Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên các trường mầm non thành phố quy nhơn, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

TÔ THỊ THÚY HẰNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG MẦM NON
THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số
: 8.14.01.14
Người hướng dẫn: PGS.TS. TRẦN QUỐC TUẤN


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình này là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa được cơng bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận văn

TÔ THỊ THÚY HẰNG


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian tham gia học tập, nghiên cứu tại Trường Đại học Quy
Nhơn, với tình cảm trân trọng và chân thành; xin được bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc tới Ban Giám hiệu, Phòng Sau Đại học, Khoa Khoa học Xã hội và
Nhân văn và các thầy/cô giáo đã tạo điều kiện cho tơi hồn thành nhiệm vụ
khóa học.


Đặc biệt, xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Trần Quốc Tuấn,
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện và hồn
thành luận văn này.
Trân trọng cảm ơn Phịng GD&ĐT thành phố Quy Nhơn; Ban Giám
hiệu và giáo viên các trường mầm non trên địa bàn thành phố Quy Nhơn đã
nhiệt tình cộng tác, cung cấp thơng tin, số liệu, góp ý và tạo điều kiện thuận
lợi cho tơi trong quá trình nghiên cứu luận văn.
Mặc dù bản thân có rất nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý
của q thầy/cơ, các nhà khoa học trong cùng các bạn đồng nghiệp để luận
văn hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

TÔ THỊ THÚY HẰNG


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng phát triển đội ngũ giáo viên
(ĐNGV), lúc sinh thời Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu khơng có thầy giáo
thì khơng có giáo dục...” [18]. Lời dạy của Người giúp cho chúng ta thấy
được tầm quan trọng, ý nghĩa của nghề dạy học, đặc biệt là đối với giáo viên
mầm non (GVMN). Bởi vì GVMN chính là người đầu tiên đặt nền móng cho
việc đào tạo nhân cách con người cho xã hội, là người dẫn dắt trẻ từ những
bước đi đầu tiên chập chững trên con đường học tập và giáo dục. Để đạt được
mục tiêu đó địi hỏi người giáo viên phải có tâm, có kiến thức chun mơn và
nghiệp vụ vững vàng. Họ phải ln hồn thiện và khơng ngừng trau dồi kiến

thức, kỹ năng, phong cách, bản lĩnh nghề nghiệp để phát huy tinh thần chủ
động, sáng tạo trong hoạt động sư phạm; biết phối hợp nhịp nhàng với tập thể
nhà trường trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục. Đó là con đường ngắn
nhất để giúp người giáo viên có thể truyền tải hết những yêu cầu của kiến
thức, kỹ năng của cuộc sống cho trẻ. Đội ngũ GVMN tốt sẽ giúp ươm mầm
một thế hệ tương lai tốt cho đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt” [18].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, mầm non là bậc học có vai trị quan
trọng, là bậc học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển
tồn diện nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ
thông và cho cả hệ thống giáo dục quốc dân. Vì thế, hầu hết các quốc gia và
các tổ chức quốc tế đều coi giai đoạn mầm non là “thời kỳ vàng của cuộc
đời”. Giáo dục mầm non (GDMN) là hoạt động giáo dục trẻ em dưới 6 tuổi,
có đặc thù khác với các cấp học còn lại. Trẻ em càng nhỏ giáo dục càng khó,
bởi vì vốn ngơn ngữ, hiểu biết của trẻ còn hạn chế, cơ thể đang trên đà hoàn


2
thiện và phát triển nên đòi hỏi giáo viên phải có chức năng vừa chăm sóc, vừa
giáo dục vì thế GVMN đóng vai trị quan trọng như người mẹ, để có thể đảm
bảo được trách nhiệm đối với trẻ. Hồ Chí Minh đã nói: “Làm mẫu giáo tức là
thay mẹ dạy trẻ, muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ
hay quấy phải bền bỉ, chịu khó mới ni dạy được các cháu” [18]. Do vậy,
GVMN cần hội tụ đầy đủ những yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức,
năng lực, sức khoẻ để thực hiện được mục tiêu GDMN. Bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho GVMN là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao năng lực
chăm sóc và giáo dục (CS&GD) trẻ. Chính vì thế các nhà quản lý giáo dục
(QLGD) không ngừng nghiên cứu tìm ra những biện pháp phù hợp để bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm (NVSP) cho GVMN.
Có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến công tác quản lý trong

các trường mầm non, chủ yếu đề cập đến các nội dung quản lý về đảm bảo
chất lượng CS&GD trẻ; công tác kiểm tra tài sản và cách bảo quản các đồ
dùng trang thiết bị dạy học; công tác kiểm tra nội bộ và công tác xây dựng các
nội dung bồi dưỡng cho giáo viên. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên
cứu về hoạt động bồi dưỡng NVSP cho ĐNGV các trường mầm non trên địa
bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Qua tìm hiểu thực tiễn cho thấy, hoạt động bồi dưỡng NVSP cho
GVMN ở địa phương chưa tốt, cịn mang tính tự phát, chưa khoa học, nội
dung bồi dưỡng chưa thực hiện, chưa sát với nhu cầu thực tế của từng nhà
trường và của mỗi giáo viên. Năng lực chuyên môn của GVMN trong mỗi
nhà trường không đều, số giáo viên lớn tuổi ngại tìm tịi đổi mới nâng cao
trình độ, khả năng đáp ứng với nhu cầu đổi mới còn hạn chế. Giáo viên trẻ
mới ra trường có nhiệt tình song cịn thiếu kinh nghiệm giảng dạy, nghệ thuật
lên lớp, thụ động trong quá trình dạy và học tập, chưa có ý thức để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.


