Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Kinh tế làng nghề phát triển theo hướng bền vững ở huyện thạch thất, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN

NGUYỄN HỒNG ANH

KINH TẾ LÀNG NGHỀ PHÁT TRIỂN THEO HƯỚNG
BỀN VỮNG Ở HUYỆN THẠCH THẤT,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN

NGUN HỒNG ANH

KINH TẾ LÀNG NGHỀ PHÁT TRIỂN THEO HƯỚNG
BỀN VỮNG Ở HUYỆN THẠCH THẤT,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Ngô Văn Lương

HÀ NỘI, 2017


Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.

Hà Nội, ngày……tháng…..năm 2017
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
(Ký và ghi rõ họ tên)

TS. Đồng Văn Phường


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của tôi. Các số
liệu, tư liệu được dựa trên nguồn tin cậy, có thực và dựa trên thực tế thu thập
và phân tích của tơi. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên
cứu của mình.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2017

Học viên


Nguyễn Hồng Anh


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVMT

Bảo vệ môi trường

CCN

Cụm công nghiệp

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CN – TTCN

Cơng nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp

CN – TTCN – XD

Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp – Xây dựng

CSXS

Cơ sở sản xuất

HTX


Hợp tác xã

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

KH – CN

Khoa học – Công nghệ

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

PTBV

Phát triển bền vững

QLNN

Quản lý nhà nước

SXKD

Sản xuất kinh doanh

TCMN

Thủ công mỹ nghệ


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TTCN

Tỷ trọng công nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

VSMT

Vệ sinh môi trường
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ LÀNG
NGHỀ PHÁT TRIỂN THEO HƯỚNG BỀN VỮNG .................................. 8
1.1.Những vấn đề chung về làng nghề và kinh tế làng nghề ................... 8
1.2.Phát triển kinh tế làng nghề theo hướng bền vững .......................... 22
1.3.Kinh nghiệm phát triển kinh tế làng nghề bền vững ở một số địa
phương ................................................................................................... 36
Chương 2: KINH TẾ LÀNG NGHỀ PHÁT TRIỂN THEO HƯỚNG
BỀN VỮNG Ở HUYỆN THẠCH THẤT – HÀ NỘI ................................. 45
GIAI ĐOẠN 2010 – 2016 .............................................................................. 45
2.1.Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến tính bền vững của

kinh tế làng nghề ở huyện Thạch Thất – Hà Nội................................... 45
2.2.Thực trạng kinh tế làng nghề bền vững ở huyện Thạch Thất – Hà Nội ..... 53
2.3. Những vấn đề đặt ra hiện nay ......................................................... 69
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
LÀNG NGHỀ THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở HUYỀN THẠCH THẤT
– HÀ NỘI ....................................................................................................... 77
3.1. Định hướng phát triển kinh tế làng nghề bền vững ở huyện Thạch
Thất - Hà Nội ........................................................................................ 77
3.2. Giải pháp phát triển kinh tế làng nghề theo hướng bền vững ở
huyện Thạch Thất – Hà Nội.................................................................. 81
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các làng nghề truyền thống của huyện Thạch Thất, thành phố Hà
Nội tính đến hết năm 2016 ................................................................... 54
Bảng 2.2. Biến đổi GDP trong cơ cấu ngành nghề ......................................... 59
Bảng 2.3. Biến đổi lao động trong cơ cấu ngành nghề ................................... 60
Bảng 2.4. Số lao động làm nghề ở huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội tính
đến hết năm 2016 .................................................................................. 61


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam là một trong những nước ở châu Á có bề dày lịch sử về các
làng nghề. Từ hàng trăm năm trước đây, trong xã hội phong kiến, các làng
nghề Việt Nam đã có vai trị rất quan trọng trong việc sản xuất, cung ứng các
sản phẩm đa dạng, phục vụ trực tiếp cho các hoạt động của nền sản xuất nông

nghiệp, cho bản thân các nghề thủ công nghiệp và cho nhu cầu tiêu dùng thiết
yếu của đông đảo cư dân nông thơn và các đơ thị trong nước; thậm chí nhiều
sản phẩm độc đáo về tơ lụa, đồ gốm, hàng thủ công chạm khắc tinh xảo… của
các làng nghề Việt Nam đã được các nhà buôn lớn như Trung Quốc, Nhật
Bản và một số nước phương Tây thu gom với số lượng khá lớn nhằm mục
đích sinh lợi.
Do đó, phát triển các làng nghề ở một số địa phương là việc làm cần
thiết nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho nơng dân ở nơng thơn, góp phần
xóa đói giảm nghèo, thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại với sản phẩm
mũi nhọn là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản và cũng là
thực hiện mục tiêu “ly nông bất ly hương” ở nông thôn. Phát triển làng nghề
cịn mang ý nghĩa giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc của các làng
quê, đồng thời góp phần quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc giữa các vùng
miền trong nước với nhau và với thế giới bên ngoài trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Thạch Thất là một huyện của Hà Nội, có vị trí địa lý thuận lợi, nơi hội
tụ nhiều tiềm năng về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và cũng là nơi tập
trung nhiều làng nghề thủ công. Với sự phát triển giao thông đi lại thuận tiện
về đường bộ, đường sông và đường sắt, Thạch Thất hiện đang là điểm hấp
dẫn khách du lịch tham quan từ nhiều vùng miền trên cả nước và nước ngồi,
trong đó nghiên cứu tham quan về sự phát triển các làng nghề truyền thống đã


2
trở thành một trong những điểm nhấn thu hút đáng chú ý nhất của khách du
lịch. Sự phát triển các làng nghề ở huyện Thạch Thất khơng những đóng góp
giá trị về mặt kinh tế mà cịn góp phần giữ gìn những giá trị truyền thống của
dân gian, tạo nên nét đẹp văn hóa truyền thống, điểm nhấn quan trọng trong
chuỗi du lịch khám phá Hà Nội nói chung và với làng nghề truyền thống của
huyện Thạch Thất nói riêng.

Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua, làng nghề ở huyện Thạch
Thất đã trở thành một bộ phận kinh tế hết sức quan trọng của huyện Thạch
Thất nói riêng và với Hà Nội nói chung. Kinh tế làng nghề Thạch Thất đã có
sự phát triển lớn mạnh khơng chỉ về quy mô , cơ cấu ngành nghề và sản phẩm
mà cịn cả về trình độ và chất lượng. Cùng với các lĩnh vực kinh tế khác, kinh
tế làng nghề Thạch Thất đã có những đóng góp tích cực cho việc tăng trưởng
kinh tế của Huyện, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ q trình phân cơng lại lao
động trong nơng nghiệp, nông thôn, tổ chức lại sản xuất trong nội bộ ngành
và giữa các ngành nghề với nhau, theo đó đã góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Huyện theo hướng tiến bộ, thay đổi bộ mặt nông thôn, cải
thiện một bước đáng kể đời sống vật chất và tinh thần văn hóa của nơng dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, kinh tế làng nghề Thạch Thất hiện
nay cũng đang phải đối mặt với những khó khăn thách thức mới. Đó là tình
trạng phát triển tự phát, thiếu tính quy hoạch cơ bản của phát triển làng nghề;
là sự thụ động phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ trong nước và nước ngồi; sự
thiếu tính kế hoạch hướng dẫn dài hạn và công tác dự báo thị trường hạn chế
đang gây cho doanh nghiệp và người sản xuất làng nghề những khó khăn lúng
túng trong tìm kiếm nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ đầu ra của sản phẩm. Do
thiếu những yếu tố thông tin thị trường và những bất cập về cơ chế chính sách
đã và đang tạo nên những lực cản cho sự phát triển làng nghề ở Thạch Thất
hiện nay. Những tồn tại và hạn chế nêu trên nếu khơng có những biện pháp và
giải pháp tích cực có hiệu quả khắc phục thì sự phát triển làng nghề ở Thạch


3
Thất sẽ khó có thể đảm bảo bền vững và nguy cơ suy thoái kinh tế làng nghề
ở Thạch Thất sẽ là hiện thực không thể tránh khỏi.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi đã chọn : “Kinh tế làng nghề
phát triển theo hướng bền vững ở Huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
hiện nay” làm đề tài luận văn cao học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển kinh tế làng nghề là một trong những vấn đề quan trọng đối
với đời sống kinh tế, xã hội của Việt Nam trong quá trình chuyển sang kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, vì thế chủ đề này đã thu hút được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay đã có nhiều cơng trình khoa học được
cơng bố. Dưới đây là một số cơng trình ít nhiều có liên quan đến định hướng
nghiên cứu của đề tài luận văn:
- Luận án Tiến sĩ: “Làng nghề truyền thống trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Trần Minh Yến, Nxb Khoa học Xã hội, năm 2004.
Trong luận án, tác giả đã phân tích rõ vai trị của làng nghề truyền thống trong
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam, đồng thời tác giả còn
đưa ra những kinh nghiệm phát triển làng nghề của các nước trong khu vực
châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, và một số nước trong khu vực
ASEAN,… Đề tài còn nêu rõ thực trạng hiện nay của các làng nghề truyền
thống ở Việt Nam từ đó chỉ ra xu hướng vận động và 8 nhóm giải pháp của
làng nghề truyền thống dưới tác động của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tuy nhiên, trong đề tài nghiên cứu tác giả còn chưa nêu ra được nguyên
nhân dẫn đến những yếu kém, khó khăn của làng nghề truyền thống hiện nay
đó là cơng tác truyền nghề và năng lực quản lý của doanh nghiệp làng nghề
trong quá trình tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, là một trong những
khâu quan trọng trong việc phát triển kinh tế trong làng nghề truyền thống.
- “Bảo tồn và phát triển làng nghề trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Hà


4
Nội, năm 2009. Cơng trình nghiên cứu khoa học này trước hết đã chỉ ra
được vai trị có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Làng nghề góp phần tạo cơng ăn việc làm cho lao động trong nước, góp
phần chuyển dịch cơ cấu, làm tăng kim ngạch xuất khẩu trong q trình

