Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Khảo sát việc sử dụng phương pháp đàm thoại có hướng dẫn trong các giờ học kỹ năng nói của sinh viên trình độ A1 tại trường Đại học Giao thông vận tải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.74 KB, 11 trang )

Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải

KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÀM THOẠI CÓ HƯỚNG
DẪN TRONG CÁC GIỜ HỌC KỸ NĂNG NĨI CỦA SINH VIÊN TRÌNH
ĐỘ A1 TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI
Đỗ Thị Phương Thúy1*
1

Trường Đại học Giao thông Vận tải, Số 3 Cầu Giấy, Hà Nội
*
Tác giả liên hệ: Email:

Tóm tắt. Tiếng Anh là ngơn ngữ quốc tế được sử dụng để giao tiếp với những người từ
các quốc gia khác nhau đồng thời cũng được coi như một phương tiện dùng trong trao
đổi kiến thức. Một trong những mục tiêu của việc giảng dạy ngoại ngữ tại Trường Đại
học Giao thông vận tải là giúp sinh viên nâng cao năng lực giao tiếp hoặc kỹ năng nói
của mình. Nghiên cứu này được thực hiện để khảo sát những khó khăn của sinh viên
thuộc trình độ A1 trong việc học kỹ năng nói và cách sử dụng phương pháp đàm thoại
có hướng dẫn được đưa ra trong giáo trình Speak Out của họ. Hai lớp sinh viên năm thứ
nhất thuộc lớp tiếng Anh A1 của Trường Đại học Giao thông vận tải đã tham gia vào
khảo sát này, trong đó bảng hỏi và phỏng vấn là hai phương pháp được sử dụng để thu
thập dữ liệu cho nghiên cứu. Kết quả cho thấy hầu hết sinh viên gặp khó khăn khi nói
tiếng Anh vì một số yếu tố như phát âm, thiếu vốn từ vựng, nhút nhát và thiếu tự tin.
Sau khi sử dụng phương pháp đàm thoại có hướng dẫn, các phản hồi của học sinh cho
thấy kỹ năng nói của các em đã được cải thiện vì các em đã quen hơn với việc sử dụng
tiếng Anh trong giao tiếp thực tế.
Từ khóa: phương pháp đàm thoại có hướng dẫn, kỹ năng nói.
4. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, tiếng Anh đã trở thành một ngơn ngữ phổ biến trên tồn thế giới. Nhiều quốc


gia sử dụng tiếng Anh là ngơn ngữ chính hoặc ngơn ngữ thứ hai để giao tiếp và trao đổi
thông tin. Vì vậy, tiếng Anh đã trở thành ngoại ngữ đầu tiên được đưa vào giảng dạy và
là môn học bắt buộc trong Chương trình Giáo dục Việt Nam. Có bốn kỹ năng mà học
sinh cần nắm vững khi học tiếng Anh là nghe, nói, đọc, viết. Theo Khameis (2006:
111), bốn kỹ năng (đọc, viết, nói và nghe) xuất hiện cùng nhau một cách tự nhiên trong
mọi lớp học tiếng Anh. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, để trở thành người giao tiếp
tốt người học cần phải giỏi cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Những kỹ năng đó rất
quan trọng vì mỗi kỹ năng đều có liên quan đến nhau. Tuy nhiên, giữa bốn kỹ năng đó,
nói dường như là một trong số những kỹ năng quan trọng nhất cần phải thành thạo bởi
vì nó được xem là đầu ra của việc học ngôn ngữ. Tuy nhiên, chương trình giáo dục
-881-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải

tiếng Anh chỉ tập trung vào ngữ pháp và từ vựng, học sinh khơng có cơ hội thực hành
kỹ năng nói ở giai đoạn đầu. Kết quả là, người học gặp nhiều khó khăn trong việc nói
tiếng Anh, và sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Giao thông vận tải cũng không
phải là ngoại lệ. Trong việc dạy và học kỹ năng nói, các đoạn hội thoại mẫu được coi là
những hướng dẫn hữu ích và rõ ràng để học sinh luyện nói tiếng Anh trong các tình
huống thực tế. Do đó, nhà nghiên cứu cho rằng cần phải tìm ra những khó khăn của
sinh viên và giúp các em tự tin hơn trong các lớp học nói thơng qua phương pháp đàm
thoại có hướng dẫn. Hai vấn đề được nghiên cứu trong đề tài này: Sinh viên gặp khó
khăn gì trong việc học kỹ năng nói tiếng Anh, Sinh viên có sử dụng đàm thoại có hướng
dẫn để luyện kỹ năng nói khơng. Nếu có, ý kiến của họ về việc sử dụng phương pháp
đó là gì.
5. NỘI DUNG
5.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Trong nghiên cứu về cải thiện kỹ năng tiếng Anh, Richard (2007) nhận định
rằng, tiếng Anh là ngôn ngữ của toàn cầu, được sử dụng trong giao tiếp quốc tế, thương
mại và truyền thơng, văn hóa đại chúng. Do đó, việc học tiếng Anh trở nên cực kỳ quan
trọng vì ngôn ngữ này được sử dụng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Trong việc học
nói tiếng Anh, sinh viên phải nắm vững các yếu tố cấu thành Tiếng Anh bao gồm: hiểu,
ngữ pháp, từ vựng, phát âm và sự trôi chảy.
Richard và Renandya (2002) đã nghiên cứu các phương pháp nói tiếng Anh, bao
gồm cả việc áp dụng các cuộc hội thoại có hướng dẫn. Theo nghiên cứu này, một cuộc
trị chuyện có hướng dẫn được đưa ra vào cuối bài học nhằm ôn lại kiến thức, khám phá
phản ứng của chúng ta với nó, và xác định cách chúng ta sẽ áp dụng nó vào tình huống
của chính mình. Cuộc trị chuyện đưa người học vào một cuộc hành trình từ góc nhìn
tồn cảnh đến chi tiết - từ tình huống đến phương pháp giải quyết. Trong đó, họ có cơ
hội chia sẻ và trình bày quan điểm của mình mà khơng bị phán xét.
Trong nghiên cứu của Schneider về việc tìm ra các phương pháp nói hiệu quả, ông cũng
chỉ ra những sinh viên đã chọn phương pháp ghép cặp nhận xét rằng khả năng nói tiếng
Anh của họ cải thiện hơn. Đồng thời, người học cảm thấy có động lực và tự tin hơn khi
nói tiếng Anh. Với họ giao tiếp bằng tiếng Anh đã trở nên thích thú và thư giãn hơn
nhiều. Theo Schneider, một phương pháp hiệu quả để tăng động lực và thành tích của
học sinh là để họ luyện tập sự trơi chảy bằng cách ghi âm khi nói theo cặp. Ghép cặp
cũng được coi là một phương pháp không thể thiếu trong giảng dạy.
Theo Herlina Herlina và Muhammad Holandiyah (2015) dạy kỹ năng nói bằng cách sử
dụng kỹ thuật hội thoại có hướng dẫn có thể cải thiện thành tích nói của học sinh, điều
này có thể thấy được khi sinh viên đã nói trong lớp. Các học viên ln sử dụng tiếng
Anh trong lớp hội thoại của họ. Điều đó có nghĩa là học sinh có thể áp dụng cuộc trò
-882-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải


chuyện với những người khác trong cuộc sống hàng ngày, và sau đó học sinh hứng thú
và vui vẻ trong việc học kỹ năng nói. Mục tiêu của dạy kỹ năng nói thể hiện ở hiệu quả
giao tiếp. Người học có thể hiểu rõ bản thân bằng cách sử dụng tối đa trình độ hiện tại
của họ. Họ nên cố gắng tránh nhầm lẫn trong truyền tải thông điệp do lỗi phát âm, ngữ
pháp hoặc từ vựng và tuân thủ các quy tắc xã hội và văn hóa áp dụng trong mỗi tình
huống giao tiếp.
Tóm lại, từ kết luận của các nghiên cứu đi trước cho thấy sinh viên gặp phải rất nhiều
khó khăn trong việc học kỹ năng nói tiếng Anh, và phương pháp đàm thoại có hướng
dẫn cũng đã được đưa ra trong nhiều lớp học ngoại ngữ. Tuy nhiên đề tài này vẫn cần
được khảo sát và nghiên cứu nhiều hơn trong môi trường học ngoại ngữ của sinh viên
không chuyên tại trường Đại học Giao thơng vận tải. Từ đó góp phần đề ra chiến lược,
cách thức hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giao tiếp của sinh viên trình độ A1 khi sử
dụng giáo trình Speak out – Starter.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
Bảng câu hỏi khảo sát được thực hiện nhằm thu thập ý kiến của 50 sinh viên thuộc
hai lớp tiếng anh A1 thuộc trường Đại học Giao thông vận tải. Cuộc khảo sát được thực
hiện trong vòng bốn tuần. Sau đó, bốn sinh viên trong số 50 người tham gia được chọn
ngẫu nhiên để tham gia phỏng vấn. Kỹ thuật phân tích và thống kê cũng được sử dụng
để giúp giải quyết các bảng câu hỏi và phân tích những khó khăn mà học sinh gặp phải
khi học kỹ năng nói. Khi việc thu thập dữ liệu được hồn thành, việc phân tích dữ liệu
sẽ được xử lý.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp mô tả được sử dụng trong nghiên cứu để mơ tả tình hình học tập kỹ
năng nói của sinh viên năm thứ nhất thuộc lớp tiếng Anh A1 Đại học Giao thơng vận
tải. Bên cạnh đó, do bảng câu hỏi khảo sát cũng được sử dụng trong nghiên cứu nên
phương pháp phỏng vấn được áp dụng như một phương pháp hỗ trợ. Kỹ thuật phân tích
và thống kê cũng được sử dụng để giúp giải quyết các bảng câu hỏi và phân tích những
khó khăn mà học sinh gặp phải khi học kỹ năng nói. Phỏng vấn nhóm kéo dài khoảng
45 phút được tiến hành ở tuần thứ 6 của cuộc nghiên cứu, sau đó phỏng vấn với từng cá

nhân kéo dài khoảng 20 phút và được thực hiện ở tuần thứ 8. Các ghi chú, băng ghi âm
và biên bản đều được lưu lại.
5.4. Kết quả nghiên cứu
Dữ liệu thu thập từ bảng câu hỏi và phỏng vấn sẽ được trình bày và phân tích theo thứ
tự của hai câu hỏi nghiên cứu và được trình bày như sau:
5.4.1.
Khó khăn của sinh viên trong việc học kỹ năng nói tiếng Anh
Có 50 sinh viên tham gia nghiên cứu khảo sát này (35 sinh viên nữ và 15 sinh viên
nam). Dữ liệu thu thập từ bảng câu hỏi được trình bày như sau:
-883-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thơng vận tải

Bảng 1: Những khó khăn trong việc học kỹ năng nói tiếng Anh
STT
Khó khăn
Số lượng
Phần trăm (%)
1
Phát âm
16
32
2
Từ vựng
9
18
3

Ngữ pháp
4
8
4
Sự tự tin
21
42
Câu hỏi đầu tiên của bảng câu hỏi khảo sát nhằm mục đích phân nhóm các sinh viên
dựa trên những khó khăn của họ trong việc học kỹ năng nói tiếng Anh để quyết định họ
phải trả lời câu hỏi nào tiếp theo. Khi sinh viên được hỏi những khó khăn của họ trong
việc học kỹ năng nói tiếng Anh, kết quả chỉ ra rằng phần lớn sinh viên coi sự tự tin là
khía cạnh khó khăn nhất khi họ nói tiếng Anh. Con số này chiếm 42% trong khi cấu
trúc ngữ pháp chỉ chiếm 8% tổng số câu trả lời của học sinh. Đáng chú ý là 16 trong số
50 học sinh (32%) có vấn đề về phát âm được coi là trở ngại của họ trong kỹ năng nói.
Bên cạnh đó, học sinh gặp khó khăn trong việc ghi nhớ các từ vựng và thuật ngữ tiếng
Anh. Kết quả cũng chỉ ra rằng lý do khiến người học gặp khó khăn trong giao tiếp bằng
lời nói là do họ thiếu vốn từ vựng. Khá nhiều sinh viên (18%) cho biết rằng họ có rất
lượng từ vựng hạn chế. Đáng ngạc nhiên đó là, khó khăn về ngữ pháp dường như là vấn
đề ít phổ biến nhất mà người tham gia báo cáo, chỉ 8% trong số họ đề cập đến trở ngại
đó. Tuy nhiên, vấn đề thường gặp nhất trong kỹ năng nói là sự thiếu tự tin của học sinh.
Các sinh viên nói rằng họ gặp khó khăn trong việc nói tiếng Anh vì nhiều lý do. Điều
này được chứng minh bằng dữ liệu thu được từ phản hồi của sinh viên trong các cuộc
phỏng vấn. Đây là một số câu trả lời của sinh viên:
- “Trong khi nói tiếng Anh, em thấy phát âm là khó nhất”. (Sinh viên C)
- “Em sợ mắc lỗi nên khơng tự tin khi nói tiếng Anh". (Sinh viên B)
- "Nhấn trọng âm trong câu một trong những thách thức lớn nhất trong việc học nói
tiếng Anh". (Sinh viên D)
- "Em khơng có mơi trường tốt để luyện nói tiếng Anh". (Sinh viên C)
- "Kiến thức ngữ pháp tiếng Anh của em khơng đủ để nói tiếng Anh". (Sinh viên B)
Bảng 2: Lượng thời gian sinh viên luyện tập nói tiếng Anh mỗi ngày

