Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện tuyên hóa, tỉnh quảng bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.94 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TRẦN THỊ THÙY LINH

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ
Ở HUYỆN TUN HỐ, TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY

Ngành : Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước
Mã số : 8 31 02 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ngọc Loan

HÀ NỘI – 2019


Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày 7 tháng 10 năm 2019
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS,TS. Trần Thị Anh Đào



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ

Trần Thị Thuỳ Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ CẤP XÃ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................................ 9
1.1. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã - Quan niệm, vị trí, vai
trị, đặc điểm ..................................................................................... 9
1.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã - Quan niệm và
tiêu chí đánh giá ................................................................................... 24
Chương 2: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CẤP XÃ Ở HUYỆN TUN HỐ, TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY –
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...... 37
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã ở huyện Tuyên Hố, tỉnh Quảng Bình hiện nay .......... 37
Tài ngun thiên nhiên .................................................................... 38
2.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở
huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình hiện nay ................................... 45
2.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với chất lượng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình ............. 63
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP XÃ Ở
HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH THỜI GIAN TỚI ...... 70

3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình thời gian tới ............ 70
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình thời gian tới ................ 72
KẾT LUẬN ......................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 87
PHỤ LỤC
TÓM TẮT LUẬN VĂN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH, HĐH

: Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

ĐTNCSHCM

: Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTCT

: Hệ thống chính trị


LĐQL

: Lãnh đạo, quản lý

LHPN

: Liên hiệp phụ nữ

QLNN

: Quản lý Nhà nước

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

UBMTTQ

: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc

UBND

: Uỷ ban nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Số lượng cán bộ LĐQL của 20 xã, thị trấn

48

Bảng 2.2

Kết quả khảo sát các kỹ năng cơ bản của đội
ngũ cán bộ LĐQL cấp xã

57

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1

Cơ cấu độ tuổi cán bộ LĐQL cấp xã


49

Biểu đồ 2.2

Cơ cấu tuổi đảng cán bộ LĐQL cấp xã

50


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại
của cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp
nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng
ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả
năng tổ chức lãnh đạo phong trào” [36, tr.473].
Kế thừa quan điểm cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ. Hơn 88
năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau Đại hội đổi mới (Đại hội VI năm
1986) đến nay, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ luôn được Đảng và Nhà
nước ta chú trọng, quan tâm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương (Khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước khẳng định: “Cán bộ là nhân tố trực tiếp
quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong cơng tác xây dựng
Đảng” [16, tr.332].
Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ lãnh

đạo, quản lý nói riêng đủ về số lượng, có chất lượng cao, ngang tầm với
yêu cầu nhiệm vụ luôn là vấn đề trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng.
Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cáp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” đã khẳng định đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước
trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức
rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục
vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng.


2

Mới đây nhất, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 26 – NQ/TW ngày 19/5/2018
về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” nhằm đáp ứng những
yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng nhấn mạnh
những tồn tại, hạn chế cần được khắc phục nhằm củng cố niềm tin của cán
bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã của
huyện Tun Hố đã được chính quyền địa phương tại tỉnh Quảng Bình rất
quan tâm và ban hành một số các Nghị quyết và Hướng dẫn. Nghị quyết số
14-NQ/TU ngày 16/6/2005 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Hướng dẫn số
09-HD/BTCTU, ngày 02/1/2013 về cơng tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ
Chính trị (khố IX) nhằm cụ thể hố về thực hiện cơng tác cán bộ lãnh đạo,
quản lý nói chung, tạo ra những chuyển biến nhất định, góp phần thúc đẩy
kinh tế - xã hội, văn hố, giáo dục, quốc phịng, an ninh trên địa bàn huyện.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ chung của đất nước, của địa

phương, nhất là trước yêu cầu của đất nước trong tình hình mới thì đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã huyện Tun Hố vẫn cịn nhiều bất
cập, hạn chế về trình độ chun mơn, năng lực hoạt động; phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống còn nhiều hạn chế cần khắc phục; cịn thiếu
các kỹ năng cần thiết trong cơng việc, sự mất cân đối về cơ cấu, thiếu
kinh nghiệm trong xử lý, giải quyết tình huống trong cơng việc. Bên cạnh
đó, cơng tác tổng kết, đánh giá một cách có hệ thống và thường xuyên đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chậm được tiến hành…Nhìn chung, chưa có
các giải pháp đồng bộ phù hợp với đặc thù địa phương nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã của huyện Tuyên Hoá,


