sứ bộ do Sài
Thung cầm đầu đến nước ta gây sự. Trước nguy cơ xâm lược của ngoại bang,
Trần Nhân Tông đã buộc phải trực tiếp lãnh đạo không phải một mà hai cuộc
chiến tranh vệ quốc. Là người am tường giới luật của nhà Phật, cách làm của
Trần Nhân Tông thật độc đáo, vô cùng hiếm hoi không chỉ trong lịch sử Việt
Nam, mà cả trong lịch sử thế giới: nhà vua tổ chức ―trưng cầu quân ý‖ (Hội
nghị Bình Than) và ―trưng cầu dân ý‖ (Hội nghị Diên Hồng). Có thể nói,
bằng cách đó, ông giải quyết được một vấn đề mang tính nguyên tắc: cuộc
kháng chiến vệ quốc là thuận theo ý của quân dân, theo đó, nhà vua chấp nhận
hy sinh mạng sống trăm người để cứu lấy mạng sống muôn người. Tuy nhiên,
có một mục đích khác khơng kém phần quan trọng, đó là củng cố tinh thần,
tạo dựng sự đồn kết tồn dân. Chúng ta có thể khẳng định điều này một cách
chắc chắn nếu liên hệ với hàng loạt biện pháp khác như ân xá cho dân chúng,
điều động và thăng chức cho các tướng, tha tội cho Trần Khánh Dư nhiều tật
xấu và lỗi lầm từng bị cách chức xuống làm nghề bán than cuối cùng lại được
vua Nhân Tông ban áo ngự, cho bàn việc binh lại hạ chiếu phục chức và
phong làm Phó Đơ tướng qn, củng cố quan hệ hữu hảo với Chiêm Thành…
Chính khối đoàn kết toàn dân là điều kiện quyết định đối với hai cuộc
kháng chiến chống Nguyên Mông. Chủ trương đại đồn kết dân tộc của Trần
Nhân Tơng cũng thể hiện không kém phần độc đáo trong sự nghiệp kiến thiết
đất nước thời bình. Sau khi đánh đuổi ngoại xâm, Trần Nhân Tông không chỉ
đưa ra những quyết sách an dân thông thường như giảm tô thuế và tạp dịch,
11



ban thưởng cho người có cơng, ban hành lệnh đại xá…, mà cịn có những
quyết định vơ cùng hiếm gặp ở những nhà lãnh đạo khác. Một trong những
quyết định đó là ra lệnh đốt tất cả các giấy tờ liên quan đến những người từng
phản bội. Bằng cách xóa bỏ những tội lỗi của một số thần dân trong quá khứ,
giúp họ hòa nhập vào một tương lai chung của dân tộc, còn nhiều hành xử bao
dung giúp người hòa giải như chuyện giúp Lê Tòng Giáo và Đinh Củng Viên,
đã trở thành ―thiên tử của hòa giải‖. Đặt lợi ích quốc gia cao hơn lợi ích cá
nhân, gia đình, nên vua quan, tướng lĩnh triều Trần đã vượt qua được những
rào cản của tư thù nhỏ hẹp để đạt đến những ứng xử khoan dung đáng trân
trọng. Trần Nhân Tông đưa ra một thông điệp vĩ đại của lòng khoan dung.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với những chiến cơng
hiển hách, trong đó có những chiến công của Trần Nhân Tông, dạy chúng ta
rằng sự phát triển và thịnh vượng của đất nước trong mọi lĩnh vực, như kinh
tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, xã hội và quốc phịng chỉ có thể có được nếu
dựa trên một nền tảng sâu xa, vững chắc, đó là sự đồn kết của tồn dân tộc.
Đồn kết dân tộc chính là cách mà cha ơng ta nhiều lần sử dụng như là kế sâu
rễ bền gốc, là nền tảng của sức mạnh quốc gia.
* Khoan dung và đoàn kết trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi biểu hiện ở lòng thương người,
ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể nói, đây là nét
độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến lược
―tâm công‖ Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là
sự thể hiện nét độc đáo riêng ấy. ―Tâm cơng‖ – đánh vào lịng người – sách
lược đã được Nguyễn Trãi dày cơng suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các
sách về binh pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc ở Việt Nam đương thời. ―Tâm công‖ tức là dùng lý lẽ tác động
vào tinh thần, vào ý thức kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm
hố chúng, từ đó đập tan tinh thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý
chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến tới chấp nhận con đường hoà giải, rút quân
12