3
Một trong những nguyên nhân hạn chế của hoạt động bồi dưỡng NVSP
cho GVMN ở thành phố Quy Nhơn là do chưa xác định cụ thể các biện pháp
quản lý dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp. Vì vậy, cần có những
cơng trình nghiên cứu quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho ĐNGV các
trường mầm non trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Bản thân là một viên chức đang trực tiếp làm công tác quản lý tại một
trường mầm non công lập trên địa bàn thành phố Quy Nhơn; vì vậy việc
nghiên cứu về hoạt động bồi dưỡng NVSP cho ĐNGV trên địa bàn mình cơng
tác là cần thiết, có ý nghĩa đối với cá nhân và nhà trường.
Xuất phát từ những lí do chủ u trên, chúng tơi chọn nghiên cứu đề tài
“Quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên
các trường mầm non thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định” làm luận văn

thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xây dựng lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho
GVMN và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho đội
ngũ GVMN tại các trường mầm non thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định;
chúng tơi đề xuất biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động bồi
dưỡng NVSP cho GVMN của thành phố.
3. Khách thể và đối tượng
3.1. Khách thể nghiên cứu của đề tài luận văn là hoạt động bồi dưỡng
NVSP cho ĐNGV các trường mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng và các biện pháp
quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho ĐNGV ở các trường mầm non trên
địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.


4
4. Giả thuyết khoa học
Trong thời gian qua hoạt động bồi dưỡng NVSP cho giáo viên các
trường mầm non thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định đã đạt được những kết
quả nhất định; tuy nhiên vẫn còn một số bất cập về công tác quản lý. Nếu đề
xuất và áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ, khoa học, phù hợp với thực
tiễn thì việc quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho GVMN trên địa bàn
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định sẽ được cải thiện, nâng cao chất lượng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp, khái quát, hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến
quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho GVMN.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho
GVMN thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho
GVMN thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định và tiến hành khảo nghiệm tính

cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp.
6. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn:
Về nội dung nghiên cứu: Tập trung làm rõ thực trạng và đề xuất các
biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho GVMN thành phố Quy
Nhơn, tỉnh Bình Định.
Về đối tượng khảo sát: Chúng tôi tiến hành khảo 53 CBQL, 150
GVMN đang tham gia công tác tại các trường mầm non công lập trên địa bàn
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Về địa bàn nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu về quản lý
hoạt động bồi dưỡng NVSP cho ĐNGV ở 27 trường mầm non công lập trên
địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2019 đến đầu năm 2020.


5
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu
về lý luận có liên quan đến hoạt động quản lý bồi dưỡng NVSP cho GVMN
để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phương pháp điều tra, phương pháp quan sát, phương pháp
trò chuyện, phương pháp tổng kết kinh nghiệm trong QLGD nhằm khảo sát,
đánh giá thực trạng hoạt động quản lý bồi dưỡng NVSP cho GVMN để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài và đề xuất các biện pháp phù hợp, khả thi.
7.3. Nhóm phương pháp bổ trợ
Vận dụng tốn học thống kê, tin học để xử lý, phân tích số liệu thu
được về mặt định lượng các kết quả khảo sát.
8. Cấu trúc của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung luận
văn được cấu trúc làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cho giáo viên mầm non.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho giáo viên các trường mầm non thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho giáo viên các trường mầm non thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng giáo viên nói chung, bồi
dưỡng NVSP cho GVMN nói riêng đã có những cơng trình nghiên cứu của
các tác giả trong và ngồi nước.
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
N.M. Ia-cốp-lep trong cuốn: Phương pháp và kỹ thuật lên lớp trong
trường phổ thông [23] đã nêu rất cụ thể việc giáo viên phải làm gì? Những
yêu cầu đối với giáo viên ra sao? Tác giả nêu ra những thành công cũng như
thất bại trong nghề dạy học nhằm làm sáng tỏ vấn đề nâng cao chất lượng
giảng dạy trong nhà trường.
X.L. Ki-xê-cốp với cơng trình: Hình thành các kỹ năng, kỹ xảo sư
phạm trong điều kiện của nền giáo dục đại học [24], đưa ra hai giai đoạn
trong thực tập sư phạm: thực tập tập luyện và thực tập tập sự là con đường
chủ yếu để hình thành các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho người giáo sinh.
Trong cuốn: Tự đào tạo để dạy học [32], P. Pelpel đã gợi ý cho chúng

ta một cách tiếp cận khoa học có tính phương pháp luận về nghề dạy học,
cách xác định các mục tiêu sư phạm, cách lựa chọn các phương pháp và kỹ
thuật dạy học thích hợp, cách tự đánh giá cùng với những dự báo về xu hướng
phát triển các phương pháp và kỹ thuật dạy học ở nhà trường tương lai. Cuốn
sách là những công cụ lý luận cần thiết cho mỗi nhà giáo khi tiến hành quá
trình tự đào tạo để dạy học.
Trong cuốn: Một số vấn đề đào tạo giáo viên [11], M. Develay đã đưa