STT
1
2
3
4

Thời lượng
Ít hơn 15 phút
Nhiều hơn 15 phút
Nhiều hơn 30 phút
Nhiều hơn 1 tiếng

Số lượng
26
12
7
5

Phần trăm (%)
52
24
14
10

Từ bảng 2, ta thấy rằng lượng thời gian học sinh dành cho việc luyện nói tiếng Anh mỗi
ngày, được chia thành bốn loại. Đa số người tham gia (52%) dành ít hơn 15 phút để nói
-884-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII


Trường Đại học Giao thông vận tải

tiếng Anh mỗi ngày, 24% người tham gia trả lời rằng họ luyện nói hơn 15 phút mỗi
ngày. Tuy nhiên, chỉ có 14% người tham gia dành hơn 30 phút mỗi ngày để nói tiếng
Anh, và 10% trong số họ dành hơn một giờ để luyện tập kỹ năng này mỗi ngày. Nói đơi
khi được coi là kỹ năng khó nhất trong bốn kỹ năng ngơn ngữ đối với người học. Một
sinh viên trong nhóm phỏng vấn bày tỏ rằng: “Nếu bạn nói chuyện với bản thân bất cứ
khi nào bạn ở nhà (hoặc một mình ở nơi khác) bạn có thể cải thiện khả năng nói tiếng
Anh. Nếu bạn đang suy nghĩ bằng tiếng Anh, hãy cố gắng nói to suy nghĩ của bạn, đọc
to thành tiếng. Luôn thực hành, và ngay cả khi bạn khơng có ai để sửa lỗi cho mình, chỉ
cần hành động nói thành tiếng cũng có thể giúp bạn tự tin hơn trong việc nói tiếng Anh
”.
Dựa vào bảng trên, ta có thể thấy rằng 64% học viên chưa đủ tự tin để giao tiếp với
người nước ngoài. Một số học sinh nắm rất vững ngữ pháp tiếng Anh, thậm chí đạt
điểm cao trong các kỳ thi, nhưng kỹ năng giao tiếp của họ kém và quá nhút nhát để bắt
chuyện. Trong cuộc phỏng vấn, sinh viên D nói: “Em ln cố gắng dịch những suy nghĩ
của mình, và em rất chậm”, hoặc “Em do dự quá nhiều để tìm từ phù hợp, và emậm ừ
quá nhiều”. Đáng chú ý, 16% sinh viên nói rằng họ cảm thấy khá tự tin khi nói tiếng
Anh với người nước ngồi. Ngồi ra, 6 trong số 50 sinh viên (12%) nói rằng họ cảm
thấy tự tin khi nói tiếng Anh với người bản xứ. Và chỉ 8% sinh viên cảm thấy rất tự tin
khi giao tiếp với người nước ngoài bằng tiếng Anh. Điều này được một người học mô tả
tốt nhất trong cuộc phỏng vấn nhóm đầu tiên: “Bạn càng luyện tập nhiều, bạn sẽ càng tự
tin vào khả năng nói tiếng Anh của mình. Cách tuyệt vời để thực hành tiếng Anh là kết
bạn với những người chỉ nói tiếng Anh”.
Bảng 3: Mức độ tự tin của sinh viên khi nói tiếng Anh với người nước ngoài
STT
1
2
3

