Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Luận văn nhu cầu giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản ở học sinh trường THPT nguyễn thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.28 KB, 79 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
LỜI CẢM ƠN.........................................ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
DANH MỤC VIẾT TẮT ....................................................................................... 3
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................... 4
DANH MỤC BẢNG .............................................................................................. 5
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG ......................................................... 10
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ................................................................. 10
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới ............................................................... 10
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................ 12
1.2. Cơ sở lý luận về nhu cầu Giáo dục giới tính về chăm sóc sức khỏe sinh sản
.............................................................................................................................. 16
1.2.1. Nhu cầu giáo dục giới tính về chăm sóc sức khỏe sinh sản ...................... 16
1.2.2. Giáo dục giới tính.................................................................................... 26
1.2.3. Giáo dục sức khỏe sinh sản ..................................................................... 29
1.2.4. Nội dung giáo dục giới tính ..................................................................... 34
CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................... 37
2.1. Tổ chức nghiên cứu ...................................................................................... 37
2.1.1. Giai đoạn 1: Nghiên cứu lí luận ............................................................... 37
2.1.2. Giai đoạn 2: Khảo sát thử ........................................................................ 38
2.1.3. Giai đoạn 3: Khảo sát chính thức............................................................. 39
2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 42
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu ............................................................. 42
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu .................................................................... 42
2.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi........................................................ 43
2.2.4. Phương pháp toạ đàm .............................................................................. 44
2.2.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp ....................................................... 44
2.2.6. Phương pháp quan sát ............................................................................. 45
1




2.2.7. Phương pháp thống kê toán học............................................................... 45
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 46
3.1. Nhận thức về sức khỏe sinh sản của học sinh.............................................. 46
3.1.1. Nhận thức của học sinh về giáo dục sức khỏe sinh sản ............................ 46
3.1.2. Nhận thức của học sinh về mức độ quan trọng của giáo dục sức khỏe sinh
sản trong nhà trường ......................................................................................... 48
3.1.3. Mức độ tham gia của học sinh đối với chương trình giáo dục sức khỏe sinh
sản trong trường THPT ..................................................................................... 49
3.2. Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản trong nhà trường của học sinh 50
3.2.1. Nhu cầu về nội dung................................................................................ 50
3.2.2. Nhu cầu về phương pháp ......................................................................... 55
3.2.3. Nhu cầu về hình thức giáo dục sức khỏe sinh sản trong nhà trường ......... 56
3.3. Thái độ của cha mẹ đối với vấn để GDGT về chăm sóc SKSS cho học sinh
THPT ................................................................................................................... 59
3.3.1. Về mức độ quan trọng của giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh........ 59
3.3.2. Đánh giá phụ hunh về phương pháp hình thức và nội dung giáo dục giới tính
về sức khỏe sinh sản ......................................................................................... 60
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...................................................................... 62
Kết luận ............................................................................................................... 62
Kiến nghị ............................................................................................................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 70
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 74

2


DANH MỤC VIẾT TẮT
STT


Từ viết tắt

Viết đầy đủ

1.

GDGT

Giáo dục giới tính

2.

SKSS

Sức khỏe sinh sản

3.

THPT

Trung học phổ thơng

4.

GDSKSS

Giáo dục sức khỏe sinh sản

5.


SSKSSVTN

Sức khỏe sinh sản vị thành niên

6.

GDDS

Giáo dục dân số

7.

VTN

Vị thành niên

8.

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

3


DANH MỤC HÌNH
Hình 3. 1. Nhận thức của học sinh về tính hữu ích về giáo dục sức khỏe sinh
sản ............................................................................................................... 46
Hình 3. 2. Nhận thức của học sinh về giáo dục sức khỏe sinh sản ................ 47

Hình 3. 3. Nhận thức của học sinh về mức độ quan trọng của giáo dục sức khỏe
sinh sản trong nhà trường ............................................................................. 48
Hình 3. 4. Mức độ tham gia của học sinh đối với chương trình giáo dục sức
khỏe sinh sản tại Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam
..................................................................................................................... 49
Hình 3. 5. Đánh giá mức độ quan trọng của giáo dục sức khỏe sinh sản cho học
sinh của phụ huynh ...................................................................................... 59

4


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2. 1. Một số đặc điểm của khách thể nghiên cứu ................................. 40
Bảng 3. 1. Đánh giá của học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng
Bình – Quảng Nam về nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản ........................ 50
Bảng 3. 2. Đánh giá nhu cầu về nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản của học
sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam ............ 52
Bảng 3. 3. Nhu cầu về phương pháp giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản
của học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam
..................................................................................................................... 55
Bảng 3. 4. Nhu cầu học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình –
Quảng Nam về phương pháp giáo dục sức khỏe sinh sản ............................. 56
Bảng 3. 5. Đánh giá phụ hunh về phương pháp hình thức và nội dung giáo dục
giới tính về sức khỏe sinh sản ...................................................................... 60

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục giới tính (GDGT) ln bị coi là chủ đề
nhạy cảm, chưa được thực hiện rộng rãi và phổ biến ở trong nhà trường vì thế
cịn rất nhiều phụ huynh cũng như học sinh luôn ngại ngùng khi nói về vấn đề
giới tính.
Giáo dục con người khơng chỉ đảm bảo phát triển về trí tuệ về nhân cách
mà còn phải đảm bảo phát triển về cả thể chat, trí tuệ và tinh thần. Với thế hệ
trẻ hiện nay khi bước vào môi trường giáo dục, giáo viên không chỉ đơn thuần
cung cấp cho các em các kiến thức khoa học mà cịn giúp cho các em tìm hiểu
sâu hơn về chính bản thân mình. Sự trang bị cho các em về đời sống tâm lí, về
giới tính về tình dục để các em có ý thức hơn về những hành vi của bản thân
mình. Chính vì thế giáo dục giới tính có vai trị hết sức quan trọng trong việc
hình thành nhân cách của trẻ. Lứa tuổi học sinh trung học phổ thơng là thời kì
hồn thiện sự phát triển về thể chất của con người vì thế việc lồng ghép GDGT
cho học sinh THPT nhằm giúp các em có kiến thức về việc chăm sóc sức khỏe
sinh sản và giới tính vị thành niên, cũng như tranhs những hậu quả đáng tiếc do
thiếu hiểu biết.
“TS Nguyễn Tùng Lâm, chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Hà Nội, đánh giá
việc giáo dục giới tính trong nhà trường chưa hiệu quả, cung cấp cho học sinh
kiến thức về QHTD cịn hạn chế. Các trường cũng có chun đề về giới tính và
tình u tuổi học trị, nhưng nặng về lý thuyết. Ông cho rằng: Chúng ta phải
đối mặt vấn đề yêu và QHTD ở học sinh. Ngành giáo dục và các chuyên gia
cần nghiên cứu để đưa vấn đề này vào chương trình giáo dục chính thống, cách
làm phải gần gũi để học sinh ngấm hơn. Thầy cô phải lắng nghe và đồng hành
với học sinh mới mang lại hiệu quả.”