7
ra vấn đề hết sức cơ bản cho việc dạy học “Nghề dạy học luôn thuộc về lĩnh
vực nghệ thuật và khoa học”. J. Nimier với cuốn: Giáo viên rèn luyện tâm lý
[31], cho rằng không phải việc đào tạo tâm lý chỉ làm ở các trường sư phạm
mà đủ. Cả cuộc sống nghề nghiệp của họ sau này, người giáo viên vẫn ln tự
rèn luyện mình. Có tài liệu khẳng định, những yêu cầu về chuyên môn của
người thầy giáo tất nhiên khơng phải chỉ có những kiến thức phong phú mà
cịn có những kỹ năng cần thiết để tổ chức và thực hành công tác giáo dục,
vấn đề không phải chỉ ở chỗ tiếp thu kiến thức về tâm lý học và giáo dục học
mà việc biết vận dụng vào thực tế. Muốn làm công tác giáo dục tốt cần phải
có kỹ năng giáo dục và phải có thời gian. Như vậy, việc bồi dưỡng giáo viên
thường xuyên là rất cần thiết.
Các nhà nghiên cứu của Liên Xô trước đây cũng chỉ ra vai trò quan
trọng của QLGD, họ khẳng định một chân lý rằng kết quả hoạt động của nhà
trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý các công việc
của người giáo viên. V. A. Xu-khôm-lin-xki cùng với nhiều tác giả đã đưa ra
một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng (HT) tại các nhà trường. Phải có sự
phân cơng hợp lý công việc trong Ban Giám hiệu; Thường xuyên quan tâm
xây dựng kế hoạch và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho ĐNGV [43].
Từ năm 1998, giáo dục Thái Lan đã quan tâm tới việc bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên ở các trung tâm học tập

cộng đồng nhằm thực hiện giáo dục cơ bản, huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp.
Ở Pakistan có chương trình bổ túc nâng cao về chun mơn, NVSP do nhà
nước quy định, trong thời gian là 3 tháng gồm các nội dung phương pháp
nghiên cứu, đánh giá học sinh, cơ sở tâm lý - giáo dục, nghiệp vụ dạy học đối
với giáo viên mới vào nghề chưa quá 3 năm. Đất nước Triều Tiên luôn coi
trọng giáo dục, vì vậy đã ban hành những chính sách thiết thực để khơng
ngừng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ cho ĐNGV. Tất cả giáo viên


8
đều phải tham gia học tập đầy đủ các nội dung chương trình về nâng cao trình
độ chun mơn nghiệp vụ theo quy định.
Tại nước Anh, từ cuối thập kỷ 80 việc đào tạo theo chuẩn trong lĩnh
vực dạy học ngày càng được chính phủ chấp nhận và khuyến khích. Trong
lĩnh vực dạy học người ta thận trọng trước sự đòi hỏi quá chi tiết của phương
pháp dạy học. Điều đó được Hội đồng bằng cấp quốc gia thừa nhận trong bản
đánh giá các bước khởi đầu của đào tạo theo chuẩn tại các trường học và các
cơ sở đào tạo học viên.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam hiện nay vấn đề bồi dưỡng nói chung, NVSP nói riêng cho
giáo viên đang là yêu cầu cấp bách đối với nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục,
giảng viên và cán bộ QLGD quan tâm nghiên cứu ở các góc độ, nội dung,
hình thức khác nhau nhằm nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp cho giáo
viên và hiệu quả của công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên.
Những năm qua, các nhà QLGD, HT, Phó HT các nhà trường đã có
hồn thành các luận văn, luận án liên quan đến bồi dưỡng giáo viên. Tiêu biểu
như: Nguyễn Thị Bích Thủy [36]: Các biện pháp quản lý chuyên môn của
Hiệu trưởng các trường tiểu học ở tỉnh Quảng Nam, Nguyễn Văn Tiến [37]:
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý chuyên môn của Hiệu trưởng
các trường mầm non ngoại thành Hải Phòng, Phạm Khánh Tường [41]: Các

biện pháp quản lý chuyên môn của Hiệu trưởng đối với giáo viên mới vào
nghề của một số trường trung học phổ thơng tại Hải Phịng, ...
Liên quan đến bồi dưỡng GVMN có những cơng trình: Sổ tay người
hiệu trưởng mẫu giáo [34] của NXB Giáo dục phát hành năm 1980; Chương
trình bồi dưỡng nghiệp vụ chủ nhiệm nhà trẻ [42] và cuốn: Tài liệu bồi dưỡng
hiệu trưởng [35]. Những năm 90 có các tài liệu liên quan đến GDMN, tiêu
biểu như: Quản lý giáo dục mầm non [10] của tác giả Phạm Thị Châu,…


9
Đề tài khoa học công nghệ: Nghiên cứu khoa học cho việc nâng cao
chất lượng thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ 3-6 tuổi trong
trường mầm non [22] của Lê Thị Thu Hương, đề cập đến quan điểm, nguyên
tắc đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình CS&GD trẻ, một số định
hướng đổi mới, xây dựng mô hình nâng cao chất lượng chương trình CS&GD
trẻ mẫu giáo trong các trường mầm non vùng miền núi.
Các luận văn thạc sĩ QLGD: Quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm cho giáo viên mầm non huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên [39] của
Nguyễn Thị Tuyết, Thực trạng công tác quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn
cho giáo viên ở một số trường mầm non Thành phố Hồ Chí Minh [21] của
Nguyễn Hữu Lê Huyên… đã tiếp cận nghiên cứu về công tác bồi dưỡng
chuyên môn, NVSP cho GVMN ở những địa bàn khác nhau của nước ta; song
chưa có cơng trình nghiên cứu vấn đề bồi dưỡng NVSP cho GVMN trên địa
bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Kế thừa những cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và
ngồi nước, chúng tơi vận dụng vào nghiên cứu đề tài quản lý hoạt động bồi
dưỡng NVSP cho GVMN trên địa bàn một thành phố, đó là thành phố Quy
Nhơn, nhằm góp phần nâng cao chất lượng ĐNGV các trường mầm non, đáp
ứng yêu cầu đổi mới ngành học, sự tin yêu của nhân dân.
1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đề tài

1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục
1, Quản lý theo nghĩa hẹp là nói đến một hoạt động xã hội của con
người, nó thường gắn với một lĩnh vực cụ thể nào đó: quản lý kinh tế, quản lý
nhân sự, quản lý tài chính, quản lý môi trường... hoặc gắn với một hoạt động
cụ thể của con người: quản lý cá nhân, quản lý xung đột, quản lý cuộc họp...
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý. P. Hersey và K.B. Heard thì
cho rằng: “Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý với