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó, cơng trình nghiên cứu còn chỉ
ra vai trò của làng nghề trong việc bảo tồn, chấn hưng và phát triển làng
nghề không chỉ phát triển kinh tế theo ý nghĩa thông thường, mà cịn là phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc trong tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu
đưa ra giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề, đề tài đã chỉ ra thực trạng
phát triển của các làng nghề Việt Nam hiện nay; cơ hội lớn với các làng
nghề hiện nay là việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), từ đó tạo ra nhiều thị trường tiêu thụ sản phẩm làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề cũng không bị phân biệt đối xử trong các vụ
tranh chấp thương mại nhờ có cơ chế giải quyết tranh chấp chung; tuy
nghiên đề tài cũng chỉ ra những khó khăn và yếu kém đang gặp phải: Về
nguồn nhân lực, vốn sản xuất, mặt bằng sản xuất, nguồn nguyên liệu đầu
vào, máy móc thiết bị sản xuất còn chậm cải tiến, năng lực quản lý của các
doanh nghiệp làng nghề cũng như cơ chế chính sách và lãnh đạo địa phương,
đặc biệt là tình hình ơ nhiễm hiện nay ở các làng nghề,... Qua phân tích
những cơ hội và thách thức đối với làng nghề Việt Nam cơng trình nghiên
cứu chỉ ra những hướng bảo tồn và những giải pháp nhằm thực hiện.
- Hội thảo quốc tế: “Bảo tồn và phát triển làng nghề thủ công truyền
thống”, 8/1996 tại Hà Nội.
- “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam”, tác giả Bùi Văn
Vượng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998.
- “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong q trình cơng nghiệp
hóa”, TS. Dương Bá Phượng, Nxb Khoa học Xã hội, năm 2001.


5
- Hội thảo: “Phát triển bền vững làng nghề Hà Tây: Thực trạng và giải
pháp”, Hà Đông, 11/2006.
- “Diễn đàn làng nghề năm 2007”, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng
thơn, tổ chức 17/11/2007, tại số 2 Hồng Quốc Việt, Hà Nội. Hội thảo “Bảo

tồn và phát triển làng nghề Hà Nội”, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tổ chức ngày 17/9/2010, tại Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ: “Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở
Việt Nam”, Vũ Thị Thu, Hà Nội, 1998.
- Luận văn thạc sĩ: “Phát triển làng nghề ở huyện Từ Liêm trong tiến
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thôn”, Nguyễn Thị
Thọ, Hà Nội, 2005.
- Luận văn thạc sĩ: “Phát triển làng nghề Hà Tây trong hội nhập kinh
tế quốc tế”, Nguyễn Thị Nghĩa, Hà Nội, năm 2008.
- Đề tài nghiên cứu: “Phát triển bền vững các làng nghề huyện Thạch
Thất - Thành phố Hà Nội”, Đỗ Thị Lan, Hà Nội, năm 2009.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển
kinh tế làng nghề bền vững đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế
làng nghề bền vững ở huyện Thạch Thất – Hà Nội, luận văn đưa ra định
hướng và những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy kinh tế làng nghề của Huyện
Thạch Thất phát triển theo hướng bền vững từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn
đến năm 2050.
 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về làng nghề và phát triển kinh tế làng nghề
bền vững.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế làng nghề bền vững
ở huyện Thạch Thất, Hà Nội từ năm 2010 đến nay.


6
- Đưa ra những định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu để thúc đẩy kinh
tế làng nghề ở huyện Thạch Thất, Hà Nội phát triển theo hướng bền vững.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


 Đối tượng nghiên cứu:
Phát triển kinh tế làng nghề theo hướng bền vững ở huyện Thạch Thất ,
Hà Nội (bao gồm cả làng nghề truyền thống và làng nghề mới)
 Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian chủ yếu từ năm 2010 đến năm 2016.
- Về không gian nghiên cứu được giới hạn trong sự phát triển kinh tế
làng nghề ở huyện Thạch Thất, Hà Nội, tiếp cận dưới các góc độ kinh tế chính trị
Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu:
 Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối,
quan điểm của Đảng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, các
Văn kiện, Báo cáo tổng kết của lãnh đạo, chính quyền huyện Thạch Thất là
căn cứ lý luận và thực tiễn nghiên cứu của đề tài. Đồng thời, có tham khảo
một số tài liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Duy vật biện chứng và
Duy vật lịch sử Mác – xit, luận văn sử dụng phương pháp của khoa học kinh
tế chính trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu khác như: Phân tích tổng hợp, thống kế - so sánh, điều tra – khảo sát, lấy
ý kiến chuyên gia,... để thực hiện việc nghiên cứu của đề tài.
5. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế làng
nghề bền vững trên địa bàn một huyện ngoại thành Hà Nội, đồng thời nêu ra
một số định hướng và giải pháp cho sự phát triển kinh tế làng nghề bền vững
ở huyện Thạch Thất, Hà Nội hiện nay.


7
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, cung cấp tư liệu cho

việc học tập, nghiên cứu của sinh viên chuyên ngành kinh tế chính trị trong
các trường Đại học và Cao đẳng hiện nay, cũng như cho việc lãnh đạo, quản
lý của chính quyền địa phương...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.


8
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ LÀNG
NGHỀ PHÁT TRIỂN THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
1.1.