3

đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước.
Vấn đề đặt ra là cần phải nghiên cứu một cách căn bản, đánh giá đúng
thực trạng, đề xuất những giải pháp chủ yếu khả thi để nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng
Bình đáp ứng u cầu trong thời kỳ mới.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, học viên đã chọn đề tài “Chất
lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tuyên Hoá, tỉnh
Quảng Bình hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Xây
dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ trước đến nay đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Nhiều cơng trình khoa học đã được
cơng bố, trong đó có một số cơng trình tiêu biểu liên quan đến đề tài như:
* Sách chuyên khảo, tham khảo
- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (Chủ biên), ‘‘Luận cứ khoa

học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [51], Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001. Cơng trình khoa học đã phân tích, lý giải, hệ thống hoá các căn cứ
khoa học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, từ đó đưa ra những kiến nghị về phương
hướng, giải pháp củng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lượng, số lượng
và cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
- Trần Đình Hoan (Chủ biên) [30], “Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.


4

Trình bày những vấn đề lý luận về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; Q trình thực hiện cơng tác đánh giá, quy hoạch, ln chuyển cán
bộ trong lịch sử Đảng ta và thực trạng cơng tác này trong tình hình hiện
nay; Quan điểm, giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Cao Khoa Bảng, “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời kỳ công nghiệp hố, hiện đại hố thủ đơ” [12], Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2013. Trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chất lượng đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý.
Phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm.
Đưa ra phương hướng và giải pháp cụ thể.
* Đề tài khoa học
- Ban tổ chức Tỉnh uỷ Quảng Bình, “Nghiên cứu đề xuất giải pháp xây

dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Quảng Bình” [9], Đề tài
khoa học cấp tỉnh, 2015. Đề tài đã đề cập toàn diện đến quan niệm về đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, các chức danh cụ thể và đề xuất giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thời gian tới.
- Nguyễn Viết Xuân, “Công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã tại tỉnh Quảng Bình” [57], Đề tài khoa học cấp tỉnh, 2017.
Tác giả đã khái quát về thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trên địa
bàn tỉnh, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Phương hướng, giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trên địa bàn tỉnh.
* Luận văn, luận án
- Mai Xuân Hợi, “Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Luận án tiến


5

sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Đặng Thanh Hà, “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
phường ở thành phố Huế trong giai đoạn hiện nay” [27], Luận văn thạc sĩ
Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội, 2011. Luận văn đã nêu lên cơ sở lý luận về đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, thực trạng và đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý.
- Nghiêm Thị Hà, “Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp cơ sở tỉnh Hải Dương hiện nay” [26], Luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2017. Luận văn đã đề cập
đến thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở tỉnh
Hải Dương, đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp cơ sở ở tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.

- Lê Thế Đại, “Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu hiện nay” [25], Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng
và Chính quyền Nhà nước, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội,
2018. Luận văn đã nêu lên cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở huyện Phong Thổ, nêu lên thực trạng về chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt và đề xuất các giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt huyện Phong Thổ giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Trọng Đại, “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền qua thực tiễn huyện Tuyên
Hoá, tỉnh Quảng Bình” [24], Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2018. Luận văn đã khái quát thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình, trong đó có đề cập
đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tuyên Hoá và đề xuất
các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.


6

* Bài báo, tạp chí
- Lê Nhị, “Góp phần nhận diện cán bộ lãnh đạo, quản lý”, Cộng sản,
số 16/2004 [40], Bài viết đã đưa ra một quan niệm về cán bộ lãnh đạo,
quản lý hiện nay và các nhiệm vụ cụ thể.
- Dương Quỳnh Hoa,“Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý” [28], Tạp chí Cộng sản chuyên đề, số
113/2016. Tác giả đã khái quát thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý hiện nay.
Các đề tài, các cơng trình nghiên cứu được cơng bố đã ít nhiều đề cập
đến vấn đề về chính sách, về đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, vấn đề “Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình hiện nay” đến
nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập trực tiếp nào
đề cập tới một cách khoa học và hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, đánh giá đúng chất lượng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở Huyện Tuyên Hoá, luận văn tập
trung làm rõ một số phương hướng, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện
Tun Hố, tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã;
- Làm rõ tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp xã.