6


Bà Vũ Thị Phương Anh, phó hiệu trưởng trường THPT Đồn Thị Điểm
(Hà Nội), cho rằng đến tuổi dậy thì, trẻ có sự rung động với người khác giới là

chuyện bình thường. Vấn đề là trẻ phải học được cách điều tiết tình cảm để
khơng bị bột phát theo bản năng, đi quá giới hạn cho phép. Những năm gần đây
chương trình giáo dục giới tính được Bộ Giáo Dục đưa vào giảng dạy cho học
sinh trung học phổ thông. Tuy nhiên GDGT chưa phải là một bộ môn riêng biệt
như những bộ môn khác, nội dung chỉ được lồng ghép qua các môn học khác
như Sinh học hoặc Giáo dục công dân hoặc thông qua các buổi học ngoại khóa.
Các kiến thức về giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản vị thành niên có trong
chương trình sách giáo khoa nhưng các thầy cơ vẫn giảng dạy mang tính hàn
lâm, thiếu thực tế. Vì vậy, có thể học sinh học xong nhưng khi ra thực tế vẫn
khơng hiểu gì.
Trước những thay đổi về kinh tế xã hội nên dần dần quan niệm sống từ
đó cũng thay đổi, những hiện trạng yêu sớm, quan hệ tình dục sớm, hay sống
thử, nạo phá thai của một số bộ phận thanh thiếu niên đã gây xôn xao dư luận
gây ra những hậu quả nặng nề không chỉ đối với bản thân các em mà cịn cho
tồn xã hội. Chính vì thế cần đưa GDGT vào hệ thống trường học để trang bị
cho các em học sinh những kiến thức về giới tính, góp phần hình thành và phát
triển nhân cách. Tuy nhiên những cách tiếp nhận và hiểu biết về GDGT của các
em cịn phần mơ hồ dù đã có các chương trình GDGT tại trường.
Lứa tuổi Trung học phổ thơng (THPT) là lứa tuổi vị thành niên, khi mà
học sinh đang ở giai đoạn phát triển nhanh về thể chất và có nhiều những thay
đổi trong tâm sinh lý. Đây là giai đoạn quan trọng trong việc định hình nhân
cách để làm chủ bản thân về những hành vi tình dục. Vị thành niên ngày nay
có nhiều điều kiện hơn để tiếp cận với thông tin, kiến thức mới, hiện đại nhưng
cũng phải đối mặt với những nguy hiểm đe dọa đến sức khỏe. Học sinh chưa
có kinh nghiệm, giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản, nên dễ bị lạm dụng,
ép buộc; khơng biết cách phịng tránh thai và bệnh lây truyền qua đường tình
7


dục khi có quan hệ tình dục. Do vậy, việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho học

sinh là rất cần thiết. Học sinh cần nắm vững những kiến thức chăm sóc bảo vệ
SKSS để bảo vệ chính mình
Như vậy, việc giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản cho vị thành niên,
trong đó có một bộ phận lớn là học sinh đang học tập ở trường THPT là vấn đề
cần thiết và cấp bách. Giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản nhằm cung cấp
cho các em những kiến thức, giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản đầy đủ về
giới tính, sức khỏe sinh sản, về tình bạn, tình yêu… Đây là việc làm cần thiết
bên cạnh việc giảng dạy văn hóa để góp phần tạo ra một tương lai thật tươi sáng
cho học sinh.
Chính vì những lí do trên, tơi chọn đề tài nghiên cứu: “Nhu cầu giáo dục
giới tính về sức khỏe sinh sản ở học sinh trường THPT Nguyễn Thái Bình”
để tìm hiểu được phần nào những suy nghĩ mong đợi của các em nhằm nâng
cao hiệu quả GDGT ở trường học.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng nhu cầu GDGT về SKSS của học sinh Trường THPT Nguyễn
Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam hiện nay, đề xuất biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả GDGT cho học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng
Bình – Quảng Nam
3. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu giáo dục giới tính về SKSS của học sinh Trường THPT Nguyễn Thái
Bình – Thăng Bình – Quảng Nam
1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến vấn đề giáo dục giới tính của học
sinh THPT
- Nghiên cứu thực trạng nhu cầu GDGT về SKSS của học sinh Trường
THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam

8



- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp giáo dục giới tính về chăm sóc sức
khỏe sinh sản cho học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng
Bình – Quảng Nam nhằm nâng cao nhận thức và trang bị kiến thức cho
các em học sinh.
4. Khách thể nghiên cứu
- 250 học sinh khối lớp 10,11 THPT ( ở đây tôi khơng chọn học sinh khối
lớp 12 vì khơng muốn ảnh hưởng đến thời gian học tập của các em)
- 20 giáo viên
- 20 phụ huynh
5. Giả thuyết khoa học
Học sinh có nhu cầu được giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản và sẵn sàng
tiếp nhận giáo dục sức khỏe sinh sản. Tuy nhiên, chương trình GDSKSS trong
nhà trường còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của học sinh.
6. Giới hạn nghiên cứu
- Giới hạn nội dung nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng
nhu cầu giáo dục giới tính cho học sinh THPT thơng qua nội dung và
phương pháp về giáo dục giới tính ở đây là giáo dục sức khỏe sinh sản
vị thành niên trong nhà trường.
- Giới hạn phạm vị nghiên cứu: trong luận văn này tôi chỉ tập trung nghiên
cứu 250 học sinh, 20 giáo viên và 20 phụ huynh của các em học sinh tại
Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam.
7. Phương pháp nghiên cứu
1.1.