10
người bị quản lý, nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy
động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức” [16]. Theo Hà Thế
Ngữ: “Quản lý là quá trình dựa vào các quy luật khách quan vốn có của hệ
thống để tác động đến hệ thống nhằm chuyển hệ thống đó sang một trạng thái
mới” [30]. Cịn Trần Kiểm thì quan niệm: “Quản lý là tác động có định
hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ
chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định” [26].
Từ các định nghĩa trên, chúng tôi hiểu: Quản lý chính là sự tác động có
mục đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý của tổ chức, đồng thời
phát huy được các nguồn lực để đạt được mục đích của tổ chức.
Quan lý có nhiều chức năng khác nhau như: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra - đánh giá. Bốn chức năng này có quan hê ̣̣ chặt chẽ với nhau,
được thực hiện liên tiếp, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành chu trình
quản lý. Trong chu trình này, yếu tố thơng tin ln có mặt ở tất cả các giai
đoạn, nó vừa là điều kiện vừa là phương tiện không thể thiếu khi thực hiện
các chức năng quản lý.
2, Quản lý giáo dục có nội hàm rộng hay hẹp phụ thuộc vào cách hiểu từ
“giáo dục” trong đó như thế nào. Nếu hiểu giáo dục là các hoạt động tác động đến
thế hệ trẻ diễn ra trong các nhà trường nói riêng và xã hội nói chung thì QLGD là
quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội, và lúc đó QLGD được hiểu theo

nghĩa rộng nhất. Cịn nếu chỉ nói đến các hoạt động giáo dục có tổ chức, có hệ
thống trong ngành giáo dục, diễn ra trong các cơ sở GD&ĐT là nói đến quản lý
nhà trường và quản lý một hệ thống các cơ sở GD&ĐT ở một địa phận hành
chính, đó là quản lý một hệ thống giáo dục.
Từ trước đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về QLGD. M.I.
Kônđacốp cho rằng: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức
và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt


11
xích của hệ thống (từ Bộ đến nhà trường) nhằm mục đích đảm bảo hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật
chung của xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát
triển thể lực và tâm lý trẻ em” [27]. Cịn V.A. Xu-khơm-lin-xki thì quan
niệm: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích
của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống
(từ Bộ đến nhà trường) nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục chủ nghĩa cộng
sản cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện, hoàn hảo” [43].
Các nhà nghiên cứu trong nước cũng đưa ra nhiều định nghĩa về
QLGD. Nguyễn Ngọc Quang định nghĩa: “QLGD là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ
thống vận hành theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các
tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất” [33]; Đặng Quốc Bảo quan niệm: “QLGD theo
nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ
mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn
ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Cho nên, QLGD được hiểu là sự điều hành hệ
thống giáo dục quốc dân” [3]; cịn Phạm Minh Hạc thì cho rằng: “QLGD là

quản lý trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi
trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà giáo dục vận hành theo nguyên lý giáo
dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục, với
thế hệ trẻ và với từng học sinh” [15];…
Những định nghĩa tuy có cách diễn đạt khác nhau nhưng có thể hiểu:
QLGD là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng tới
đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý mà chủ yếu là quá trình dạy


12
học và giáo dục ở các trường học.
Khách thể của QLGD là hệ thống giáo dục quốc gia; Đối tượng của
QLGD là tất cả những thành tố của hệ thống giáo dục (nhân sự, chương trình
giáo dục, hoạt động giáo dục, người học, nguồn lực giáo dục và học liệu, môi
trường giáo dục,...); và Mục tiêu của QLGD là phát triển các thành tố của hệ
thống giáo dục trên các mặt quy mô, cơ cấu và chất lượng của chúng. Giữa
chủ thể và khách thể quản lý có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, đáp
ứng nhu cầu của con người, thỏa mãn mục tiêu quản lý.
Trong hệ thống giáo dục, con người là yếu tố trọng tâm trong công tác
quản lý. Con người vừa là chủ thể quản lý, vừa là khách thể quản lý. Hơn thế
nữa mọi hoạt động giáo dục và QLGD đều hướng vào đào tạo và phát triển
nhân cách thế hệ trẻ. Do vậy, nhân tố con người là nhân tố quan trọng nhất
trong QLGD. Luận văn sử dụng khái niệm QLGD nêu trên làm khái niệm
cơng cụ để phân tích q trình quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho
ĐNGV ở các trường mầm non thành phố Quy Nhơn.
1.2.2. Hoạt động, bồi dưỡng
1, Hoạt động
Theo sinh lý học, hoạt động là sự tiêu hụt một số năng lượng cần thiết
của con người liên quan đến vận động, thần kinh dưới sự tác động của nó vào
các hiện thực khách quan xảy ra trong đời sống để thỏa mãn nhu cầu của con

người. Quan điểm này đồng nhất hoạt động của con người với con vật.
Theo tâm lý học, hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là sự
tác động tích cực giữa con người với hiện thực, thiết lập mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan, nhằm tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả
về phía con người.
- Xét về phương diện lồi, hoạt động lao động của con người là sự tác
động tích cực của con người với thế giới khách quan để tạo ra sản phẩm.