7

- Đánh giá thực trạng và chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tuyên Hoá, đề xuất các giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tun
Hố, tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình.

Phạm vi thời gian: Từ 2014 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và chất lượng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã.
- Cơ sở thực tiễn: Thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình đã được xác định
trong phạm vi nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và phương
pháp luận duy vật lịch sử vào q trình nghiên cứu.
Ngồi ra luận văn cịn sử dụng các phương pháp cụ thể như: nghiên
cứu tài liệu; phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối
chiếu; phỏng vấn sâu; phương pháp điều tra xã hội học nhằm khái quát
những kết quả nghiên cứu về mặt lý thuyết có liên quan đến đề tài.


8

6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học của chất lượng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã; khái niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã; nêu lên thực trạng của chất lượng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tuyên Hoá
- Luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tun Hố,
tỉnh Quảng Bình trong những năm tiếp theo.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

- Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng
và quản lý Nhà nước góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình hồn thiện hơn.
- Các giải pháp của đề tài sẽ làm cơ sở để xây dựng mơ hình về chất
lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trên địa bàn tỉnh.
- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu
và giảng dạy tại Trường Chính trị tỉnh những chuyên đề liên quan đến chất
lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
- Luận văn góp phần cung cấp những luận cứ lý luận và thực tiễn cho
việc hoạch định các chính sách về cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trên địa
bàn tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 3 chương và 7 tiết.


9

Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ CẤP XÃ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã - Quan niệm, vị trí,
vai trị, đặc điểm
1.1.1. Một số quan niệm cơ bản
1.1.1.1. Quan niệm cán bộ
Theo từ điển Tiếng Việt do Vĩnh Tịnh chủ biên: “cán bộ được hiểu
theo hai nghĩa. Thứ nhất, là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong
cơ quan Nhà nước. Thứ hai, người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, khơng có chức vụ” [50, tr.34].
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (viết

năm 1947) xác định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng,
của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để
đặt chính sách cho đúng” [39, tr.269].
Trong các văn bản của Đảng và Nhà nước hiện nay, từ “cán bộ” được
sử dụng để chỉ người nắm giữ một chức trách, nhiệm vụ nào đó trong các
tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở các cấp. Điều 4, Chương I Luật cán bộ,
công chức do Quốc hội nước ta ban hành năm 2008 quy định:
Cán bộ là công dân Việt nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước [41, tr.2].


10

Như vậy có hai cách hiểu:
- Thứ nhất, cán bộ là những người trong biên chế nhà nước, làm việc
trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đồn thể chính trị - xã hội, các doanh
nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa
phương cơ sở
- Thứ hai, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay
một tổ chức để phân biệt với người khơng có chức vụ (như cán bộ với
chiến sĩ, cán bộ với công nhân nhà máy, cán bộ với đồn thanh niên).
Trong cơng tác cán bộ, cán bộ được hiểu theo cách thứ hai, tức là
những người có chức vụ trong một cơ quan hay một tổ chức thuộc hệ thống
chính trị ở các cấp, phân biệt với người khơng có chức vụ.

1.1.1.2. Quan niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý
“Lãnh đạo” theo Đại từ tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, có nghĩa
là: “dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể”;
Sách tra cứu các mục từ về tổ chức đưa ra định nghĩa: “Lãnh đạo:
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền do Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước hoặc Điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội và các tổ chức khác trong xã hội quy định” [43, tr. 471].
Như vậy, cán bộ lãnh đạo được hiểu là những người có chức vụ và có
vai trị lãnh đạo dẫn dắt, định hướng mọi hoạt động của tổ chức theo đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Cũng có thể định nghĩa: cán bộ lãnh đạo là người giữ chức vụ và
trách nhiệm trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ
chức, bộ máy, có vai trị định hướng, điều khiển hoạt động của bộ máy đó.
Như vậy, cốt lõi của cán bộ lãnh đạo là người có chức vụ, là người
dẫn dắt, định hướng hoạt động của tổ chức, của phong trào để tổ chức
phong trào ấy phát triển. Do đó, phương pháp của cán bộ lãnh đạo tác động
lên đối tượng lãnh đạo chủ yếu là phương pháp giáo dục và thuyết phục,