Những vấn đề chung về làng nghề và kinh tế làng nghề

1.1.1. Làng nghề và kinh tế làng nghề
 Khái niệm làng nghề
Lịch sử phát triển Việt Nam gắn liền với đơn vị hành chính làng xã,
cũng là nơi sinh sống và làm việc của người dân. Trong luỹ tre làng là cả xã
hội thu nhỏ với các mối liên kết đan xen trong cuộc sống và trong công việc.
Làm ruộng không chỉ là một nghề nghiệp chủ yếu mà còn là một cách sống,
một đặc trưng văn hoá của hầu hết cư dân ở các làng xã ở Việt Nam. Trong
quá trình phát triển, một bộ phận dân cư tách ra và làm nghề khác. Ban đầu,
các nghề phi nông nghiệp xuất hiện ở một số hộ gia đình, nhưng rồi trong q
trình phát triển và chun mơn hố sản xuất, số hộ gia đình và số người làm
nghề tăng lên, dần chiếm đa số. Lúc này, làng nghề được hình thành, trở
thành tên gọi thậm chí là “thương hiệu” trong vùng và cả nước. Ví dụ như
“Gạch Bát Tràng”, “Giấy Yên Thái”, “Vàng bạc Châu Khê”, “Đúc đồng Đại
Bái”… với trình độ tinh xảo và phân cơng lao động khá cao. Do đó, q trình
phát triển làng nghề ở Việt Nam chính là q trình phát triển kinh tế nơng

thơn, đồng thời là lịch sử phát triển của nền tiểu thủ cơng nghiệp Việt Nam.
Khái niệm làng nghề có rất nhiều.
Dưới đây là một số khái niệm về làng nghề được tổng hợp từ các nguồn
tài liệu:
Theo Luận án tiến sĩ “Phát triển làng nghề truyền thống trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven thủ đơ Hà Nội” của tác giả
Mai Thế Hởn:
Khái niệm thứ nhất
Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều hoạt động cho
nghề ấy và lấy nghề đó làm nghề sống chủ yếu.


9
Nếu dựa trên khái niệm phân loại này, số lượng làng nghề ở Việt Nam
hiện cịn rất ít. Ví dụ như làng gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội) rất nổi tiếng nhưng
số người làm nghề cũng chỉ chiếm hơn 50%, số còn lại làm nhiều nghề khác.
Vài năm trở lại đây, số người dân Bát Tràng chuyển sang làm nghề
thương mại và dịch vụ tăng mạnh.
Khái niệm thứ hai
Làng nghề là làng làm nghề thủ công, nhưng không nhất thiết là đa số
dân làng. Thợ thủ công cũng làm nghề nơng nhưng do u cầu chun mơn
hố đã trở thành thợ chun sản xuất hàng thủ cơng.
Khái niệm này có thể dẫn tới việc hiểu tiêu chí đánh giá làng nghề quá
đơn giản. Làng nghề được công nhận phải được xem xét dưới góc độ vai trị
của nghề đó đối với sự phát triển kinh tế của làng với những tiêu chí cụ thể về
số lao động tham gia và tỷ trọng thu nhập từ nghề đó.
Khái niệm thứ ba
Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và
nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, có liên kết trong sản
xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và

nhỏ và có cùng tổ nghề.
Khái niệm này đã khái quát về khía cạnh nghề nghiệp trong cách hiểu
về làng nghề nhưng cái thiếu là chưa phản ảnh được hết tính chất của làng
nghề với vai trị là một thực thể sản xuất kinh doanh có ý nghĩa đối với các
mặt kinh tế, văn hoá, xã hội.
Khái niệm thứ tư
Làng nghề là cụm dân cư sinh sống trong một thơn (làng) có một hay
một số nghề được tách khỏi nông nghiệp để sản xuất, kinh doanh độc lập.
Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng số giá trị sản phẩm
của cả làng.
Khái niệm này mặc dù rất đơn giản về tiêu chí nhưng phản ánh được
tính chất của làng nghề trên góc độ kinh tế. Việc xác định làng nghề chỉ nên


10

dựa chủ yếu vào tiêu chí kinh tế bởi làng nghề thực chất là một mơ hình phát
triển kinh tế đặc thù. Trước đây, làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công
nghiệp, tên làng nghề gắn liền với tên nghề. Nhưng hiện nay, trong xu hướng
lĩnh vực thương mại và dịch vụ đóng vai trị quan trọng đã dẫn tới sự hình
thành các làng nghề hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Qua một
số khái niệm nói trên, có thể thấy rằng:
Làng nghề là một khơng gian kinh tế nhất định, được cấu thành bởi hai
yếu tố làng và nghề, chủ yếu liên quan tới các nghề thủ cơng và một số dịch
vụ, trong đó lao động và thu nhập từ nghề này chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Làng nghề có thể được xem xét dưới nhiều góc độ, với nhiều cách hiểu
khác nhau và cũng phù hợp với sự phát triển hiện nay. Do đó, để làm rõ khái
niệm về làng nghề, Thông tư số 116/2006/TT - BNN của Bộ NN và PTNT,
ngày 18/12/2006 đã đưa ra những tiêu chí cụ thể sau:
- Số hộ làm nghề đó chiếm từ 25%

- Thu nhập từ nghề đó chiếm trên 50%
- Giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của làng.
- Thời gian phát triển ổn định từ 2 năm trở lên.
 Khái niệm kinh tế làng nghề
Với cách tiếp cận làng nghề trên đây, có thể hiểu kinh tế làng nghề là
một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yêu tố làng
và nghề, tồn tại trong một khơng gian địa lí nhất định trong đó bao gồm nhiều
hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ cơng là chính, giữa họ có mối liên kết
chặt chẽ về kinh tế - xã hội và văn hóa ...
Hoặc có thể diễn đạt một cách ngắn gọn: Kinh tế làng nghề là hình thức
tổ chức kinh tế bao gồm phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong các ngành nghề ở một làng nghề.
Khái niệm này chỉ ra rằng, kinh tế làng nghề là một bộ phận kinh tế
không thể tách rời trong cơ cấu kinh tế của địa phương, tồn tại trong một