13
Trong lao động sử dụng công cụ lao động và sự phân công lao động.
- Xét về phương diện cá thể, hoạt động của cá thể quy định sự tồn tại
của cá thể. Hoạt động là quá trình tác động tích cực của con người vào thế
giới khách quan, kết quả tạo ra sản phẩm về phía thế giới (đồ vật, tri thức) và
tạo ra sản phẩm về phía con người.
2, Bồi dưỡng
Theo Đỗ Ngọc Đạt: “Bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp.
Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến
thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu
lao động nghề nghiệp” [6]. Cịn Trần Ngọc Giao thì cho rằng: “Bồi dưỡng có
thể coi là q trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc lạc hậu trong
một cấp học, bậc học và trường học được xác nhận bằng một chứng chỉ” [14].
Từ hai quan niệm trên, cho thấy chủ thể bồi dưỡng là những người
được đào tạo và có trình độ chun mơn nhất định. Bồi dưỡng thực chất là bổ
sung,“bồi đắp” những thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở “nuôi
dưỡng” những cái đã có để mở mang, làm cho chúng phát triển thêm, có giá
trị làm tăng hệ thống những tri thức, kĩ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu
biết, nâng cao hiệu quả lao động.
1.2.3. Hoạt động bồi dưỡng giáo viên
Hoạt động bồi dưỡng giáo viên thực chất là quá trình bổ sung tri thức,

kỹ năng để nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất, năng lực dạy học và
giáo dục bằng một hình thức đào tạo nào đó. Việc làm này nhằm nâng cao
phẩm chất và năng lực chuyên môn để giáo viên có cơ hội củng cố, mở mang
nâng cao hệ thống tri thức, kĩ năng sư phạm sẵn có, từ đó nâng cao chất lượng
và hiệu quả cơng tác giáo dục và dạy học.
Bồi dưỡng giáo viên được xem là việc đào tạo lại, đổi mới, cập nhật
kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp. Các thuật ngữ này thể hiện tinh thần đào tạo


14
liên tục trước và trong quá trình làm việc của giáo viên.
Hoạt động bồi dưỡng giáo viên gồm 3 loại hình: Hoạt động bồi dưỡng
chuẩn hố và nâng chuẩn; Hoạt động dưỡng thường xuyên theo chu kì do Bộ
GD&ĐT chỉ đạo; Hoạt động tự bồi dưỡng của cá nhân. Bất kì loại hình bồi
dưỡng nào đều khơng nằm ngồi mục tiêu là nâng cao trình độ hiện có của
mỗi giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu của xã
hội. Tùy đối tượng, tùy hoàn cảnh và yêu cầu đặt ra mà công tác bồi dưỡng
giáo viên nhằm đạt những mục tiêu sát thực, cụ thể.
Tương ứng với 3 loại hình bồi dưỡng nói trên là 3 hình thức bồi dưỡng:
Bồi dưỡng tập trung theo khố học hay theo từng đợt tại cơ sở đào tạo hay cơ
sở bồi dưỡng giáo viên; Bồi dưỡng tại chỗ ngay tại trường mà giáo viên đang
công tác; Bồi dưỡng từ xa thông qua các phương tiện công nghệ thông tin để
hỗ trợ bồi dưỡng tại chỗ. Hiện nay, phương thức tự bồi dưỡng đang được
quan tâm nhằm thực hiện chiến lược “học thường xuyên, học suốt đời”.
Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên được coi là một loại
hình của hoạt động dạy học. Yếu tố nội lực trong hoạt động dạy học là tự học,
yếu tố nội lực trong hoạt động bồi dưỡng giáo viên là tự bồi dưỡng, đây là
vấn đề cốt lõi. Tuy nhiên, nếu giáo viên chỉ biết tự học thơi thì chưa đủ, mà
phải biết cùng học với nhau, với tập thể để nhận thức từ nhau, từ tập thể.
Trong bồi dưỡng cũng như trong dạy học, việc tự học - tự bồi dưỡng (nội lực)

chỉ phát huy hiệu quả tối ưu khi có sự định hướng của thầy, của tổ chức
(ngoại lực) và có sự tác động đúng hướng của nhà quản lý.
1.2.4. Nghiệp vụ, nghiệp vụ sư phạm
1, Nghiệp vụ là khái niệm dùng để chỉ kỹ năng, phương pháp thực hiện
cơng việc chun mơn của một nghề, một vị trí nào đó nhằm hồn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Nghiệp vụ còn là các kỹ năng, kỹ xảo, các tri thức về lý
thuyết và thực hành mà con người tiếp thu được qua đào tạo để có khả năng


15
thực hiện một loại công việc trong phạm vi một ngành nghề nhất định theo sự
phân công của xã hội lồi người.
2, Nghiệp vụ sư phạm chính là cơng việc thuộc chuyên môn riêng của
nghề dạy học. Tác giả N.V. Lê-vi-tốp cho rằng, muốn xác định đúng đắn
phương pháp đào tạo và bồi dưỡng giáo viên phải căn cứ vào: Năng lực chuẩn
đoán; Năng lực đáp ứng; Năng lực đánh giá; Năng lực thiết lập mối quan hệ
thuận lợi với người khác, nhất là với học sinh; Năng lực triển khai chương
trình dạy học và giáo dục; Năng lực kết hợp các lực lượng xã hội vào việc
thực hiện mục tiêu giáo dục [28].
Theo chúng tơi, NVSP chính là khả năng lao động sư phạm của người
giáo viên tạo ra sản phẩm đặc biệt là nhân cách học sinh. Nó được đúc kết từ
kiến thức, kỹ năng và tình cảm thái độ đối với nghề dạy học. Nó đảm bảo cho
người giáo viên biết cách tổ chức và thực hiện có hiệu quả các q trình giáo
dục (giáo dục, dạy học và tự hoàn thiện) theo đúng yêu cầu, chức năng nhiệm
vụ của mình. Hay nói cách khác, NVSP chính là hệ thống các năng lực sư
phạm và những phẩm chất cần thiết nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động
giáo dục, dạy học và tự hoàn thiện. Người giáo viên có NVSP là người có
phẩm chất nhà giáo và có hệ thống năng lực: Năng lực phân tích và hiểu biết
về chương trình hoạt động và giáo dục; Năng lực thiết kế hoạt động dạy học
và giáo dục; Năng lực giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn dạy học