Phương pháp nghiên cứu tài liệu

1.2.

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi


1.3.

Phương pháp phỏng vấn sâu

1.4.

Phương pháp thơng kê tốn học

1.5.

Phương pháp thực nghiệm

9


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Vấn đề GDGT nói chung được nhiều nước ở Châu Âu quan tâm từ rất
sớm. Có thể nói rằng Thụy Điển là quốc gia đầu tiên, cái nôi nảy sinh nghiên
cứu vấn đề này. Năm 1921 đã coi tình dục là quyền tự do của con người, là
quyền bình đẳng nam nữ, là trách nhiệm đạo đức của công dân đối với xã hội.
Họ đã thành lập “Hiệp hội quốc gia tình dục” (1933) với mục tiêu là:
- Thơng tin phổ biến kiến thức về giới tính, tình dục.
- Sản xuất và buôn bán thuốc tránh thai, dụng cụ tránh thai
Bộ Giáo dục Thụy Điển đã quyết định đưa thí điểm GDGT vào nhà
trường (1942) và đến năm 1956 thì chính thức dạy phổ cập trong tất cả các loại
trường từ tiểu học đến trung học. Hầu hết các nước Đông Âu (Đức, Tiệp, Ba

Lan, Hungrari …), Tây Âu, Bắc Âu cũng có những quan điểm xem xét vấn đề
GDGT là vấn đề lành mạnh đem lại tự do cho con người, họ đã tuyên truyền
rộng khắp cho mọi người hiểu rõ những quy luật hoạt động của tình QHTD và
vấn đề này cũng được đưa vào dạy ở các trường học theo những vấn đề tự chọn.
Nhà nước cũng tận dụng những phương tiện truyền thông để tiến hành mảng
giáo dục này.
Ở Châu Á, GDGT bị xem là lĩnh vực cấm kị, do ảnh hưởng của những
quan niệm phong kiến và tôn giáo. Dân số gia tăng quá nhanh, chất lượng cuộc
sống không được đảm bảo đã khiến các nước ở Châu Á đã thức tỉnh và nhìn
nhận vấn đề một cách thích đáng. Họ đã thống nhất ý kiến về tầm quan trọng
và sự cần thiết phải GDGT cho thế hệ trẻ, giúp họ làm chủ quá trình sinh sản
của mình một cách khoa học, phù hợp với tiến bộ xã hội.
Trước năm 1994, giáo dục nhấn mạnh đến các nội dung dân số phát triển
thì từ sau năm 1994, giáo dục nhấn mạnh tới các nôi dung SKSSVTN như là
10


một ưu tiên. GDSKSS và SKSSVTN là những vấn đền mới chính thức được
thừa nhận tại hội nghị quốc tế về “Dân số và phát triển” ở Cairo, Ai Cập (1994).
SKSS được coi là định hướng chỉ đạo của hầu hết các chương trình dân số thế
giới. Hội nghị này đã thống nhất một chương trình hành động về dân số và phát
triển trong 20 năm tới, nó đã đưa ra một khái niệm chiến lược mới về SKSS,
đề ra 15 nguyên tắc khẳng định con người mới là trung tâm đối với sự phát triển
bền vững. Cũng chính tại hội nghị này, một khái niệm mới về SKSS bao gồm
tất cả các nội dung liên quan tới tình trạng sức khỏe, quá trình sinh sản và chất
lượng cuộc sống đã được trình bày cặn kẽ trong chương trình hành động của
ICPD. Sau hội nghị này, hàng loạt các quốc gia trên thế giới cũng lần lượt tổ
chức nhiều hội nghị bàn về vấn đề SKSSVTN như:
- Hội nghị quốc tế tại Bắc Kinh (1995)
- Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển tại The Hague Hà Lan (1999)

- Hội nghị dân số cấp cao của ủy ban kinh tế và xã hội Châu Á – Thái
Bình Dương ( ESCAP) và quỹ dân số liên hợp quốc (UNFPA) tại Băng Cốc.
Đặc biệt thông điệp của Tiến sĩ Nafit Sadik – Giám đốc điều hành Quỹ
dân số Liên Hợp quốc đã nêu “Giới trẻ ngày nay có ý thức về SKSS hơn và họ
biết SKSS rất quan trọng. Họ đều muốn xử sự một cách có trách nhiệm, muốn
bảo vệ sức khỏe của chính mình và của cả người mình yêu vì họ biết rằng đây
là việc nên làm. Phần lớn trong số họ khát khao tìm hiểu, họ muốn có thơng tin
về tình dục và sức khỏe tình dục. Họ muốn biết làm thế nào để bản thân họ và
ngúời u họ khơng có thai ngồi ý muốn, tránh được các bệnh lây truyền qua
đường tình dục bao gồm cả HIV/AIDS”. Nhân dịp ngày dân số thế giới
(11/7/1998) UNFPA đã gửi thông điệp tới các nước trên thế giới: “Những quan
tâm hàng đầu hiện nay được tập trung vào các vấn đề về SKSSVTN”.
Một nghiên cứu dưới tên gọi “Giáo dục giới tính trong nhà trường: kinh
nghiệm quốc tế và những gợi ý cho Nigeria” James E. Rosen, Nancy J. Murray
và Scott Moreland, 2004, Sexuality education in schools: the international
11


experience and implication for Nigeria của James E. Rosen, Nancy J. Murray
và Scott Moreland, tháng Năm năm 2004 đã chỉ rõ “quá nhiều trẻ vị thành niên
theo học trong các trường ở Nigeria thiếu thông tin và kĩ năng để có thể bảo vệ
bản thân trước những cái “bẫy tính dục”. Và chính vì vậy mà nhu cầu được giáo
dục SKSS của học sinh là cực lớn và nghiên cứu đã đưa ra những biện pháp
khẩn thiết, tích cực nhất để xây dựng một chương trình “hiệu quả tức thời” cho
học sinh.
Một số những đề tài nghiên cứu và sách tham khảo khác có thể được kể
tên sau đây như: cẩm nang dành cho bạn gái “Những gì bạn gái muốn biết” của
Jill Geborene xuất bản năm 2011 bằng tiếng Anh và được phân phối trên toàn
thế giới; nghiên cứu của Susana Lerner năm 2005 có tên “Nhu cầu giáo dục sức
khỏe sinh sản và chống đói nghèo”. ; một nghiên cứu của tổ chức dân số thế