về nước. Tất nhiên, chiến lược ―tâm công‖ ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn
kết hợp chiến đấu bằng vũ khí, quân sự, ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã
chứng tỏ rằng, chiến lược đó là hồn tồn đúng đắn.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nổi bật ở quan điểm về cách đối
xử với kẻ thù khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện đức ―hiếu sinh‖, sự
―khoan dung‖ của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như tư tưởng nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách
đối với hàng binh, đã chủ trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo
điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an tồn và khơng mất thể
diện. Trong thư gửi Vương Thông, ông viết: ―Cầu đường sửa xong, thuyền xe
sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn
phần‖. Theo Nguyễn Trãi: ―Trả thù báo ốn là thường tình của mọi người; mà
khơng thích giết người là bản tâm của người nhân‖. Để dân n vui, nước hồ
bình, đó là khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ơng nói: ―Dùng
binh cốt lấy bảo tồn cả nước làm trên hết. Để cho bọn Vương Thơng trở về
nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là điều ta cần khơng gì hơn thế
nữa‖. ―Tuyệt mối chiến tranh‖, ―bảo toàn cả nước là trên hết‖ đã thể hiện lập
trường chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói, đó là một tinh thần
nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy
tinh thần nhân bản. Tầm chiến lược, nhìn xa trơng rộng và khoa học trong tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người
hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định
sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để
phát huy hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức
mạnh của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã
chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài.
Khơng chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa

của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng
13


Việt Nam; mặt khác, cịn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của
đất nước trong những thời đại sau này.
* Khoan dung và đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại đồn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống
cực kì quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một
triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm
của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn
cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
Với nhãn quan chính trị sắc bén, với tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả
cuộc đời, Hồ Chí Minh đã khơng ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống
quan điểm về đại đồn kết dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đồn kết trong
tồn Đảng và các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng
bào Việt Nam ở xa Tổ quốc.
Đối với Người, độc lập dân tộc chỉ có giá trị khi gắn liền với tự do,
hạnh phúc, với cơm no áo ấm của người dân lao động, Người nói: ―Nước độc
lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí
gì‖ và ―Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no,
mặc đủ‖. Vì vậy, ngay trong những ngày đấu tranh gian khổ của nhân dân ta,
Hồ Chí Minh rất chăm lo tới đời sống cho nhân dân với phương châm vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, từng bước nâng cao đời sống vật chất, quyền tự
do dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động. Người luôn phấn đấu làm cho
dân thấy được giá trị và từng bước được hưởng quyền tự do dân chủ. Người
đồng thời căn dặn, mọi đường lối chủ trương của chính quyền phải phản ánh
được tâm tư nguyện vọng và lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân,

chính quyền phải thật sự vì dân, phấn đấu cho quyền lợi của nhân dân: ―Việc
gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức
tránh‖. Chỉ với thái độ như vậy mới thực sự lôi kéo, tập hợp được đông đảo
14