và giáo dục; Năng lực giám sát, kiểm tra đánh giá kết quả học tập và rèn
luyện của học sinh; Năng lực tổ chức; Năng lực tự hoàn thiện mình.
Đó là những thành tố gắn kết với nhau tạo thành cấu trúc NVSP. Trong
bất cứ nghề nghiệp nào cũng có những quy phạm hay yêu cầu của nghề đó đặt
ra. Các yêu cầu thường bao gồm hệ thống kiến thức và năng lực nghề đảm
bảo cho con người hoạt động có hiệu quả, có năng suất cao trong lao động
nghề nghiệp. Thông thường người ta gọi yêu cầu ấy với cái tên dưới dạng


16
tổng hợp là “trình độ nghiệp vụ”. Với dạy học thì đó chính là trình độ NVSP.
1.2.5. Nghiệp vụ sư phạm của giáo viên mầm non
NVSP của GVMN chính là khả năng lao động sư phạm của họ, là một
dạng lao động đặc thù mà người giáo viên dạy học ở các bậc học khác khơng
có. Do vị trí, đối tượng lao động của GVMN là trẻ nhỏ nên NVSP và tình cảm
thái độ đối với nghề nghiệp rất quan trọng, đòi hỏi họ phải rèn luyện và bồi
dưỡng thường xuyên. Để tiến hành hoạt động dạy học và giáo dục có hiệu
quả, người GVMN nhất thiết phải có một trình độ NVSP nhất định, phù hợp
với loại hình giáo dục mà mình đảm nhận.
NVSP của GVMN là các kiến thức, kỹ năng liên quan đến hoạt động
CS&GD trẻ và các hoạt động này luôn diễn ra song hành, đan xen với nhau
nhằm mục đích tạo tiền đề cho trẻ phát triển toàn diện về tinh thần và thể chất.
Theo chúng tôi, NVSP của GVMN bao gồm:
- Nghiệp vụ sư phạm về nuôi dưỡng trẻ.
Đối với bậc học mầm non, việc nuôi dưỡng và bảo vệ sức khỏe của trẻ
được đặt lên hàng đầu, vì mục tiêu GDMN là giúp cho trẻ khỏe mạnh hồn
nhiên vui tươi phát triển cơ thể cân đối hài hịa. Nếu chăm sóc, ni dưỡng trẻ
không tốt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ, tỷ lệ suy dinh dưỡng cao sẽ ảnh
hưởng đến trí tuệ của trẻ. Vì vậy, CBQL và GVMN phải được bồi dưỡng
nâng cao nghiệp vụ nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non, đặc biệt dinh

dưỡng và sức khoẻ trẻ em là vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm.
- Nghiệp vụ sư phạm về giáo dục trẻ. Bao gồm các nhóm kỹ năng:
+ Kỹ năng lập kế hoạch CS&GD trẻ. Gồm có: Lập kế hoạch CS&GD
trẻ theo năm học thể hiện mục tiêu và nội dung CS&GD trẻ của lớp mình phụ
trách; Lập kế hoạch CS&GD trẻ theo tháng, tuần; Lập kế hoạch hoạt động
một ngày theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực của trẻ; Lập kế hoạch
phối hợp với cha mẹ của trẻ để thực hiện mục tiêu CS&GD trẻ.


17
+ Kỹ năng tổ chức thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho trẻ.
Gồm có: Biết tổ chức mơi trường nhóm, lớp đảm bảo vệ sinh và an toàn cho
trẻ; Biết tổ chức giấc ngủ, bữa ăn đảm bảo vệ sinh, an toàn cho trẻ; Biết
hướng dẫn trẻ rèn luyện một số kỹ năng tự phục vụ; Biết phịng tránh và xử trí
ban đầu một số bệnh, tai nạn thường gặp đối với trẻ.
+ Kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ. Gồm có: Biết tổ chức
các hoạt động giáo dục trẻ theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực, sáng
tạo của trẻ; Biết tổ chức môi trường giáo dục phù hợp với điều kiện của
nhóm, lớp; Biết sử dụng hiệu quả đồ dùng, đồ chơi (kể cả đồ dùng, đồ chơi tự
làm) và các nguyên vật liệu vào việc tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ; Biết
quan sát, đánh giá trẻ và có phương pháp CS&GD trẻ phù hợp.
+ Kỹ năng quản lý lớp học. Gồm có: Đảm bảo an tồn cho trẻ; Xây
dựng và thực hiện kế hoạch quản lý nhóm, lớp gắn với kế hoạch hoạt động
CS&GD trẻ; Quản lý và sử dụng có hiệu quả hồ sơ, sổ sách cá nhân, nhóm,
lớp; Sắp xếp, bảo quản đồ dùng, đồ chơi, sản phẩm của trẻ phù hợp với mục
đích CS&GD.
+ Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng
đồng. Gồm có: Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ một cách gần gũi, tình cảm;
Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp một cách chân tình, cởi mở, thẳng
thắn; Gần gũi, tơn trọng và hợp tác trong giao tiếp, ứng xử với cha mẹ trẻ;

Giao tiếp, ứng xử với cộng đồng trên tinh thần hợp tác, chia sẻ.
1.3. Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên mầm non
1.3.1. Sự cần thiết của hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho
giáo viên mầm non
Hoạt động bồi dưỡng cho GVMN là phương tiện để chủ thể quản lý tác
động đến đối tượng quản lý, thực hiện các nhiệm vụ đề ra của nhà trường.
Hoạt động bồi dưỡng GVMN chính là cung cấp những kiến thức, kỹ năng cần