11

ngồi ra cán bộ lãnh đạo cịn phải sử dụng một số phương pháp khác như tổ
chức, hành chính...để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
“Quản lý” là “tổ chức và điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu
nhất định” [58, tr.979]. Quản lý còn được hiểu theo cách hiểu phổ biến là
sự tác động có hệ thống, có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng, làm
cho họ hành động theo mục tiêu đã định của quản lý.
Theo nghĩa rộng, lãnh đạo cùng với quản lý là công việc mà tất cả
các chủ thể là tổ chức và cá nhân có thẩm quyền tác động đến các tổ chức
và cá nhân dưới quyền và các thành viên khác trong xã hội khi thi hành

nhiệm vụ do các chủ thể đó vạch ra; hoặc bằng biện pháp hành chính, mệnh
lệnh, hoặc kết hợp biện pháp hành chính với biện pháp thuyết phục, hoặc
chỉ dùng biện pháp vận động, thuyết phục, khơng dùng biện pháp hành
chính đối với các thành viên trong tổ chức.
Với cơ chế tổng thể: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ cho nên hệ thống chính trị của ta là sự thống nhất giữa sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự tham gia quản lý của các tổ chức xã hội
đối với toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của đất nước.
Từ đặc trưng đó, thuật ngữ cán bộ cịn được dùng để chỉ những người
được bầu cử, bổ nhiệm hoặc điều động để làm việc trong các bộ máy của các
tổ chức chính trị – xã hội, cùng với bộ máy hành chính thực hiện chủ trương
của Đảng trong hệ thống chính trị thống nhất.
Theo cách hiểu thông thường và khá phổ biến hiện nay ở nước ta,
khái niệm cán bộ lãnh đạo còn gắn liền với khái niệm cán bộ quản lý, bởi
lẽ cán bộ quản lý cũng là người có chức vụ, đứng đầu trong một cơ quan
đơn vị hoặc một tổ chức, đơn vị, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ
chức, có vai trị quyết định và định hướng, điều khiển hoạt động của bộ
máy. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý có điểm chung cơ bản là đều có


12

chức năng và thẩm quyền quản lý nhân sự, tập thể do họ phụ trách trong
q trình thực hiện cơng việc và đạt tới mục tiêu của tổ chức. Người cán bộ
quản lý cũng đồng thời thực hiện chức năng lãnh đạo và người lãnh đạo
cũng đồng thời thực hiện chức năng quản lý. Vì thế khó có thể phân biệt
rạch ròi đâu là người lãnh đạo, đâu là người quản lý.
Tuy nhiên, giữa khái niệm cán bộ lãnh đạo và khái niệm cán bộ quản
lý khơng hồn tồn đồng nhất với nhau.
Sự khác biệt này được thể hiện ở chỗ:

Về chức năng: Khái niệm lãnh đạo thường dùng để chỉ khả năng định
hướng xác định mục đích lâu dài và khả năng lơi cuốn, thúc đẩy mọi người,
điều hồ phối hợp các mối quan hệ và động viên, thuyết phục con người,
thường được gắn liền với việc thiết lập đường lối, chính sách.
Cịn quản lý dùng để chỉ khả năng tổ chức, xác định mục tiêu cụ thể
để thi hành các đường lối chính sách ấy. Hoạt động quản lý của nó cốt lõi
là tổ chức, điều khiển vận hành một tổ chức thơng qua những thiết chế có
tính pháp lệnh được quy định từ trước. Phương pháp quản lý cũng có sự
khác biệt đối với phương pháp lãnh đạo, trong quản lý sử dụng phương
pháp chủ yếu bằng mệnh lệnh, bằng các quyết định quản lý mang tính bắt
buộc tức thời. Chức năng quản lý là sự tiếp tục của chức năng lãnh đạo, là
bước đi kế tiếp của lãnh đạo, đó là khâu tất yếu để thực hiện sự lãnh đạo.
Trên thực tế, sự phân biệt này chỉ là tương đối nhưng lại rất cần cho công
tác tổ chức cán bộ, làm cơ sở cho việc xác định tiêu chuẩn, chức năng của
người cán bộ lãnh đạo và người cán bộ quản lý
Về bản chất: Sự lãnh đạo là một khái niệm rộng hơn quản lý. Sự lãnh
đạo xuất hiện bất kỳ khi nào một người hoặc tổ chức cố gắng để tác động
hoặc chi phối hành vi của một cá nhân, một nhóm người hay rộng hơn là
đất nước, bất kể điều kiện, hoàn cảnh nào. Cịn sự quản lý, đó là q trình