các tầng lớp nhân dân, phát huy cao nhất sự chủ động sáng tạo của từng
người, từng bộ phận, trên mọi lĩnh vực để đưa cách mạng tới thắng lợi.
Đại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền
giáo dục đối với quần chúng nhân dân. Để tăng cường khối đại đoàn kết dân
tộc, Hồ Chí Minh rất chú trọng tiến hành cơng tác tun truyền, vận động,
giáo dục quần chúng. Công tác tuyên truyền theo Người là một khoa học,
nghệ thuật cách mạng, do vậy các tổ chức và cán bộ cách mạng phải khơng
ngừng tìm tịi lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp để chuyển tải đường lối
của Đảng một cách sâu rộng tới nhân dân.
Muốn làm được điều đó, việc quan trọng hàng đầu đòi hỏi nội dung
tuyên truyền, giáo dục, vận động phải phản ánh đúng những nguyện vọng sâu
xa và những lợi ích cơ bản nhất của dân chúng. Ở đây có những quyền lợi,
nguyện vọng chung có thể gắn kết mọi thành viên của dân tộc nhưng cũng có
những nguyện vọng riêng phù hợp với một bộ phận dân chúng, giai cấp. Do
đó, nội dung tuyên truyền, giáo dục cần phải đáp ứng được hai yêu cầu trên.
Có được nội dung tuyên truyền, vận động đúng đắn là cần thiết, song hiệu quả
tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng cịn phụ thuộc vào việc sử dụng các
hình thức tuyên truyền, vận động sao cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể,
và chính Người là một điển hình mẫu mực về việc sử dụng hiệu quả các hình
thức tuyên truyền, vận động quần chúng. Điều cần lưu ý phải ln có một nội
dung và hình thức tun truyền phù hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn
cách mạng cụ thể và đặc biệt coi trọng giáo dục tinh thần đồn kết giữa các
dân tộc, các tơn giáo trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở thái độ trân trọng, cái

nhìn rộng lượng đối với những giá trị khác nhau của văn hoá nhân loại, là
chấp nhận giao lưu, đối thoại, tìm ra cái chung, nhằm đạt tới sự hồ đồng,
cùng phát triển.
Hồ Chí Minh xa lạ với mọi thói kỳ thị văn hoá. Trong khi chống Pháp,
Người vẫn yêu mến và đề cao văn hoá Pháp; chống Mỹ và vẫn ca ngợi truyền
15


thống đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Mỹ. Bản thân Người là hình
ảnh kết tinh của tinh hoa văn hóa nhân loại Đơng và Tây. Trong một thế giới
cộng sinh về văn hóa, có sự giao lưu giữa cái chung và cái riêng, cái đồng
nhất và cái dị biệt, khoan dung Hồ Chí Minh là chấp nhận đối thoại về giá trị,
là truy tìm cái chung, cái nhân loại để hịa đồng.
Với các tơn giáo, Hồ Chí Minh thành thật tơn trọng đức tin của người
có đạo, khẳng định lẽ sống cao đẹp, những giá trị đạo đức - nhân văn của các
vị sáng lập, không hề bài bác, phủ định mà khéo hướng lý tưởng của các tơn
giáo vào mục tiêu giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh khơng phải là một sách lược mà là
sự kế tục và phát triển truyền thống khoan dung, nhân ái của dân tộc ta qua
hàng ngàn năm lịch sử và cũng là sự thể hiện bản chất nhân văn, chính nghĩa
của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Khoan dung cũng là một biểu
hiện sức mạnh của cách mạng, chỉ có những cuộc cách mạng chân chính,
được lịng dân, mới có sức thuyết phục, cảm hóa trái tim, khối óc của quần
chúng, bao gồm cả những người lầm lạc và chống đối.
Trên thực tế, quan điểm khoan dung, độ lượng và niềm tin vào nhân
tính con người đã giúp Hồ Chí Minh: ―Đồn kết tất cả những người thật sự
u Tổ quốc, u hịa bình, khơng phân biệt họ thuộc đảng phái nào, tôn giáo
nào, tầng lớp nào và quá khứ họ đã hợp tác với phe nào. Trên nền tảng vững
mạnh là lực lượng vô địch của tối đại đa số nhân dân ta (tức là giai cấp công,
nông), với một cương lĩnh rộng rãi và một chính sách đúng đắn, với sự đồn

kết nhất trí của tất cả những người xứng đáng là con Lạc cháu Hồng - Mặt
trận nhất định sẽ thành công trong việc đánh tan âm mưu Mỹ và bè lũ tay sai
của chúng và thực hiện hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước
Việt Nam yêu quý của chúng ta‖.
* Khoan dung và đoàn kết trong quan niệm của Đảng
Kể từ khi thành lập, Đảng ta đã ln đề cao sức mạnh đồn kết trong
tồn Đảng, tồn dân tộc. Quan điểm về khoan dung, đoàn kết được thể hiện rõ
16