giới UNFPA vào năm 2009 với tên gọi “Hiểu biết về giới tính và SKSS, hành
vi và nhu cầu được giáo dục trong nhà trường của thanh thiếu niên ở khu vực
phía Bắc Nigeria”.; nghiên cứu của tổ chức UNESCO với tên gọi “ Hướng dẫn
chun mơn tồn cầu về giáo dục giới tính ” “Cảnh báo chun mơn về các
phương pháp giáo dục giới tính trong nhà trường”, …. cũng đều chỉ ra nhu cầu
được giáo dục SKSS luôn luôn tồn tại và tùy vào mỗi nước khác nhau mà có
những đặc thù khác nhau. Nhưng nhìn chung, ở các nước Châu Á, Châu Phi và
các nước đang phát triển thì nhu cầu này lớn hơn và bức thiết hơn.
Như vậy, ở hầu hết các nước trên thế giới đều đã hết sức quan tâm tới
vấn đề SKSS, coi đó là một vấn đề có tính chiến lược quốc gia.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Do chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, nên vấn đề giáo dục giới
tính ở nước ta vẫn cịn tâm lí né tránh, chính vì thế việc bàn luận về vấn đề
GDGT cho thanh thiếu thiên bắt đầu khá muộn.
Trong chỉ thị số 176A ngày 24/12/1984 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Phạm Văn Đồng kí, đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ đại học và trung học chuyên
12


nghiệp. tổng cục dạy nghề phối hợp với hợp với các tổ chức có liên quan, xây
dựng chương trình khóa và ngoại khóa nhằm bồi dưỡng cho học sinh những
kiến thức về khoa học giới tính, về hơn nhân gia đình và ni dạy con cái”.
Năm 1985, Trung ương hội liên hiệp phụ nữ đã triển khai phong trào
giáo dục “Ba triệu bà mẹ nuôi con khỏe, dạy con ngoan” trong đó có nội dung
GDSKSS ở tuổi dạy thì. Hình thức chủ yếu được sử dụng là nói chuyện, diễn
giảng. Hiệu quả mới chỉ dừng lại ở tính chất phong trào chứ chưa thể có chất
lượng sâu sắc được.
Năm 1988. Một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục gia đình
và giáo dục gới tính cho học sinh có kí hiệu là VIE/80/P09 (do Trần Trọng
Thủy chủ nhiệm đề tài) đã được Hội Đồng chính phủ. Bộ Giáo dục và đào tạo,

viện khoa học giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện bởi sự tài
trợ của UNFPA và UNESCO khu vực với sự tham gia của nhiều giáo sư, tiến
sĩ, nhà khoa học có trình độ chun mơn cao, chương trình thử nghiệm tập trung
chủ yếu vào hai chủ điểm về tâm lí giáo dục và sinh học. Lần đầu tiên trong
nhà trường phổ thông ở nước ta học sinh được học một cách có hệ thống về
“những điều bí ẩn” của chính mình và mối quan hệ với người khác giới. Đề án
đã tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề
như: quan niệm tình bạn, tình u, hơn nhân và nhận thức về giới tính và giáo
dục giới tính của giáo viên, học sinh và phụ huynh ở nhiều nơi trong cả nước
để chuẩn bị GDGT cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.
Theo tác giả Nguyễn Thành Thống trong cuốn: “Giáo dục giới tính cho
thanh thiếu niên” có nêu lên những khó khăn khi GDGT cho trẻ là: làm thế nào
cho trẻ có được một quan niệm, một cái nhìn tốt nhất và lành mạnh nhất từ khi
chúng còn nhỏ.
Bùi Ngọc Oánh (2006) có đề tài “ Những yếu tố tâm lí trong sự GDGT
của thanh niên học sinh”, một lần nữa khẳng định sự cần thiết của GDGT trong
nhà trường THPT tập trung nêu lên một số vấn đề tâm lí xã hội cần chú ý khi
13


tiến hành GDGT cho học sinh như: phong tục tập quán Việt Nam nhiều người
chưa biết về vấn đề này, khơng có thời gian để dạy, giáo viên chưa được huấn
luyện… đặc biệt tác giả cũng chỉ ra một số khó khan trong cơng tác GDGT cho
học sinh là do sự e ngại khi nói tới những vấn đề có tính nhạy cảm trong mơn
GDGT. Qua đó tác giả cũng vạch ra một số biện pháp nghiên cứu sự chấp nhận
GDGT của học sinh trong nhà trường .
Ở nước ta trong giai đoạn từ 1989 đến 1992 các dự án Giáo dục dân số
(GDDS) đã bắt đầu được thử nghiệm. Giai đoạn từ 1994 đến 1998 bước đầu đã
thể chế hóa GDDS trong nhà trường. Lần đầu tiên GDDS được đưa vào chương
trình tích hợp GDDS với 5 chủ đề cơ bản: Nhân khẩu học, mơi trường, gia đình,

giới, dinh dưỡng. Các nội dung SKSS đã được chính thức lồng ghép vào nội
dung một số môn học từ bậc tiểu học đến trung học và khẳng định rằng trong
giai đoạn này trọng tâm của công tác GDDS phải là GDSKSS cho VTN. Tháng
10 năm 1996 hội thảo vì SKSSVTN đã nhấn mạnh đầu tư giải quyết vấn đề
SKSSVTN là một yêu cầu quan trọng trong vấn đề phát triển đất nước. Tuy
nhiên, trong giai đoạn này nội dung GDDS quá thiên về dân số phát triển, chưa
chú trọng tới SKSS như một mục tiêu ưu tiên quốc gia. Với sự ra đời của
chương trình mới về giáo dục phổ thơng cho giai đoạn sau 2000, các dự án
GDDS giai đoạn mới được xây dựng. Mục tiêu GDDS trong giai đoạn này ở
các trường phổ thơng gồm: Xây dựng chương trình tích hợp GDDS mới phù
hợp với trương trình giáo dục phổ thông sau năm 2000 trên tinh thần nhấn mạnh
tới SKSSVTN; xây dựng các tài liệu hướng dẫn giảng dạy, tài liệu tham khảo
và các tài liệu trực quan; tập huấn giáo viên… song chúng ta vẫn chưa xây dựng
được chương trình GDDS và SKSS cho THCS mặc dù các mục tiêu cho cấp
học này đã được xác định. Ủy ban phòng chống AIDS đã tổ chức nhiều hoạt
động truyền thông, hoạt động can thiệp tại cộng đồng, tổ chức nghiên cứu, khảo
sát thức trạng tình hình… nhằm bảo vệ VTN, nâng cao hiểu biết và kỹ năng dự
phòng của VTN trước sự tấn công của đại dịch HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội.
14