4
5.4.2.
STT
1
2

Mức độ tự tin
Rất tự tin
Tự tin
Khá tự tin
Không tự tin

Số lượng
4
6
8
32

Phần trăm
8
(%)
12
16
64

Sử dụng hội thoại có hướng dẫn để luyện kỹ năng nói
Bảng 4: Áp dụng phương pháp đàm thoại có hướng dẫn
Áp dụng PP đàm thoại có hướng
Có áp
dẫndụng

Khơng áp dụng

Số lượng
19
31

Phần trăm (%)
36
62

-885-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải

Từ dữ liệu trong bảng 4, có thể thấy rằng 36% người tham gia khơng áp dụng hội thoại
có hướng dẫn trong các bài học nói tiếng Anh và 62% trong số họ áp dụng hội thoại có
hướng dẫn trong bài học của họ.
Các sinh viên được chọn trong cuộc phỏng vấn tin rằng thực hành là cách tiếp cận hoàn
hảo mà người học phải tuân theo để khắc phục các vấn đề về kỹ năng nói. Sinh viên C
áp dụng các cuộc trị chuyện có hướng dẫn cho rằng anh ta có thể cải thiện kỹ năng nói
của mình sau khi thực hành thường xun. Kết quả phỏng vấn chỉ ra rằng sinh viên gặp
phải các vấn đề như nhút nhát, lo lắng và bối rối, nhưng những tình huống này có thể
được cải thiện nếu họ dành thời gian luyện kỹ năng nói với phương pháp đàm thoại có
hướng dẫn. Sinh viên A cho biết: “Khi luyện tập nhiều đoạn hội thoại hơn, chúng ta sẽ
khắc phục được điểm yếu này”. Đóng vai cũng có khả năng cải thiện giao tiếp, học sinh
khơng cịn bị giới hạn trong kịch bản hoặc văn bản mà họ được cung cấp, thay vào đó
họ có thể tự tạo ra một cuộc đối thoại dựa trên phong cách ngơn ngữ của chính bản

thân. Hơn nữa, có thể thấy rằng, theo bảng 5, hầu hết sinh viên (46%) chỉ thi thoảng áp
dụng hội thoại có hướng dẫn trong các buổi học nói, trong khi đó 28% sinh viên thường
xuyên sử dụng phương pháp này. Lượng học sinh áp dụng phương pháp này trong mỗi
buổi học chỉ chiếm 26%. Mỗi học viên đều có những chiến lược riêng để khắc phục
điểm yếu thông qua giao tiếp với nhau. Sinh viên B trong cuộc phỏng vấn nhóm đã đưa
ra gợi ý: "Chúng ta nên cố gắng nói tiếng Anh bất cứ khi nào chúng ta ngồi cạnh nhau
trong lớp". Việc áp dụng các bài hội thoại có hướng dẫn trong dạy nói có thể mang lại
kết quả tốt trong việc học kỹ năng nói tiếng Anh đồng thời giúp sinh viên có thể vượt
qua nỗi sợ hãi khi giao tiếp.
Bảng 5: Tần suất áp dụng hội thoại có hướng dẫn trong các buổi học nói
STT
1
2
3

Tần suất áp dụng hội thoại có hướng dẫn
Thi thoảng
Thường xuyên
Trong mỗi buổi học

Số lượng
23
14
13

Phần trăm (%)
46
28
26


Từ bảng 6, có thể thấy rằng một số lượng lớn sinh viên cho rằng việc sử dụng
các cuộc hội thoại có hướng dẫn là hữu ích hoặc khá hữu ích. Điều thú vị là 16% người
tham gia tin rằng việc sử dụng các cuộc trị chuyện có hướng dẫn là rất hữu ích. Mặc dù
một số sinh viên (18%) thấy nó khơng hữu ích, nhưng các câu trả lời thu thập được từ
cuộc phỏng vấn cho thấy kết quả tích cực. “Em thích nói tiếng Anh thơng qua các cuộc
trị chuyện có hướng dẫn. Nó thúc đẩy em học tiếng Anh ”(Sinh viên A). Một sinh viên
khác được phỏng vấn cũng nhấn mạnh lợi ích của phương pháp này. “Em nhận ra rằng
các cuộc trị chuyện có hướng dẫn có thể tạo ra những ngữ cảnh để học sinh có thể học
thêm kiến thức và cấu trúc trong khi thực hành nói tiếng Anh”. (Sinh viên C)
-886-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thơng vận tải