11
không gian nhất định, chịu sự quản lý, điều tiết của chính quyền và các cơ
quan chức năng quản lý về mặt nhà nước của địa phương đối với các hoạt
động sản xuất kinh doanh và dịch vụ trên địa bàn. Theo đó mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trên địa bàn đều phái có nghĩa vụ và
trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật và trách
nhiệm với cộng đồng.
-

Là một thực thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường, làng nghề bao

gồm cơ cấu các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế hộ gia đình và các tổ hợp
tác xã chiếm đại bộ phận, là lực lượng chù yếu trong sản xuất, kinh doanh và
dịch vụ trong các làng nghề. Giữa các hộ gia đình, các tổ hợp tác xã sản xuất

kinh doanh, dịch vụ có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế, văn hóa và xã hội,
được hình thành qua nhiều năm, nhiều đời mang tính kế thừa và truyền thống.
-

Là một hình thức tổ chức kinh tế nên kinh tế làng nghề bao gồm nhiều

mơ hình sản xuất kinh doanh khác nhau: Hộ gia đình; Tổ sản xuất; Hợp tác
xã; Cơng ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cồ phần.
Hộ gia đình: Là mơ hình sản xuất truyền thống chiếm hơn 90% các mơ
hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề hiện nay. Xét về mặt
đặc điểm, hộ gia đình là mơ hình sản xuất đặc biệt trong đó lao động là các
thành viên trong gia đình, chỉ khi thời vụ hoặc khi chạy hàng thì có thể thuê
thêm lao động. Mọi thành viên trong gia đình đều có thể tham gia, tùy theo độ
tuổi, trình độ tay nghề để làm công việc phù hợp nhưng bao giờ cũng có ít
nhất 1 hoặc 2 người chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật, quản lý, điều hành,
giao dịch...Vì vậy, mơ hình sàn xuất hộ gia đình là quy mô nhỏ.
Tổ sản xuất: Xuất hiện do các chủ thể kinh tế độc lập liên kết lại nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế, thịa mãn lợi ích kinh tế chung. Các đơn vị kinh tế
độc lập mà chủ yếu là hộ gia đình đăng ký hợp đồng sản xuất lớn mà không
thể đảm nhiệm được do hạn chế về vốn, lao động, thời gian thanh lý hợp
đồng. Từ thực trạng này đã dẫn đến sự liên kết, hợp tác giữa các hộ gia đình


12
để cùng sản xuất, cùng chia sẻ những khó khăn và lợi ích giữa các bên. Thơng
thường sự hợp tác này được thông qua thỏa thuận bằng hợp đồng miệng giữa
các gia đình.
Hợp tác xã: Trước giai đoạn đổi mới, các hợp tác xã thủ cơng nghiệp
là mơ hình sản xuất quan trọng nhất trong các làng nghề. Các hợp tác xã thủ
cơng nghiệp có cơ sở vật chất đầy đủ như nhà xưởng, kho chứa sản phẩm,

nguyên liệu, văn phòng, cửa hàng... được thực hiện dựa trên nguyên tắc
phân phối theo lao động bằng cách chấm công, điểm. Sau những năm 80 của
thế kỷ XX cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ những hạn chế, bất
cập, xã viên khơng cịn động lực kinh tế, các hợp tác xã sản xuất trì trệ, trờ
thành nhân tố kìm hãm sự phát triển làng nghề. Ra khỏi hợp tác xã, xã viên
trở thành người tự chủ trong sản xuất kinh doanh trong mơ hình sản xuất hộ
gia đình.
Cơng ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần.
Đây là hình thức mới xuất hiện ở các làng nghề và phát triển sau khi luật
doanh nghiệp ra đời. Được xuất hiện từ các chủ thể kinh tế có vốn đầu tư dồi
dào và năng động trong cơ chế thị trường. Mặc dù mới xuất hiện và chiếm tỷ
trọng nhỏ nhưng các mơ hình kinh tế này đã khẳng định được vai trị của
mình trong xu thế hội nhập của các làng nghề.
Tồn tại dưới các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đa
dạng, kinh tế làng nghề chịu sự tác động trực tiếp của các quan hệ thị trường,
thị trường chi phối và tác động trực tiếp đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của
sản phẩm, theo các quan hệ cung cầu, quan hệ cạnh tranh, các quan hệ giá trị,
giá cả và cơ chế điều tiết của thị trường....
Sự phát triển cùa kinh tế làng nghề dựa vào tính năng động tích cực của
các chủ thể sản xuất kinh doanh, đồng thời không thể tách rời sự trợ giúp của
nhà nước bằng các chính sách kinh tế, xã hội tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi cho các chủ thể sản xuất kinh doanh trên địa bàn.