18
thiết (phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; kiến thức giáo dục mầm non,
chương trình giáo dục mầm non; kỹ năng sư phạm) cho giáo viên thông qua
các hoạt động tự bồi dưỡng, bồi dưỡng tập trung, tự học nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ thơng qua các hoạt động sinh hoạt chuyên môn, học
tập bồi dưỡng hàng năm của mỗi cơ sở giáo dục.
Trong thời điểm hiện nay, khi đánh giá GVMN phải dựa vào Chuẩn
nghề nghiệp GVMN do Bộ GD&ĐT ra Quyết định ban hành. Theo Quy định
này, Chuẩn nghề nghiệp GVMN gồm 5 tiêu chuẩn: Phẩm chất nhà giáo; Phát
triển chuyên môn nghiệp vụ; Xây dựng môi trường giáo dục; Phát triển mối
quan hệ giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng; Sử dụng ngoại ngữ (hoặc
tiếng dân tộc), ứng dụng công nghệ thông tin, thể hiện khả năng nghệ thuật
trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ [7]. Đối với GVMN, họ
phải thực sự là người có tâm với nghề, có trách nhiệm với công việc được
giao. Quan tâm đến đứa trẻ họ phải biết được đứa trẻ sẽ được gì thơng qua
hoạt động NVSP. Ngồi ra, GVMN cịn biết đến việc thực hiện đạo đức và tư
cách nhà giáo - một hiện tượng đang nóng trong xã hội hiện nay.
Ở góc độ khoa học giáo dục, GVMN có trình độ chun mơn, nghiệp
vụ tốt là người có hiểu biết về tâm lý học, giáo dục học, hiểu và ý thức được
rằng nếu khơng có những trí thức khoa học về giáo dục thì sẽ khơng thể cộng
tác được với học sinh. GVMN có trình độ là người nắm vững các kĩ năng, kỹ

xảo, các kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, CS&GD trẻ.
Ngoài việc học tập tại nhà trường, GVMN cần có tinh thần tự học, tự
bồi dưỡng, điều này có những tác động khơng nhỏ từ phía người HT để tạo
điều kiện cho GVMN có động lực để phấn đấu và đóng góp cho nhà trường
của mỗi người. Những GVMN như vậy, ngoài hiệu quả đào tạo của nhà
trường sư phạm và tự bồi dưỡng, rèn luyện bản thân, còn phụ thuộc khơng ít
vào vai trị quản lý trường học của HT trong việc chú ý tổ chức hoạt động bồi


19
dưỡng chính trị, chun mơn, nghiệp vụ cho họ.
Cơng tác bồi dưỡng NVSP là một loại hoạt động giáo dục nhằm bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho GVMN, góp phần tháo
gỡ những khó khăn trong quá trình giảng dạy và thực hiện nhiệm vụ. Hoạt
động NVSP nhằm góp phần bồi dưỡng giáo viên chuẩn nghề nghiệp để hoạt
động NVSP nhà trường đi đúng hướng, đạt được mục tiêu đề ra thì cần thiết
phải quản lý, chỉ đạo nội dung này một cách khoa học, chặt chẽ và có những
biện pháp quản lý khả thi phù hợp với điều kiện thực tế về đội ngũ giáo viên,
tình hình quản lý học sinh trong mơi trường sư phạm của nhà trường.
1.3.2. Nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên mầm non
Các nội dung bồi dưỡng nói chung, bồi dưỡng NVSP cho GVMN nói
riêng ở nhà trường được xây dựng dựa trên các văn bản chỉ đạo của Bộ
GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT và nhu cầu của người học. Bồi dưỡng
GVMN theo chuẩn nghề nghiệp đi sâu bồi dưỡng các kỹ năng CS&GD trẻ.
Bồi dưỡng NVSP phải đáp ứng yêu cầu dạy học theo chương trình GDMN
mới, theo Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi, bồi dưỡng việc quản lý ứng dụng
công nghệ thông tin trong các nhà trường, thực hiện kế hoạch bồi dưỡng theo
Thông tư số 12/2019/TT-BGDĐT ngày 26/8/2019 của Bộ GD&ĐT [9].
Tổ chức các hoạt động bồi dưỡng là chức năng được tiến hành sau khi
lập xong kế hoạch nhằm chuyển hóa những mục tiêu bồi dưỡng giáo viên

được đưa ra trong kế hoạch thành hiện thực. Nhờ đó mà tạo mối quan hệ giữa
các đơn vị trường học, các bộ phận liên quan trong hoạt động bồi dưỡng giáo
viên được liên kết thống nhất, chặt chẽ và nhà quản lý có thể điều phối các
nguồn lực phục vụ ngày một tốt hơn cho công tác bồi dưỡng.
Nội dung tổ chức hoạt động bồi dưỡng NVSP cho GVMN là quá trình
phân phối và sắp xếp các nguồn nhân lực theo những cách thức nhất định để
đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. Nội dung của hoạt động NVSP là


20
những vấn đề về thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục học sinh, thực
hiện các văn bản chỉ đạo, thực thi nhiệm vụ năm học và các yêu cầu mang
tính thực tiễn được mang ra thảo luận, phân tích dưới nhiều góc độ và rút ra
những kết luận sư phạm, những biện pháp khả thi có thể vận dụng vào thực
tiễn, từ đó nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ của GV.
1.3.3. Phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên mầm non
Tổ chức các hoạt động bồi dưỡng là chức năng được tiến hành sau khi
lập xong kế hoạch nhằm chuyển hố những mục đích, mục tiêu bồi dưỡng
giáo viên được đưa ra trong kế hoạch thành hiện thực. Nhờ đó mà tạo mối
quan hệ giữa các đơn vị trường học, các bộ phận liên quan trong hoạt động
bồi dưỡng giáo viên được liên kết thống nhất, chặt chẽ và nhà quản lý có thể
điều phối các nguồn lực phục vụ ngày một tốt hơn cho công tác bồi dưỡng.
Phương pháp làm việc của CBQL có ý nghĩa quyết định cho việc
chuyển hoá kế hoạch quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên thành hiện thực.
Hình thức bồi dưỡng KNSP cho giáo viên mầm non theo các hình thức:
+ Bồi dưỡng thường xuyên.
+ Bồi dưỡng định kỳ.
+ Bồi dưỡng chuyên đề.
+ Bồi dưỡng tập trung toàn ngành.