Bảng 6: Mức độ hữu ích của hội thoại có hướng dẫn
STT
1
2
3
4

Mức độ hữu ích
Rất hữu ích
Hữu ích
Khá hữu ích
Không hữu ích

Số lượng

8
15
18
9

Phần trăm (%)
16
30
36
18

Theo câu trả lời của sinh viên trong các cuộc phỏng vấn, có thể thấy rằng khả năng nói
của họ được cải thiện về các khía cạnh sau: sự tự tin, sự nhiệt tình và trơi chảy khi họ áp
dụng các cuộc trị chuyện có hướng dẫn. “Tơi cảm thấy thoải mái khi học tiếng Anh
thơng qua các bài hội thoại có hướng dẫn, chúng làm giảm bớt sự chán nản và căng
thẳng của những giờ học nói tiếng Anh”, (Sinh viên A). Các sinh viên cũng nói rằng họ
dần có thêm động lực để luyện nói tiếng Anh nhờ sử dụng phương pháp này.
5.5. Thảo luận
5.5.1.
Khó khăn của sinh viên trong việc học kỹ năng nói tiếng Anh
• Phát âm
Nói khơng chỉ đơn giản là nói ra một chuỗi âm thanh vơ nghĩa. Người ta có thể viết ra
các từ theo cách rất diễn đạt nhưng không thể thực hiện điều đó bằng miệng do vấn đề
phát âm. Hoặc nếu ngay cả những từ được nói ra với cách phát âm rất kém, người nghe
sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc hiểu ý người nói. Trên thực tế, đa số học sinh đều
thích sử dụng dạng từ đơn giản chỉ gồm một âm tiết. Các rào cản đối với quá trình nói
bao gồm bốn yếu tố: Âm điệu, Trọng âm của từ, Trọng âm của câu, Liên kết âm thanh.
Do hệ thống âm thanh của tiếng Anh và tiếng Việt khác nhau rất nhiều, người nói tiếng
Việt có thể gặp vấn đề khá nghiêm trọng với việc phát âm tiếng Anh. Từ thực tế, có thể
thấy sinh viên lớp A1 của trường Đại học Giao thông vận tải cũng gặp rất nhiều khó

khăn khi nhấn trọng âm, cả trọng âm từ và câu. Giống như hầu hết học viên Việt Nam
học tiếng Anh, sinh viên Đại học Giao thông vận tải cũng gặp vấn đề về phát âm. Như
đã trình bày ở trên, người học tiếng Việt thường lược bỏ các phụ âm ở cuối từ. Do đó,
các từ khơng được liên kết với nhau. Khó khăn cuối cùng được trình bày là về ngữ điệu,
đơn giản là vì cao độ có chức năng khác nhau trong tiếng Việt - một ngơn ngữ thanh
điệu. Qua nghiên cứu này có thể thấy rõ rằng mặc dù có rất nhiều khó khăn nảy sinh
trong q trình nói, nhưng một số lượng lớn học sinh sẽ cố gắng nói những từ mà họ
thậm chí khơng biết cách phát âm. Điều này lúc đầu khá khó trong việc làm cho người
khác hiểu, đặc biệt là khi trực tiếp giao tiếp trong bối cảnh không có tiếng Việt. Tuy
nhiên, đây là một dấu hiệu tốt cho thấy học sinh thực sự mong muốn được tham gia học
tập và tìm ra biện pháp giảm thiểu các yếu tố tâm lý khi nói; sợ hãi khi nói.
-887-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thơng vận tải