13
1.1.2. Đặc điểm kinh tế làng nghề
Làng nghề Việt Nam có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Làng nghề Việt Nam đa dạng về cơ cấu ngành hàng và
chủng loại mặt hàng. Đặc điểm này xuất phát từ chính cơ sở hình thành ban
đầu của làng nghề là khai thác lợi thế tại chỗ và phục vụ nhu cầu dân cư trong

vùng. Ngoài ra, trong bối cảnh nền sản xuất nhỏ, nặng về tự cung tự cấp nên
làng nghề là nguồn cung cấp nhiều loại hàng hoá thiết yếu cho dân cư trong
nhiều thế kỷ. Do đó, cơ cấu mặt hàng của làng nghề Việt Nam rất đa dạng,
phong phú. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn, tính
đến 31-12-2016 số làng nghề và làng có nghề ở nước ta là 5.096 làng nghề,
sản xuất ra hàng trăm nghìn chủng loại sản phẩm.
Trong điều kiện phát triển kinh tế, tăng cường hội nhập quốc tế và nhất
là trong xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làng nghề có cơ hội mở rộng
ngành hàng, lĩnh vực mới. Hiện nay, làng nghề khơng chỉ cịn bó gọn trong
một số ngành hàng tiểu thủ công nghiệp được cha ông để lại mà mở thêm
nhiều lĩnh vực mới như cơng nghiệp, thương mại, dịch vụ… Ví dụ, ở Bắc
Ninh các làng nghề đã có nhiều mặt hàng mới, tỷ trọng các ngành cơ khí, vật
liệu xây dựng, thực phẩm tăng rõ rệt so với trước đây.
Thứ hai: Làng nghề thường gắn với nông nghiệp, nông thôn. Nông
thôn là nguồn cung cấp nguyên liệu, lao động và thị trường tiêu thụ chủ yếu
cho các sản phẩm làng nghề. Các làng nghề nông sản, thực phẩm, thủ công
mỹ nghệ (TCMN)… lấy nguyên liệu chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp.
Điều đó thể hiện rõ sự phân bố làng nghề ở Việt Nam thường gắn với vùng
nguyên liệu, như Nga Sơn (Thanh Hố), Kim Sơn (Ninh Bình) nổi tiếng về
các làng nghề chiếu cói là nhờ có vùng nguyên liệu cói.
Về nhân lực, làng nghề phụ thuộc hoàn toàn vào lao động nơng nghiệp.
Hiện có 100% lao động làng nghề xuất thân từ nơng thơn với hình thức làm
việc bán thời gian là chủ yếu. Thu hút lao động nông nhàn là thế mạnh (cho


14
phép giảm chi phí tối đa) và cũng là điểm chủ yếu của làng nghề, bởi vậy khi
nhận được đơn hàng vào dịp nơng vụ, các làng nghề khơng có đủ lao động để
đáp ứng tiến độ giao hàng. Sản phẩm làng nghề được tiêu thụ chủ yếu ở thị
trường nông thôn và khách hàng chủ yếu là người làm nơng nghiệp. Đa số

làng nghề có đích nhắm tiêu thụ sản phẩm là thị trường trong vùng. Điều này
có thể thấy rất rõ ở đa số ngành hàng từ chế biến thực phẩm đến cơ khí…
Thứ ba: Quy mơ sản xuất ở các làng nghề hiện còn nhỏ bé, thể hiện
ở quy mô sử dụng lao động, doanh thu… Việt Nam có khoảng 11 triệu người
thuộc hơn 1,4 triệu hộ gia đình làm việc ở các làng nghề. Trong đó, mơ hình
tổ chức gia đình là chủ yếu. Các hình thức tổ chức sản xuất HTX, tổ hợp,
doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần không đáng kể. Quy
mơ nhỏ của sản xuất làng nghề cịn thể hiện ở tiêu chí vốn. Điều tra của Bộ
NN & PTNT cho thấy vốn sản xuất bình quân mỗi hộ gia đình làm nghề là
25,73 triệu đồng (Theo kết quả hội thảo tổ chức bởi Trung tâm Kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương - VAPEC năm 2007 : “Doanh nghiệp, làng nghề với
quá trình hội nhập, cơ hội, thách thức và giải pháp”.
Trung bình mỗi cơ sở sản xuất làng nghề chỉ có 5 - 6 lao động. Tương
ứng với quy mô sử dụng lao động là doanh thu thấp. Quy mơ sản xuất nhỏ có
thể thấy qua con số đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu của làng nghề. Năm
2016, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm của làng nghề đạt khoảng 593 triệu
USD. Đến năm 2020, dự kiến con số này lên tới 850 triệu USD nhưng nhìn
chung năng lực sản xuất làng nghề cịn hạn chế.
Thứ tư: Đa dạng mơ hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Làng nghề có
nhiều mơ hình tổ chức sản xuất bởi đặc thù tận dụng tối đa thời gian nhàn rỗi
của dân cư nơng thơn. Hình thức hộ gia đình chiếm đa số với tỷ lệ lên tới 80 90%, có nơi gần 100%. Các mơ hình sản xuất theo kiểu Doanh nghiệp cịn ít,
mơ hình cơng ty cổ phần mới có ở Hà Nội, Bắc Ninh… và số lượng rất nhỏ.
Thứ năm: Trình độ sản xuất thủ cơng là chủ yếu. Trình độ sản xuất