qua các kỳ kỳ Đại hội Đảng. Tại Đại hội VII, Văn kiện Đảng lần đầu tiên đưa
ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng: ―tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc‖ đồng thời khẳng định: ―Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đồn kết
lương giáo và giữa các tơn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hịi, thành kiến,
phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo
phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội,
ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân‖.
Đến Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định quan điểm về khoan dung, đồn kết
thơng qua việc tơn trọng ý kiến, nguyện vọng của nhân dân: ―Chính những ý
kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường
lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng
cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới
đạt được nhiều thành tựu như hôm nay‖ (tr.55,360, Văn kiện Đảng toàn tập,
Nxb CTQG, 2002)
Quan điểm về khoan dung, đoàn kết được tiếp tục trong Đại hội IX, X,
XI và đến Đại hội XII Đảng ta đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc:
-―Tăng cường khối đại đoàn kết tồn dân tộc trên nền tảng liên minh giai

cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa
bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, ―dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh‖ làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt
khơng trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc,
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi
người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa
nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân
17


tộc‖ (Tr.159)
-―Đại đồn kết dân tộc chỉ có thể thực hiện được khi giải quyết hài hịa quan
hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân‖ (Tr.159) (ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ
XII, Nxb. CTQG, 2016)
Quan điểm về khoan dung, đoàn kết của Đảng được cụ thể hóa bằng
những chỉ đạo ―Các cấp ủy Đảng và chính quyền phải thường xuyên đối
thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc
và u cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tơn trọng, lắng nghe ý kiến
khác…tơn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân‖; các chính sách
phù hợp đối với các giai cấp, tầng lớp nhân dân; Chính sách phát huy sự bình
đẳng giữa các dân tộc, dân cư ở các vùng, miền trên cả nước; Xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân- thiệnmỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; Khích lệ
sang tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững mơi trường hịa bình; Giải quyết
những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hịa bình trên cơ sở tơn trọng luật
pháp quốc tế; Giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có

hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung
đột xã hội; Xây dựng chính sách thể hiện sự ―quan tâm thích đáng đến các
tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao,
vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu nghèo; Nhà
nước ta tơn trọng tự do tín ngưỡng, tơn giáo; mặt khác lại nghiêm cấm việc kỳ
thị hoặc xúc phạm người có tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời cũng nghiêm cấm
việc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tơn giáo để làm trái pháp luật làm ảnh hưởng
đến an ninh quốc gia, đến trật tự cơng cộng, ảnh hưởng đến sự nghiệp đại
đồn kết tồn dân tộc, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh
dự của công dân hoặc trái với thuần phong mỹ tục.
18


1.2. Sự cần thiết của việc giáo dục tƣ tƣởng khoan dung, đoàn kết
cho sinh viên các trƣờng Đại học trong bối cảnh hiện nay
1.2.1. Đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn lao động tồn diện của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng, vào bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ quốc
gia nào muốn hưng thịnh đều phải lấy giáo dục làm trọng. Giáo dục không chỉ
là phúc lợi xã hội mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế -xã
hội. Thế kỷ XXI là thế kỷ của tri thức, thông tin và giáo dục là chìa khóa để
bước vào lâu đài tri thức vơ tận của con người. Nhận thức vai trị quan trọng
của giáo dục trong việc tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, các nước đều tăng
cường sức mạnh cho giáo dục để tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Ở các
nước phát triển, mơ hình đại học nghiên cứu đã phát triển đến mức độ cao,
gắn với hoạt động sáng nghiệp. Đại học vừa là các đầu tàu về tri thức, vừa là
nền tảng văn hóa của xã hội; và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao thông qua giáo dục đại học được xem là quy luật tất yếu trong thời đại
ngày nay.
Giáo dục đại học có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế

- xã hội của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm chỉ ra rằng giáo dục đào tạo và cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau; thậm chí giáo dục đào
tạo là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ và thành công của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. ―Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan
trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát
triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội;
nâng cao chất lượng theo u cầu chuẩn hố, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc‖. Thực tiễn những nước đi trước về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
19


cũng chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới trình độ phát triển mới và cao hơn thì tất
yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt giáo dục.
Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng
chính của đầu tư phát triển, giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc
sách hàng đầu. Phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh
vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ nghiên cứu và triển khai công
nghệ, cán bộ quản lý, nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh,
công nhân kỹ thuật... Việc xây dựng nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hố,
hiện đại hố phải tiến hành với tốc độ, quy mơ thích hợp, đáp ứng u cầu của
mỗi thời kỳ trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đi đơi với việc đào
tạo, bồi dưỡng, phải bố trí và sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo,
phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để
sáng tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nhưng một người giỏi

như thế nào thì vẫn cần sự khoan dung, đoàn kết giữa người với người để bổ
sung, bù đắp cho nhau cùng nhau đi lên. Và khoan dung, đồn kết cũng đã
góp phần to lớn trong việc củng cố nguồn nhân lực.
Trong trường học, có hiện tượng một số sinh viên (SV) cá biệt, bỏ học,
xa đà vào những tệ nạn xã hội. Thầy cô, bạn bè khuyên bảo nhưng ngựa theo
đường cũ nên ngày này qua tháng khác nhưng khơng bỏ được thói hư tật xấu
đó. Thầy cơ vẫn khơng đuổi bạn ấy ra khỏi trường, tìm mọi biện pháp để đưa
bạn trở lại với môi trường học đường lành mạnh hơn. Đây cũng chính là một
biểu hiện của lịng khoan dung, độ lượng mà thầy cơ đã dành cho bạn ấy.
Nếu khơng có lịng khoan dung thì xã hội này đã khơng được tốt đẹp
như bây giờ. Khoan dung sẽ khiến cho con người gần nhau hơn, có thể tạo
điều kiện và cơ hội để họ có thể trở lại làm người tốt. Một người mắc sai lầm
nhưng một người lại không chịu tha thứ, phải soi mói, phải tìm điểm hạn chế
của người đó để gây khó dễ thì mối quan hệ giữa hai người càng trở nên căng
20


thẳng, mệt mỏi hơn. Khơng ai được thanh thản vì cứ giữ sự cố chấp ở trong
lịng. Nếu có thể thứ tha được thì hãy thứ tha, vì có lẽ khi đó bản thân người
được tha thứ và người đồng ý tha thứ sẽ thanh thản hơn rất nhiều.
Khoan dung với người khác, ta sẽ thấy lịng mình thanh thản và thoải
mái hơn rất nhiều. Dù sự tha thứ rất khó khăn nhưng khơng phải là khơng thể,
chúng ta có thể cởi bỏ ràng buộc cho người khác và cho chính bản thân mình.
Khoan dung khơng bao giờ là thừa, vì nó sẽ khiến cho tình cảm giữa người
với người thêm gắn bó khăng khít hơn. Khơng những là khoan dung với
người khác và khoan dung cho chính bản thân mình cũng quan trọng khơng
kém. Lúc đó ta sẽ thấy được rằng ở bất kỳ nơi đâu, ở xã hội nào thì lịng
khoan dung là nền tảng của rất nhiều mối quan hệ. Đối với những người trẻ
thì học cách tha thứ, học cách khoan dung là điều cần phải rèn luyện để có thể
hồn thiện bản thân mình hơn.

Hay việc đoàn kết làm tăng số lượng của cải, vật chất của con người. Có
đồn kết mới có sức lao động, có đủ khả năng để xây dựng được những cơng
trình lớn. Một lớp học sẽ đạt được nhiều thành cơng khi lớp học đó có những
sinh viên khơng chỉ có năng lực mà phải có lịng đồn kết, cùng chi hướng
vươn lên. Cũng như một nhà lãnh đạo giỏi là người biết lắng nghe ý kiến của
mọi người, từ đó đưa ra giải pháp tốt nhất. Là người mà có thể liên kết các
thành viên lại một khối vững chắc. Đồn kết cịn làm tăng sức mạnh trí tuệ.
Chính sự đòan kết trong khoa học đã tạo nên nhiều thành tựu khoa học vĩ đại.
Tóm lại, đồn kết phải xuất phát từ những tổ chức nhỏ nhất, gia đình, xã hôi,
cộng đồng rồi đến nhà nước.
Giáo dục và đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp
đối với sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa với những thành tựu của nó lại tác động trở lại tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hiện đại hóa giáo dục và đào tạo. Vì vậy, phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơng nghiệp hóa,
21


×