Thơng qua các hoạt động đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả công tác
GDSKSS cho VTN.
Báo cáo của nghiên cứu “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của
học sinh trung học phổ thông” Nguyễn Hà Thành, 2009, “Nhu cầu được giáo
dục sức khỏe sinh sản của học sinh trung học phổ thông” của Nguyễn Hà Thành
đăng trên tạp chí Tâm lý học, số 7 (124), tháng 7-2009 được tiến hành nghiên
cứu ở trường THPT Thanh Hà và THPT bán công Thanh Hà, huyện Thanh Hà,
tỉnh Hải Dương. Kết quả điều tra cho thấy 100% học sinh THPT có nhu cầu
hiểu biết về sức khỏe sinh sản. Trong đó 72,6% học sinh cho rằng nhu cầu được

giáo dục SKSS là một nhu cầu rất cấp bách, rất cần được thỏa mãn. 27,4% học
sinh cho rằng nhu cầu này cần được thỏa mãn. 99,7% học sinh mong muốn Bộ
giáo dục và Đào tạo cần đưa chương trình giáo dục SKSS vào trường THPT.
Ủy ban Dân số gia đình và Trẻ em cũng rất quan tâm đến việc GDSKSS
cho VTN, trong chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 nêu rõ: “Tạo
sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số, SKSS, KHHGĐ trên cơ sở cung cấp
đầy đủ, chính xác thơng tin với nội dung và hình thức phù hợp với từng vùng,
từng khu vực và từng nhóm đối tượng. Chú trọng hình thức tư vấn, đối thoại,
vận động trực tiếp các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nam giới, thanh niên
và những người chưa thành niên”. Năm 2004, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em
triển khai đề án “Mơ hình cung cấp thông tin và dịch vụ SKSS/ KHHGĐ cho
VTN và thanh niên” tại 10 tỉnh thành phố. Năm 2006 mở rộng ra 28 tỉnh thành
phố. Mục tiêu chính của đề án nhằm nâng cao nhận thức về SKSS/ KHHGĐ,
bao gồm các vấn đề liên quan về giới, giới tính, tình dục an tồn, BLTQĐTD,
HIV/AIDS góp phần làm giảm các hành vi gây tác hại đến SKSSVTN.
Dự án giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT tại huyện Hòa
Vang, Tp.Đà Nẵng Dự án giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT tại
huyện Hòa Vang, Tp.Đà Nẵng, 2011, Trung tâm y tế, phòng GD&ĐT huyện
Hòa Vang thực hiện dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng,
15


năm 2011, do Trung tâm y tế, phòng GD&ĐT huyện Hòa Vang thực hiện dưới
sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên truyền, giáo dục,
nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh ở bậc THPT nhằm giúp
học sinh tự thay đổi hành vi, kỹ năng cần thiết về chăm sóc SKSS cho bản thân,
góp phần nâng cao giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản cho học sinh thơng
qua các hoạt động như: Tổ chức tập huấn, đào tạo đội ngũ tư vấn viên là học
sinh được chọn theo từng khối lớp (mỗi lớp 2-3 em), thiết lập hộp thư SKSS tại
mỗi lớp, tổ chức các buổi tuyên truyền về SKSS cho học sinh các trường THPT

mỗi tháng một buổi, tổ chức các hội thi tìm hiểu kiến thức về chăm sóc SKSS
VTN, thành lập câu lạc bộ “U&I” tại mỗi trường với 50 học sinh tự nguyện
tham gia, in ấn và phát hành 400 sổ tay tuyên truyền và 10000 tờ rơi, tổ chức
các hoạt động truyền thông trên các kênh thơng tin đại chúng.
Việt Nam cũng có nhiều hội thảo quốc gia, nhiều đề tài liên kết với các
nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và các vấn đề SKSS. Nhưng
nhìn chung tất cả những hội thảo này thảo luận về các vấn đề SKSS nói chung
chứ chưa đi vào thảo luận về giáo dục sức khỏe sinh sản trong nhà trường
THPT. Nhìn chung, các nghiên cứu thường tập trung đi sâu vào tìm hiểu thực
trạng hiểu biết về SKSS và thái độ hành vi của thanh thiếu niên về các kiến
thức sức khỏe sinh sản.
1.2. Cơ sở lý luận về nhu cầu Giáo dục giới tính về chăm sóc sức khỏe sinh

sản
1.2.1. Nhu cầu giáo dục giới tính về chăm sóc sức khỏe sinh sản
1.2.1.1. Nhu cầu

Bất cứ hoạt động nào cũng làm thỏa mãn một nhu cầu nhất định. Nhu
cầu là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó các nhà tâm
lý học nghiên cứu khá nhiều. Nhu cầu là thành phần đầu tiên trong xu hướng,
song nó chi phối mãnh liệt đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con