15
thấp của làng nghề chính là một lý do mà khu vực này được xếp vào sản
xuất tiểu thủ công nghiệp. Công cụ sản xuất chủ yếu là công cụ thủ cơng,
nếu có máy móc cũng là loại lạc hậu với tuổi thọ trung bình là 20 - 30 năm.
Gần đây để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, làng nghề đã có chuyển biến lớn

về đầu tư các thiết bị mới, hiện đại cho sản xuất. Song đầu tư chưa đồng bộ,
sự thay đổi này không tạo đột biến về cơng nghệ. Do đó, bản chất sản xuất
làng nghề vẫn là thủ cơng kết hợp một phần máy móc, chưa mang tính chất
dây chuyền cơng nghiệp.
Thứ sáu: Tiêu thụ hàng hố trung gian. Nhìn chung, hàng hố làng
nghề chủ yếu tiêu thụ tại thị trường nội địa, thông qua các chợ địa phương,
các đại lý nhỏ. Tiêu thụ hàng hố làng nghề gặp nhiều khó khăn. Làng nghề
chưa có hệ thống tiêu thụ sản phẩm, chủ yếu dựa vào tư thương. Do đó, nhiều
làng nghề khơng có thị trường tiêu thụ ổn định. Xuất khẩu thấp không xứng
đáng với tiềm năng và hầu hết phải thông qua trung gian.
1.1.3. Vai trị của kinh tế làng nghề
Thứ nhất, Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Đánh giá này có thể được nhìn nhận trên bình diện quốc gia và địa
phương. Hiện nay giá trị sản xuất của các làng nghề chiếm 9% GDP của cả
nước. Theo số liệu thống kê, làng nghề đã khẳng định vị trí chủ lực ở nhiều
tỉnh. Năm 2016, giá trị sản xuất của các làng nghề Hà Nội đã đạt khoảng
7.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp tồn thành phố. Trong đó, riêng với gần 300 làng nghề đã được
công nhận là làng nghề truyền thống (tính đến hết năm 2016) đã đạt giá trị sản
xuất hơn 4.700 tỷ đồng.
Thứ hai, thu hút đầu tư nước ngồi và cung cấp nguồn hàng xuất khẩu
chủ lực.
Khơng chỉ đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, làng nghề cịn
được nhìn nhận với ý nghĩa là lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt với


16
những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn như nơng sản, TCMN, gốm sứ…
Hiện chưa có thống kê về đầu tư nước ngoài vào làng nghề nhưng theo các
chuyên gia, nguồn vốn này không nhỏ và thường được thực hiện dưới hình

thức khơng chính thức. Đa số đầu tư nước ngồi được thực hiện thơng qua họ
hàng, mối quan hệ kinh doanh…
Hoạt động xuất khẩu của làng nghề bắt đầu khá sớm, từ thời nhà Lý với
các sản phẩm như đồ gốm, gỗ, nội thất, mây tre đan, giấy, lụa, bạc… Hàng
hoá được giao tại cảng Vân Đồn, Vân Ninh và sau này là Phố Hiến, Hội An,
Phan Thiết, Bến Nghé, Nhà Rồng… Sau khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt
Nam đã trở thành thị trường tiêu thụ hàng hoá của Pháp nên đã hạn chế phát
triển làng nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên, các mặt hàng công nghiệp
nhập khẩu từ Pháp không thể làm mất đi các nghề thủ cơng, vì nhu cầu tiêu
thụ hàng hố khá lớn, với ưu thế giá rẻ. Ngày nay, sản phẩm làng nghề Việt
Nam tiếp tục xuất khẩu đi nhiều nước. Theo Bộ NN&PTNT, hiện có 40% sản
phẩm làng nghề được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Một số sản phẩm làng
nghề có tiếng trên Thế giới như đũi Nam Cao (Thái Bình), lụa Vạn Phúc (Hà
Nội), khảm trai Đơng Giao (Hải Dương), gỗ Đồng Kỵ (Bắc Ninh). Xuất khẩu
của làng nghề có tiếm năng lớn và tăng trưởng cao. Trong 5 năm (2010 2015), hàng TCMN do làng nghề sản xuất trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi
nhọn, tăng trưởng bình qn 19%/năm. Nếu tính cả gỗ mỹ nghệ vào nhóm
hàng làng nghề, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này còn lớn hơn rất nhiều.
Thực tế, gỗ mỹ nghệ chủ yếu được sản xuất bởi các làng nghề nhưng hiện tại
vẫn được tính vào nhóm hàng đồ gỗ.
Tại các địa phương, làng nghề cũng đóng vai trị quan trọng trong kim
ngạch xuất khẩu. Tỉnh Nam Định, mỗi năm, làng nghề đem về 30 triệu USD
kim ngạch xuất khẩu. Tỉnh Hà Tây cũ, xuất khẩu làng nghề đóng góp tới 40%
kim ngạch toàn tỉnh. Tỉnh Bắc Ninh, sản phẩm làng nghề là nguồn hàng xuất
khẩu quan trọng với kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ 1.200 - 1.500 tỷ đồng.
Một số ví dụ cụ thể về xuất khẩu của các làng nghề: Thêu ren Minh Lãng


17
(Thái Bình) mỗi năm xuất khẩu trên 2 triệu USD, chạm bạc Đồng Sâm (Thái
Bình) xuất khẩu gần 1 triệu USD/ năm, xuất khẩu của làng nghề gỗ mỹ nghệ