13

làm việc cùng với và thông qua các cá nhân, các nhóm xã hội và những
nguồn lực khác (như thiết bị, vốn, cơng nghệ...) để đạt được những mục
đích của tổ chức. Về lãnh đạo, cũng có thể vì mục tiêu của chính người
lãnh đạo hoặc những mục tiêu của ban lãnh đạo
Cịn nhiều khía cạnh, ngồi chức năng và tính chất, có thể tiếp tục so
sánh những chỗ khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý như về phạm vi và
mức độ tác động, trọng tâm trọng điểm, yếu tố cấu thành, đức tính cần có

của nhà lãnh đạo và quản lý...song điều đáng chú ý nhất là lãnh đạo liên
quan đến mục tiêu dài hạn, đến những nhiệm vụ, chủ trương chiến lược,
đến việc động viên, thuyết phục con người, cịn quản lý thường gắn với
những cơng việc cụ thể, tổ chức cụ thể, chỉ đạo cụ thể, nắm chặt tình huống
cụ thể. Tuy nhiên, lãnh đạo và quản lý cũng khơng hồn tồn khơng phải là
hai khái niệm đối lập, trái lại, giữa lãnh đạo và quản lý lại có nhiều chỗ
tương đồng, gần như bổ sung cho nhau, công việc quan trọng quốc gia chỉ
của một doanh nghiệp cũng cần cả lãnh đạo và quản lý
Lãnh đạo và quản lý đều phục vụ chung một mục đích cuối cùng, dù
là của một tổ chức kinh tế, văn hoá hay một địa hạt lãnh thổ, một quốc gia,
mục tiêu dài hạn hay ngắn hạn cũng đều là để đạt được mục đích cuối cùng
mà thơi. Các nhiệm vụ kế hoạch có đạt thì các chủ trương chiến lược mới
có cơ sở thực hiện, sự chỉ đạo thường xun có chặt chẽ, đúng quy phạm
pháp luật, thì sự nghiệp mới hoàn thành. Như vậy, lãnh đạo và quản lý
chẳng qua là hai góc độ của một cơng việc, một công vụ. Đương nhiên,
lãnh đạo phải đi trước một bước, vạch ra một đường lối và không mắc sai
lầm đáng kể; biết theo dõi tiến trình quản lý bằng con mắt chiến lược và
cuối cùng đánh giá kết quả chung
Xét một cách tổng thể, toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước đối với xã hội, có thể hình dung gồm ba nhóm cơng việc chính yếu:


14

Một là, Hoạch định đường lối chính trị (đối với Đảng) và chính sách,
pháp luật đúng đắn (đối với Nhà nước) nhằm phát triển đất nước không ngừng.
Hai là, Tổ chức thực tiễn hiệu quả đường lối chính trị của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước.
Ba là, Kiểm tra, thanh tra toàn bộ việc thực hiện đường lối chính trị
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Đó cũng chính là lĩnh vực, là mơi trường, là thước đo hiệu quả hoạt
động của bộ máy Đảng và Nhà nước. Do đó, việc khu biệt tương đối sự
lãnh đạo và quản lý là những vấn đề mà không ít người lầm lẫn trong việc
nhận diện sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, để nói rõ hơn
về hai loại cơng việc lãnh đạo và quản lý liên quan tới cán bộ lãnh đạo và
cán bộ quản lý là hết sức cần thiết.
Từ sự phân tích trên, ta có thể phân biệt hai khái niệm này là:
Cán bộ lãnh đạo là người đứng đầu một tổ chức, là người thực hiện tất
cả các chức năng của một chủ thể quản lý và là người chịu trách nhiệm đầy
đủ, toàn diện đối với toàn bộ hoạt động của tổ chức đó.
Cán bộ quản lý là người làm cơng tác quản lý, có chức danh và nằm
trong hệ thống bộ máy quản lý của một tổ chức địa phương hay đơn vị;
được quyền ra các quyết định quản lý, tổ chức, điều hành những người
dưới quyền thực hiện công việc
Trong đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, cán bộ lãnh đạo, quản
lý là những chủ thể ra quyết định, điều khiển hoạt động của một tổ chức, có
tác dụng chi phối chính tồn bộ hoạt động của một tổ chức.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đòi hỏi cả người cán bộ lãnh đạo và cả
người cán bộ quản lý phải giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất và
năng lực của người lãnh đạo, quản lý để định hướng, điều khiển và chỉ huy,
có khả năng tổ chức tốt công việc, quy tụ cán bộ và đoàn kết nội bộ.