16


người nói riêng. Bởi vì để tồn tại và phát triển không ngừng, con người cần
được thỏa mãn những nhu cầu nhất định nhu cầu về ăn, mặc, ở, học tập, vui
chơi và rất nhiều nhu cầu khác nữa.
Từ điển tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên) định nghĩa: Nhu cầu là trạng thái
cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn

tại và phát triển của mình và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân.
A.G. Kovaliop đã tiếp cận khái niệm nhu cầu với tư cách là nhu cầu của
nhóm xã hội: Nhu cầu là sự địi hỏi của các cá nhân và nhóm xã hội khác nhau,
muốn có những điều kiện để sống và tồn tại. Như vậy theo ông dù là nhu cầu
của cá nhân hay nhu cầu xã hội, nó vẫn là sự biểu lộ mối quan hệ tích cực của
con người với hồn cảnh sống.
Có thể nói nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho các hành động khác
nhau của con người. Nhu cầu là động lực ban đầu để nảy sinh hành vi, đồng
thời cũng là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân. Nhu cầu thể hiện ở động cơ,
cái thúc đẩy con người hành động chiếm lĩnh đối tượng để thỏa mãn nhu cầu
đó. Khi xuất hiện một nhu cầu cụ thể thì chủ thể sẽ hướng trí lực và việc tìm
kiếm các phương thức, điều kiện để thỏa mãn nhu cầu và do vậy nảy sinh hành
vi với tư cách là phương thức thỏa mãn nhu cầu. Con người trong xã hội chủ
yếu hành động theo nhu cầu. Chính sự thỏa mãn nhu cầu làm cho họ hài lịng
và khuyến khích họ hành động. Đồng thời việc nhu cầu được thỏa mãn tối đa
là mục đích hành động của con người. Theo cách xem xét đó, nhu cầu trở thành
động lực quan trọng và việc tác động vào nhu cầu cá nhân sẽ thay đổi được
hành vi của con người.
Ngay trong triết học, F.Ăngghen khi nói về nhu cầu, ơng cũng khẳng
định: “Người ta quy cho trí óc, cho sự mở mang và hoạt động của bộ óc tất cả
cơng lao làm cho xã hội phát triển được nhanh chóng và đáng lẽ người ta phải
giải thích rằng hoạt động của mình là do nhu cầu của mình quyết định (mà
những nhu cầu đó quả thật đã phản ánh vào đầu óc con người, làm cho họ có ý
17


thức đối với những nhu cầu đó) thì người ta lại quen giải thích rằng hoạt động
của mình là do tư duy quyết định”.
Trên cơ sở phân tích và tiếp thu quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng
tôi thống nhất với quan điểm về nhu cầu nhu sau: Nhu cầu là những đòi hỏi tất

yếu của con người cần phải thỏa mãn bằng các phương thức khác nhau để có
thể tồn tại và phát triển. Đó cũng là biểu hiện của tính tích cực hoạt động của
con người.
Sự địi hỏi đó là thuộc tính tâm lý của con người, nó phản ánh mối quan hệ giữa
con người và thế giới xung quanh. Chính sự cần thiết phải đáp ứng những địi
hỏi ấy sẽ nảy sinh và thúc đẩy tính tích cực của con người, và thể hiện rõ nét
bản chất xã hội của con người.
Khi nói tới giới hạn của nhu cầu, ta thấy rằng nhu cầu là vô tận. Tuy
nhiên, khơng phải lúc nào người ta cũng địi hỏi phải thỏa mãn tất cả các nhu
cầu của bản thân mình. Nhu cầu cũng khơng bao giờ tự dập tắt mà chỉ có thể
có nhu cầu này trội hơn, mang giá trị cấp bách hơn nhu cầu kia ở thời điểm này
hay khác - đó là một hệ thống được sắp xếp theo trình tự nhất định. Trật tự này
khơng phải cố định mà nó ln biến đổi theo mối quan hệ của người đó với
hồn cảnh. Đồng thời bản thân nhu cầu cũng thay đổi theo yêu cầu của hoạt
động và xã hội. Như vậy, trong nhu cầu ta thấy có sự thống nhất giữa khách
quan và chủ quan. Nhu cầu hiểu biết về giới tính của con ng-ời luôn thay đổi
dựa trên bối cảnh xã hội. Trước đây, do những quan niệm xã hội còn khắt khe
với những vấn đề liên quan đến giới tính, tình dục. Bởi, đây là những vấn đề
được cho rằng là “xấu xa” và “cấm kỵ”, nên hầu như không được đề cập đến.
Ngày nay, một số giá trị và quan niệm truyền thống thay đổi, vấn đề về giới
tính được cởi mở hơn, vai trị của nó được khẳng định trong sự phát triển của
cá nhân, vì vậy việc học những tri thức về giới tính ngày càng trở nên cấp thiết.
Nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng, vì thế mà có thể phân biệt được
các loại nhu cầu. Khi gặp đối tượng nào đó có khả năng đáp ứng, nhu cầu trở
18


thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm chiếm lĩnh đối tượng. Đối
tượng của nhu cầu càng được xác định cụ thể, ý nghĩa của nhu cầu đối với đời
sống cá nhân, đời sống xã hội càng được nhận thức sâu sắc thì nhu cầu càng

được nhanh chóng nảy sinh, củng cố và phát triển. Mỗi nhu cầu đều có một
nội dung cụ thể, tùy theo nó được thỏa mãn trong những điều kiện cụ thể nào
và bằng phương thức nào. Nội dung cụ thể của nhu cầu còn phụ thuộc vào
những điều kiện và phương thức thỏa mãn.
Tính nội dung cụ thể của nhu cầu thường có liên quan hoặc là một vật
thể mà người ta cố gắng để có được hoặc là với một hoạt động nào đó để làm
cho người ta thỏa mãn. Nhu cầu có tính chu kỳ. Khi một nhu cầu nào đó được
thỏa mãn, khơng có nghĩa là nhu cầu đó chấm dứt mà nó tiếp tục tái diễn nếu
người ta vẫn ở trong điều kiện và phương thức sinh hoạt cũ. Sự tái diễn đó có
tính chất chu kỳ. Tính chất chu kỳ này là do sự thay đổi của tình trạng cơ thể
và môi trường sống, điều kiện sống xung quanh gây nên.
Nhu cầu của con người mang bản chất xã hội. Trong quá trình lao động
con người tự mình tạo ra những đối tượng có thể làm thỏa mãn những nhu cầu
của mình. Nhu cầu của con người chính là sản phẩm của sự phát triển xã hội
loài người. Chính sự phong phú hay nghèo nàn của kinh tế xã hội đã quy định
sự phong phú hay nghèo nàn của nhu cầu. Con người luôn nhận thức đầy đủ về
đối tượng và phương thức thỏa mãn của nhu cầu, đặc biệt là nhận thức được
vai trò của nhu cầu trong toàn bộ đời sống tâm lý cá nhân.
Nhu cầu thường gắn bó chặt chẽ với các trạng thái cảm xúc. Những trạng
thái cảm xúc như sự hứng thú, hài lòng của cá nhân với đối tượng…là yếu tố
thúc đẩy cá nhân tìm kiếm cách thức để thoả mãn nhu cầu.
Việc nghiên cứu nhu cầu GDGT của học sinh THPT cho thấy sự nhận
thức của học sinh về đối tượng cũng như phương thức thoả mãn nhu cầu GDGT
của các em.