+ Bồi dưỡng theo giáo viên từng trường.
+ Bồi dưỡng theo cụm trường...
1.4. Quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ
giáo viên ở các trường mầm non
1.4.1. Vai trò của hiệu trưởng trong việc quản lý hoạt động bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên mầm non
Để công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho giáo viên trong


21
các trường mầm non đạt hiệu quả thì HT là người có vai trị rất quan trọng.
HT là người đại diện nhà trường thực hiện chức trách về hành chính trước cơ
quan quản lý trực tiếp. Để thực hiện chức trách được giao, HT phải là người
có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có trình độ chun mơn, nghiệp vụ vững
vàng, có năng lực quản lý, đảm bảo về sức khỏe và đặc biệt là người được tập
thể giáo viên, nhân viên nhà trường yêu quý, tín nhiệm.
Với những tiêu chuẩn và tiêu chí quy định tại Thơng tư số 25/2018/TTBGDĐT ngày 8/10/2018 của Bộ GD&ĐT [8] đối với HT là yếu tố quan trọng
quyết định tới chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng
NVSP cho giáo viên trong các trường mầm non. Tuy nhiên, để đảm bảo đầy
đủ các yếu tố trên, người HT cần nỗ lực phấn đấu, đi sâu sát thực tiễn, luôn
trau dồi thêm lý luận khoa học giáo dục để tự trang bị cho mình có đủ kiến
thức quản lý và kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ.
Căn cứ vào khung chương trình đào tạo của Bộ GD&ĐT, Chuẩn nghề
nghiệp GVMN, yêu cầu của xã hội và điều kiện thực tiễn của nhà trường, HT
chỉ đạo các tổ chuyên môn xác định mục tiêu bồi dưỡng NVSP cho GVMN,
đảm bảo sự hài hòa giữa thực tiễn và mục tiêu, tránh việc xây dựng mục tiêu
của hoạt động bồi dưỡng quá cao hoặc quá thấp, không phù hợp với điều kiện
của nhà trường. Sau đó, HT tổ chức lấy ý kiến đóng góp của cán bộ, giáo
viên, nhân viên trong trường mầm non để hoàn thiện mục tiêu bồi dưỡng.
Từ mục tiêu bồi dưỡng được xác định triển khai xây dựng kế hoạch,

chương trình bồi dưỡng NVSP cho giáo viên. Đồng thời, chỉ đạo bộ phận tác
nghiệp định kỳ kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch bồi dưỡng
NVSP cho giáo viên có đi đúng hướng với mục tiêu đã xây dựng hay khơng?
Nếu có sự khập khiễng giữa kế hoạch, chương trình với mục tiêu bồi dưỡng
thì kịp thời đưa ra những biện pháp phù hợp để điều chỉnh mục tiêu hay kế
hoạch bồi dưỡng NVSP cho GVMN.


22
1.4.2. Lập kế hoạch hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho
giáo viên mầm non
Kế hoạch là khâu đầu tiên của chức năng quản lý. Việc lập kế hoạch
nhằm xác định và hình thành mục tiêu đối với hoạt động bồi dưỡng, xác định
và đảm bảo chắc chắn về các nguồn lực phục vụ hoạt động bồi dưỡng giáo
viên. Từ đó, lựa chọn các phương án, biện pháp tốt nhất phù hợp với điều
kiện thực tế để tiến hành hoạt động bồi dưỡng đạt kết quả tốt.
Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng NVSP cho GVMN một cách khoa học,
hợp lý, có tính khả thi, đáp ứng việc đổi mới chương trình GDMN và nhu cầu
bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, trình độ chun mơn của
đội ngũ GVMN. Lập kế hoạch hoạt động bồi dưỡng NVSP cho GVMN là
việc thực hiện các nguyên tắc quản lý mang tính thiết thực để đáp ứng cao với
yêu cầu của công tác bồi dưỡng giáo viên.
Bản kế hoạch bồi dưỡng phải được sự thống nhất cao đó chính là nội
dung cơ bản của quá trình quản lý, vì thế giai đoạn này có vai trị rất to lớn.
Khi xây dựng kế hoạch người quản lý cần phải căn cứ vào kế hoạch chung
của Bộ GD&ĐT; Sở GD&ĐT và Phòng GD&ĐT; Tìm hiều về nhu bồi dưỡng
NVSP cho GVMN. Đồng thời trong bản kế hoạch đó cần làm rõ:
+ Mục tiêu hoạt động bồi dưỡng NVSP cho GVMN cần đạt là những
gì? Thứ tự ưu tiên của các mục tiêu đó.
+ Mối quan hệ giữa kế hoạch bồi dưỡng NVSP cho GVMN trong kế

hoạch hoạt động năm học của nhà trường;
+ Nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng NVSP cho GVMN của
cả năm học, theo tháng, theo tuần;
+ Hướng dẫn các tổ chuyên môn tự xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
NVSP theo khả năng và điều kiện thực tế của nhà trường.
Khi xây dựng kế hoạch phải cụ thể hóa trên cơ sở mục tiêu đặt ra để có


×