15

1.1.1.3. Quan niệm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
* Quan niệm về “đội ngũ”
Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về “đội ngũ”.
“Đội ngũ” chỉ khối đông người được tập hợp, tổ chức thành một lực
lượng có cùng một tác dụng và vai trị trong một địa phương, tổ chức. Gồm

nhiều chức danh, nắm giữ các vị trí có ảnh hưởng quyết định trong hệ
thống tổ chức của một cấp.
Ngày nay, khái niệm “đội ngũ” được dùng cho các tổ chức trong xã
hội một cách rộng rãi như: Đội ngũ cán bộ, công chức; đội ngũ trí thức... tất
cả đều xuất phát theo cách hiểu của thuật ngữ đó là: Khối đơng người được
tập hợp lại một cách chỉnh tề và được tổ chức thành lực lượng
Khái niệm đội ngũ tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng đều có
chung một điểm đó là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một
lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay khơng
cùng nghề nghiệp nhưng có chung một mục đích nhất định.
Hiểu theo nghĩa chung nhất: Đội ngũ là một tập thể gồm số đơng
người, có cùng lý tưởng, mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống nhất, có
kế hoạch, gắn bó với nhau về lợi ích vật chất cũng như tinh thần.
* Quan niệm về “đội ngũ cán bộ”
Quan niệm “đội ngũ cán bộ” cũng bao hàm nhiều nội dung. Xét về
mặt cấu trúc, có thể quan niệm đội ngũ cán bộ bao hàm hai bộ phận:
Thứ nhất: gồm những cán bộ được hình thành qua con đường đào tạo
tại các trường
Thứ hai: gồm những cán bộ được hình thành qua con đường bầu cử
hoặc bổ nhiệm.
Tuy nhiên, hiện nay quan niệm “đội ngũ cán bộ” được hiểu là tập hợp
những người đảm nhiệm chức vụ nhất định trong hệ thống chính trị, có


16

chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật và nội quy
của cơ quan; có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của đặc thù cơng
việc và góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong những giai đoạn
lịch sử nhất định.

Xét về loại hình đội ngũ cán bộ, có thể chia thành các loại cán bộ đảng
và đoàn thể; cán bộ nhà nước (trong các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp); cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế; cán bộ khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao, xã hội và cán bộ quản lý thuộc
các ngành này; cán bộ lực lượng vũ trang.
* Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
Cấp xã, theo điểm 3, Điều 2 của Luật tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 thì xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị
hành chính Nhà nước ở địa phương thuộc hệ thống hành chính bốn cấp của
Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cấp xã là hình ảnh xã hội của một đất nước thu nhỏ, là cơ sở, là nền
tảng, là nơi tiếp thu, triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi hoạt
động trên tất của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phịng, an ninh. Là nơi trực tiếp, thường xuyên tiếp xúc với quần chúng
nhân dân, nơi thể hiện rõ nhất và kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu quả mọi
chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xi” [39, tr.371].
Theo sự phân cấp của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý được chia làm bốn cấp, theo thứ tự: cấp Trung
ương, cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp huyện (huyện,
quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh), cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn...).


17

Theo cơ cấu của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý được chia ra thành ba khối chủ yếu: một là, khối cán bộ
lãnh đạo, quản lý thuộc hệ thống tổ chức đảng; hai là, khối cán bộ lãnh
đạo, quản lý Nhà nước; ba là, khối cán bộ lãnh đạo, quản lý các tổ chức

chính trị - xã hội (Mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội).
Như vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là đội ngũ cán bộ
làm công tác lãnh đạo, quản lý trong tổ chức Đảng, chính quyền và đồn
thể trong hệ thống chính trị ở cấp xã. Là những người có chức vụ quan
trọng nhất trong các tổ chức ở cấp xã, có quyền ra những quyết định về
chủ trương, có trách nhiệm về quyền điều hành các tổ chức, dẫn dắt và
định hướng toàn bộ hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, đồn thể
trong hệ thống chính trị ở cấp xã.
Hiện nay, tại khoản 3, điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy
định: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực HĐND,
UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã
hội” [41].
Phạm vi nghiên cứu trong luận văn này tập trung vào đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp xã ở huyện Tuyên Hoá mà chủ yếu là các chức danh
nêu trong Luật CBCC năm 2008 và quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐCP ngày 22/10/2009 của Chính phủ “Về chức danh, số lượng, một số chế
độ, chính sách đối với cán bộ, cơng chức ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”.
Xuất phát từ đặc điểm thể chế chính trị của nước ta, Đảng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, được vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”, cho nên khi nói đến cán bộ lãnh đạo, trước hết
phải là người đứng đầu cấp ủy, cấp ủy viên của tổ chức đảng và người
đứng đầu về mặt hành chính (thủ trưởng) của địa phương, đơn vị.