19


Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một trong
những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn, trường phái

này được xem là thế lực thứ 3 khi thế giới lúc ấy đang biết đến 2 trường phái
tâm lý chính: Phân tâm học và Chủ nghĩa hành vi.
Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng
của nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về Thang bậc nhu cầu của
con người. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo
một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn
xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước. Trong
thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con người
theo 5 cấp bậc:

- Nhu cầu sinh lí: bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn,
uống, ngủ, khơng khí để thở, tình dục…Đây là những nhu cầu cơ bản nhất và
mạnh nhất của con người. Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn
sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và những
nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người hành động khi nhu

20


cầu cơ bản này chưa đạt được. Nhu cầu cơ bản này phù hợp với quan điểm của
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: Con người trước hết
phải được đáp ứng các các nhu cầu ăn, mặc ở...
- Nhu cầu về an toàn, an ninh: Nhu cầu an toàn và an ninh này thể hiện
trong cả thể chất lẫn tinh thần. Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống
cịn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động
trong các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên
tai, lũ lụt, hoả hoạn...
- Nhu cầu về xã hội: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn
thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó hoặc nhu cầu về tình cảm, tình

thương Nếu nhu cầu này khơng được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các
bệnh trầm trọng về tâm lý.
- Nhu cầu được quý trọng: Nhu cầu này cịn được gọi là nhu cầu tự trọng
vì nó thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua
các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân,
danh tiếng của mình, có lịng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân.
- Nhu cầu được thể hiện mình: Khi nghe về nhu cầu này: “thể hiện mình”
chúng ta khoan vội gán cho nó ý nghĩa tiêu cực. Không phải ngẫu nhiên mà
nhu cầu này được xếp đặt ở mức độ cao nhất. Nhu cầu của một cá nhân mong
muốn được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra để làm”. Nói
một cách đơn giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm
năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả, cống
hiến cho cộng đồng xã hội.
Tháp nhu cầu của Maslow bao gồm có nhu cầu nguồn gốc sinh vật và xã
hội. Theo ông, những nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ đƣợc thỏa mãn khi nhu cầu cấp
thấp được đáp ứng. Đây là điểm hạn chế của Maslow, trong thực tế cuộc sống,
con người có thể xuất hiện cùng một lúc nhiều nhu cầu khác nhau, chứ không
nhất định phải tuân theo quy luật tháp nhu cầu như Maslow đã chỉ ra.
21


Hiện nay, theo một số nghiên cứu thì sau này thang bậc nhu cầu của
Maslow được hiệu chỉnh thành 7 bậc và cuối cùng là 8 bậc (1990) bao gồm: 1/
Nhu cầu cơ bản (basic needs), 2/ Nhu cầu an toàn (safety needs), 3/ Nhu cầu xã
hội (social needs), 4/ Nhu cầu đƣợc quý trọng (esteem needs), 5/ Nhu cầu về
nhận thức (cognitive needs), 6/ Nhu cầu về thẩm mỹ (aesthetic needs), 7/ Nhu
cầu

thể


hiện

mình

(self-actualizing

needs),

8/Sự

siêu

nghiệm

(transcendence).Tuy nhiên, trong thực tế tháp nhu cầu gồm 5 cấp bậc vẫn được
sử dụng nhiều hơn trong các lĩnh vực của cuộc sống trong đó có cả giáo dục.
Mỗi nhu cầu của con người trong hệ thống thứ bậc phải được thỏa mãn
trong mối tương quan với môi trường để cá thể phát triển khả năng cao nhất
của mình. Nhu cầu giáo dục giới tính thuộc nhu cầu bậc cao của con người và
nó cũng cần được thỏa mãn để mỗi cá nhân phát triển một cách tốt nhất.
1.2.1.2. Nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh THPT

Các quan niệm trong tâm lý học Macxit đều thống nhất coi nhu cầu là
những đòi hỏi, mong muốn của con người về một đối tượng nào đó. Sự địi hỏi
đó phải được thỏa mãn để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển. Tùy theo trình
độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có
những nhu cầu khác nhau. Nhu cầu giáo dục giới tính là một nhu cầu rất chính
đáng, góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Khái niệm nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh THPT
Nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh THPT có thể được hiểu là mong

muốn được giáo dục các tri thức về giới tính của học sinh, mà cụ thể là những
tri thức về đặc điểm tâm sinh lý, cách xây dựng mối quan hệ với mọi người đặc
biệt là những người khác giới, về vấn đề sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình
dục, vấn đề hơn nhân gia đình…để các em bước vào cuộc sống tự tin và vững
vàng hơn.
Nhu cầu GDGT của học sinh được nảy sinh, tức là các em học sinh đang
thực sự thiếu và rất cần thiết được cung cấp những kiến thức về khoa học giới
22


tính phục vụ cho bản thân, và nếu khơng nhu cầu khơng được thoả mãn, các em
sẽ khơng có được những tri thức đó và có thể gây ra những hậu quả nặng nề.
Và như vậy, khi các em có nhu cầu giáo dục giới tính thì nhu cầu này cần phải
được đáp ứng để thỏa mãn nguyện vọng của các em cũng như yêu cầu của xã
hội và gia đình, để mang lại cho các em học sinh cuộc sống tốt đẹp nhất.
- Đặc điểm nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh THPT
Đối tượng của nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh THPT chính là sự
lĩnh hội các kiến thức về giới tính, từ đó hình thành cho học sinh những thái độ
và hành vi đúng đắn trong cuộc sống. Khi đối tượng này được phát lộ ra ngoài,
tức là trở thành nhu cầu thực sự, thì lúc này nó trở thành động cơ thúc đẩy các
em tích cực hoạt động để thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu kiến thức về giới tính của
mình. Khi nhu cầu được thỏa mãn, nó xuất hiện ở các em những cảm xúc dương
tính, hình thành ở các em nhận thức và thái độ cũng như hành vi đúng đắn về
vấn đề giới tính.
Cũng như mọi nhu cầu khác, nhu cầu GDGT của học sinh THPT cũng
có những phương thức thoả mãn được thể hiện thông qua hoạt động học môn
GDGT ở trường và qua các kênh thông tin khác. Những hoạt động đó phải kể
đến là: việc tham gia học tập môn GDGT do nhà trường tổ chức, việc tìm kiếm
những kiến thức về giới tính qua mạng, sách báo, hỏi gia đình, hỏi bạn bè…Cho
dù học sinh sử dụng bất cứ phương thức nào thì cũng nhằm mục đích thoả mãn