Đông Giao (Hải Dương) đạt 3 triệu USD, làng nghề dệt La Phù xuất khẩu
90% sản lượng.
Thứ ba, tạo việc làm và thu nhập đáng kể cho người dân.
Theo số liệu của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, với hơn 2000 làng
nghề, khu vực kinh tế này thu hút 11 triệu lao động thường xuyên và 4 triệu
lao động thời vụ, chiếm 30% lực lượng lao động cả nước với 1,4 triệu hộ gia
đình tham gia sản xuất. Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, cứ xuất khẩu
được 1 triệu USD, các làng nghề tạo việc làm cho 3.000 - 4.000 lao động
thường xuyên. Theo Bộ công thương, hiện cả nước có khoảng hơn 100 nghề
thủ cơng có thu nhập bình quân cao gấp 3 - 4 lần so với làm nông nghiệp.
Hiện tại, một số làng nghề đã thu hút trên 60% tổng số lao động của địa
phương. Ngoài lao động thường xuyên, làng nghề còn thu hút nhiều động thời
vụ. Trung bình mỗi hộ sản xuất có thể thu hút 5 lao động thường xuyên và 8 10 lao động thời vụ. Các làng nghề chế biến nông sản thu hút số lao động thời
vụ thường gấp 4 - 7 lần số lao động thường xuyên. Làng nghề phát triển còn
tạo điều kiện cho nhiều nghề khác, nhất là dịch vụ liên quan phát triển, tạo
thêm việc làm. Ở một số làng nghề, lao động gián tiếp có thể bằng 1/4 lao
động trực tiếp. Làng gỗ Mỹ nghệ Đông Giao (Hải Dương), lao động gián tiếp
bằng 20% lao động trực tiếp, làng gốm Bát Tràng lao động gián tiếp là 25%.
Khả năng tạo việc làm và tăng thu nhập của làng nghề sẽ phát huy tích
cực hơn thơng qua việc phát triển sản xuất làng nghề lên mơ hình doanh
nghiệp. Mơ hình doanh nghiệp có khả năng tạo việc làm lớn hơn trong trung
và dài hạn. Trung bình, một doanh nghiệp làng nghề có khả năng thu nhận số
lao động gấp 5 - 10 lần so với một gia đình.
Với chương trình “Mỗi làng một nghề”, làng nghề sẽ cịn đóng vai trị
quan trọng hơn đối với tạo việc làm và tăng thu nhập cho khu vực nông thôn.
Chương trình này được Bộ NN & PTNT triển khai và kết thúc vào năm 2010


18
nhằm nâng mức tăng trưởng bình quân của làng ngành nghề nông thôn ổn

định và đạt 15%/năm; tạo thêm việc làm cho trên 300.000 lao động thường
xuyên mỗi năm. Ở địa phương, vai trò tạo việc làm của làng nghề cũng rất
lớn. Ngay Hà Nội, sau khi mở rộng địa giới hành chính, thủ đơ Hà Nội hiện là
địa phương có nhiều làng nghề nhất cả nước, với khoảng 1.350 làng có nghề,
trong đó có 272 làng được cơng nhận là làng nghề, 198 làng nghề truyền
thống, thu hút hàng trăm nghìn lao động. Mục tiêu của Hà Nội là quy hoạch
phát triển, tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động ở làng nghề
lên gấp đôi vào năm 2020. Như vậy, thu nhập của người lao động ở các ngành
nghề phi nông nghiệp phổ biến khoảng 600.000 - 2.000.000đồng/người/tháng,
cao hơn nhiều so với làm ruộng. Đặc biệt phát triển làng nghề cịn có một ý
nghĩa rất to lớn là tận dụng lao động già, khuyết tật, trẻ em mà các khu vực
kinh tế khác không nhận. Các làng nghề đã góp phần quan trọng vào phát triển
thị trường lao động ở nông thôn. Hiện tại ở nhiều làng nghề, số lao động làm
thuê tại các cơ sở nghề đang tăng lên nhanh chóng. Số lao động làm thuê tại
các làng nghề không chỉ làm việc trong các lĩnh vực phi nông nghiệp mà cả
trong lĩnh vực nông nghiệp bởi phần lớn các hộ làm nghề đều có ruộng đất, họ
phải thuê lao động canh tác trên ruộng đất của mình. Lao động làm thuê của
các làng nghề khơng chỉ là người của các làng xã đó mà chủ yếu là lao động từ
các làng xã khác trong vùng. Những lao động làm thuê trong các cơ sở nghề tại
các làng nghề có thu nhập cao hơn so với thu nhập từ làm ruộng. Mặt khác,
những người lao động này đã học tập được kỹ năng và tích luỹ được kinh
nghiệm sản xuất của nghề, khơng ít trong số họ đã trở về quê mình mở cơ sở
sản xuất làm vệ tinh cho làng nghề hoặc cơ sở sản xuất nghề độc lập.
Thứ tư, đóng góp cho phát triển xã hội và con người.
Đời sống của người dân ở nhiều vùng nông thôn khá lên nhờ khôi phục
và phát triển làng nghề. Nhiều làng nghề đã trở thành điển hình về làm giàu ở
nơng thơn. Nghành nghề nơng thơn đóng vai trị động lực cho chuyển dịch cơ
cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Làng nghề làm tăng



×