18

Cụ thể, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trong phạm vi nghiên cứu của
luận văn này bao gồm các chức danh sau đây:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy cấp xã

+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND cấp xã
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã
+ Bí thư Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp xã
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cấp xã
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam cấp xã
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam cấp xã.
1.1.2. Vai trò đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
Đội ngũ cán bộ LĐQL cấp xã có vai trị đặc biệt quan trọng đối với
cách mạng nói chung, với tiến trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương các tỉnh, thành phố. Vai trị của người cán bộ có bốn mối quan
hệ chủ yếu: (1) với đường lối, chính sách; (2) với bộ máy (các cơ quan lãnh
đạo, quản lý); (3) với công việc; (4) với quần chúng. Chỉ khi nào hồn
thành sứ mệnh do các quan hệ đó địi hỏi thì người cán bộ mới thực hiện
đúng vai trị của mình. Vai trị của người cán bộ và cơng tác cán bộ chỉ
được thể hiện rõ ràng, cụ thể, có hiệu lực khi gắn với đường lối, nhiệm vụ
chính trị của Đảng. Đội ngũ cán bộ LĐQL cấp xã là người nắm vị trí quan
trọng trong bộ máy Đảng, chính quyền ở cơ sở, tiếp nhận, tiếp thu các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của cấp
trên; đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo để thực hiện thắng lợi các chủ trương,
đường lối đó ở địa phương, cơ sở. Vai trò của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp xã được thể hiện ở các điểm sau đây:
1.1.2.1. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước ở cấp xã
Đội ngũ cán bộ LĐQL cấp xã là những người tiếp nhận các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cụ thể


19


hóa, xây dựng thành chương trình, kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện
ở địa phương; chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và cấp trên về các
quyết định của mình. Do vậy, đội ngũ cán bộ LĐQL cấp xã có vai trị đặc
biệt quan trọng, quyết định đến thành công, hiệu quả triển khai thực hiện
mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Là cấp gần nhất với thực tiễn, trực tiếp nhất với cuộc sống của nhân
dân, cán bộ LĐQL cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, vận động và tổ
chức thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước ở cơ sở, đảm bảo an sinh
của người dân và sự phát triển của cộng đồng. Thơng qua vai trị của họ mà
ý Đảng, lịng dân được thống nhất, làm cho đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước có cơ sở bám rễ, ăn sâu trong đời sống xã hội, tạo nên sự
gắn bó máu thịt giữa Đảng và dân, nâng cao sự nhất trí trong Đảng và sự
đồng thuận trong xã hội.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người quyết định hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Họ vừa là bộ não, đầu tàu của hệ
thống, vừa là người chỉ huy, điều hành, tổ chức thực hiện, đảm bảo cho bộ
máy vận hành đồng bộ, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, làm cho đường lối
chính sách của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống.
1.1.2.2. Quyết định sự phân bổ lợi ích và các nguồn lực ở cơ sở
Là người đứng đầu, trực tiếp nắm và chỉ đạo thực hiện các vấn đề
trọng yếu, các khâu trung tâm của hệ thống chính trị ở cơ sở, cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã vừa là người khởi xướng chủ trương, vừa là người chủ
trì, điều khiển và chịu trách nhiệm đến cùng các mặt công tác, các lĩnh vực
hoạt động của hệ thống đó. Là người nắm giữ quyền lực, quyết định việc
phân bổ lợi ích nên hành động của họ phải minh bạch, công bằng, gương
mẫu và nghiêm túc rèn luyện để có phương thức lãnh đạo dân chủ.
Sự mạnh - yếu của hệ thống chính trị và phong trào cách mạng cơ sở
gắn liền với vai trò cán bộ LĐQL cấp xã. Họ vừa là hạt nhân lãnh đạo, vừa



×