nhu cầu tìm hiểu những kiến thức về giới tính của các em.
Nhu cầu GDGT của học sinh khi được thoả mãn thì khơng có nghĩa là
nó chấm dứt, mà chính sự thoả mãn đó trở thành tiền đề để học sinh tiếp tục
hoạt động thoả mãn nhu cầu GDGT của mình. Tức là, ở các em học sinh nảy
sinh nhu cầu mới thể hiện ở việc các em có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn về những
tri thức trong môn GDGT, để nhằm phát triển bản thân phù hợp với sự phát
triển và thay đổi của xã hội.

23


Nhu cầu GDGT của học sinh THPT là kết quả hoạt động tích cực của
học sinh nhằm chiếm lĩnh những tri thức về giới tính và học sinh ý thức được
vai trị của nó đối với bản thân mình. Và nhu cầu GDGT của học sinh THPT
chịu sự chi phối của các điều kiện văn hố, tập qn và trình độ nhận thức của
xã hội.
Nhu cầu GDGT của học sinh THPT thường đi kèm với trạng thái cảm
xúc thể hiện ở sự hứng thú với môn GDGT, sự say mê tìm kiếm những phương
thức để thoả mãn nhu cầu tăng cường kiến thức giới tính của học sinh. Trạng
thái cảm xúc này sẽ thúc đẩy các em học sinh hoạt động chiếm lĩnh những tri
thức về giới tính, tình dục.
Nhu cầu GDGT của học sinh THPT có vai trị rất quan trọng trong sự
phát triển nhân cách của mỗi cá nhân học sinh. Nó là động lực thúc đẩy tính
tích cực học tập của học sinh với môn GDGT.
1.2.1.3. Nhu cầu được giáo dục SKSS

Rất nhiều thanh thiếu niên không được giáo dục về SKSS, có thể do đây
khơng phải là một phần trong chương trình học hoặc do những quan niệm
truyền thống của xã hội không coi đây là vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, căn cứ
vào sự phát triển tâm sinh lý của học sinh trong độ tuổi học sinh THPT và lý

thuyết nhu cầu có thể thấy rõ rằng: bên cạnh những chương trình học thơng
thường ở nhà trường, học sinh cần có những thơng tin rõ ràng và dễ hiểu về sự
phát triển giới tính, sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình, những vấn đề
về giới tính và bình đẳng giới, về những bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục,
HIV-AIDS càng sớm càng tốt Trần Quốc Thành, Nguyễn Thị Mùi, Lê Thị
Hồng An, Giáo trình giáo dục dân số sức khỏe sinh sản, NXB Giáo dục, HN
2009 .
Bằng với sự phát triển của cơ thể và trí tuệ, học sinh có nhu cầu nhận
thức, khám phá về nhiều vấn đề khác nhau, trong đó có những vấn đề thiết thân,
liên hệ mật thiết đến sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi. Nhất là trong một xã hội
24


hiện đại, với sự 27 gia tốc trưởng thành – nơi mà trẻ em đang ngày một “lớn”
nhanh hơn thì học sinh càng cần được giáo dục sức khỏe sinh sản trong nhà
trường để nhận thức, khám phá về bản thân và các vấn đề nảy sinh xung quanh
đó.
Vì sức khỏe sinh sản chính là sự hồn hảo về bộ máy sinh sản, đi đơi với
sự hài hịa giữa thể chất, tinh thần và xã hội. Cho nên nhu cầu được giáo dục
sức khỏe sinh sản trong nhà trường của học sinh cũng chính là nhu cầu tự hồn
thiện mình về cả mặt thể chất và tinh thần. Được giáo dục sức khỏe sinh sản
một cách đầy đủ, học sinh sẽ có tự tin và được đảm bảo khi tham gia vào những
mối quan hệ xã hội, phát triển tình u và xây dựng tình u lành mạnh trong
sáng. Đó cũng chính là nhu cầu được tham gia vào những mối liên hệ liên cá
nhân, vượt ra khỏi cái tôi của mình, giúp người khác tự khẳng định họ và tự
nhận ra những giá trị của họ. UNFPA, 1998, Reproductive Health Education
for young adults school-Based programs
Học sinh cần có những kĩ năng sống để biết cách xử lý đúng trước áp
lực từ xã hội, trước những mâu thuẫn trong tư tưởng, học cách ra quyết định và
tự bảo vệ mình trong vấn đề sinh sản. Học sinh cần được giúp đỡ trong việc

phát triển các kỹ năng để có được những hành vi có trách nhiệm, bình đẳng
giới, khả năng suy đốn, phân tích, lập kế hoạch, ra quyết định và học cách giao
tiếp và chia sẻ với người khác. Học sinh THPT có thể có được những kĩ năng
này trong và ngoài trường học, cũng như những nơi làm việc thông qua thầy cô
giáo, cha mẹ, bạn bè cộng đồng và các phương tiện truyền thông. Như đã nêu
trên, ở lứa tuổi học sinh thường thích trao đổi những vấn đề thầm kín với bạn
bè cùng lứa. Đó là những đối tượng cũng ít kinh nghiệm, hiểu biết hoặc hiểu
sai như học sinh, hoặc từ phương tiện truyền thông khơng chính xác như học
sinh, hoặc từ hình mẫu rập khn hay q khích về tình dục và giới tính. Học
sinh ln mong muốn có cơ hội trao đổi những vấn đề này với người hiểu biết
vấn đề và sẽ khơng chỉ trích học sinh. Chính vì vậy, người lớn cần chủ động
25


×