• Ngữ pháp
Đối với hầu hết các sinh viên, ba năm học tiếng Anh như một môn học bắt buộc là
không đủ để nắm vững nền tảng ngữ pháp. Khơng thể phủ nhận, ngữ pháp đóng một vai
trị rất quan trọng trong việc học ngơn ngữ nói chung, và tiếng Anh nói riêng vì bản
thân ngơn ngữ này bao gồm khá nhiều quy tắc ngữ pháp mà không thể nắm vững nếu
không học tập nghiêm túc. Bên cạnh đó, tiếng Việt và tiếng Anh khác xa nhau về quy
tắc ngữ pháp, trong đó dạng động từ là một trong những đặc điểm nổi bật nhất. Học
sinh bối rối khi có khá nhiều sự thay đổi về dạng từ, dạng động từ, chúng thay đổi theo
thể, thì… và phức tạp hơn là biến đổi mà không thể đoán trước được như ở động từ bất
quy tắc. Học sinh có thể biết nghĩa cũng như cách phát âm của từ gốc, nhưng hồn tồn
khơng biết gì về dạng quá khứ của nó. Điều này có thể gây ra việc ngắt qng khi nói.
• Động lực

Động lực là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự thành công hay
thất bại của người học ngôn ngữ. Nunan (1999) chỉ ra rằng học sinh khơng có động lực
là một trong những yếu tố gây ra khó khăn trong việc học kỹ năng nói. Khơng có động
lực là do thiếu nhận thức về sự tiến bộ, giảng dạy không hứng thú, chán nản, thiếu tài
liệu liên quan, thiếu kiến thức về mục tiêu của chương trình giảng dạy, thiếu phản hồi
thích hợp. Các giáo viên thường thấy rằng rất khó tạo động lực cho học sinh trong việc
học năng lực giao tiếp.
• Mơi trường
Ngun nhân chính khiến sinh viên gặp khó khăn trong giao tiếp là do khơng có mơi
trường hỗ trợ họ nói tiếng Anh thường xun. Mơi trường ở đây có nghĩa là những
người bên ngồi lớp học, những người có thể sẽ cho rằng các sinh viên chỉ muốn thể
hiện khi họ sử dụng tiếng Anh trong các cuộc trò chuyện hàng ngày. Phản hồi mà học
sinh nhận được khiến họ mất tự tin khi cải thiện khả năng nói của mình. Vì các em
khơng muốn bị những người xung quanh từ chối nên các em sử dụng ngơn ngữ mẹ đẻ
của mình trong các cuộc trị chuyện hàng ngày. Điều đó khiến các học viên không thể
giao tiếp tiếng Anh trôi chảy. Dwyer và Murphy (1996) đã liệt kê các yếu tố hình thành
nên những khó khăn của sinh viên trong việc học nói như sau: sợ thất bại trước đám
đông, sợ mắc lỗi, thiếu tự tin, trình độ tiếng Anh thấp và khơng thể bắt kịp với người
bản ngữ, không thành thạo các quy tắc và chuẩn mực của cuộc trò chuyện tiếng Anh,
mất phương hướng,… Kết luận này đã nhận được ủng hộ bởi nhiều học giả khác như
Jones (1999), Cortazzi và Jin (1996).
Tại Việt Nam, nhiều sinh viên Việt Nam gặp phải vấn đề chung là mặc dù đã trải qua
sáu hoặc chín năm học tiếng Anh ở trường nhưng họ khơng thể phát âm chính xác một
câu tiếng Anh và không đủ tự tin để giao tiếp bằng ngôn ngữ này. Một số sinh viên hiểu
-888-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải


rất tốt ngữ pháp tiếng Anh và thậm chí đạt điểm cao trong các kỳ thi, nhưng kỹ năng
giao tiếp của họ rất kém và họ thường quá nhút nhát, thậm chí cố gắng bắt chuyện trước
các bạn cùng lớp. Có thể giải thích rằng học sinh Việt Nam thường nhút nhát, sợ mình
mắc lỗi sẽ bị người khác chê cười nên cố tránh nói tiếng Anh trước mặt người khác.
Sinh viên Việt Nam thường không có mơi trường để giao tiếp. Đó là lý do tại sao kỹ
năng nghe và nói của họ kém và sinh viên trở nên thất vọng vì điều này. Học sinh chủ
yếu học ngữ pháp và được kiểm tra trong các kỳ thi. Đây là một phương pháp giảng dạy
rất thụ động và học sinh không thể phát triển các kỹ năng phản ứng nhanh để sử dụng
khi giao tiếp.
5.5.2.
Sử dụng hội thoại có hướng dẫn để luyện kỹ năng nói
Việc ghép cặp sinh viên thực hành các cuộc hội thoại có hướng dẫn cho phép mỗi người
sửa đổi, cá nhân hóa và mở rộng kiến thức để họ có thể áp dụng bài mẫu trong việc
truyền đạt những suy nghĩ và nhu cầu của riêng mình. Trong giờ học tiếng Anh, giáo
viên nên sử dụng phương pháp ghép đôi để cả lớp có thể làm cùng một nhiệm vụ và
cùng nói theo cặp hoặc nhóm nhỏ cùng một lúc. Áp dụng phương pháp này, giáo viên
có thể gặp khó khăn hơn trong việc quản lý và kiểm soát lớp học, đồng thời, nó cũng có
thể gây mất thời gian và ồn ào trong lớp học. Đôi lúc người học có thể tận dụng cơ hội
này để nói về các chủ đề không liên quan bằng tiếng mẹ đẻ. Kết quả là, các sinh viên
ngại đàm thoại càng khơng có động lực để đàm thoạ. Nhưng không thể phủ nhận,
những lợi ích mà làm việc theo cặp có thể mang lại rất xứng đáng với sự kiên nhẫn và
nỗ lực mà giáo viên phải thực hiện để quản lý lớp học và biến bài học của họ thành
những giờ học hiệu quả. Dần dần, người học quen với phương pháp này và sẽ hứng thú
với nó vì bản thân họ có thể nhận ra những lợi ích mà hoạt động ghép cặp mang lại.
Hầu hết người học đồng ý rằng làm việc theo cặp có thể tối đa hóa thời gian nói của họ
trong lớp. Những hoạt động này cho phép họ bày tỏ và trao đổi ý kiến của riêng mình
với các bạn cùng lớp, giúp những người nói nhút nhát và miễn cưỡng cảm thấy tự tin
hơn và có động lực hơn. Hơn nữa, loại hoạt động này mang đến cho người học cơ hội
luyện tập phản ứng của chính mình trong các nhóm nhỏ hoặc cặp đơi trước khi được

yêu cầu nói trước cả lớp khiến họ cảm thấy tự tin hơn. Trong các hoạt động thực hành
theo cặp, giáo viên đóng vai trị là người quản lý. Vì vậy, để áp dụng kỹ thuật này một
cách hiệu quả và đúng cách, giáo viên cần chuẩn bị kỹ lưỡng bài dạy, đặc biệt là thiết
kế các nhiệm vụ phù hợp với từng bài học. Giáo viên phải là người tổ chức và hướng
dẫn tốt để hạn chế tối đa nhược điểm của phương pháp này.
5.6. Kiến nghị
Có một số gợi ý để làm cho người học hứng thú khi nói. Thứ nhất, giáo viên nên đưa
ra những chủ đề thú vị hơn, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và liên quan đến cuộc sống
thực tế để tạo ra bầu khơng khí thú vị trong lớp khiến những người học trở nên hứng
-889-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải

thú. Giáo viên nên để sinh viên có cơ hội tự chọn chủ đề vì chủ đề chắc chắn sẽ nằm
trong danh sách yêu thích của họ, và khi họ càng thích, họ càng trở nên tập trung trong
tiết học. Thứ hai, giáo viên nên làm thế nào để những học viên thuộc nhóm ít nói và
nhóm kém hơn nhận ra rằng giáo viên ln quan tâm đến họ và chấp nhận những câu
trả lời hoặc cách trình bày của họ. Điều này sẽ khuyến khích họ nói nhiều hơn. Thêm
nữa, giáo viên nên thiết lập mối quan hệ thân thiết với người học, đặc biệt là những
người thể hiện sự miễn cưỡng trong lớp đồng thời cố gắng dùng nhiều cách thức
khuyến khích họ giao tiếp. Trong giờ học, giáo viên không nên cứ đứng cạnh người
học, chờ đợi câu trả lời, họ nên đi quanh lớp để hỗ trợ người học khi cần thiết. Một gợi
ý khác là giáo viên nên khen ngợi, động viên người học nhiều hơn là chỉ trích. Giáo
viên nên khoan dung hơn với những lỗi ngôn ngữ của người học vì nó là điều khó tránh
khỏi. Nhiều nhà giáo dục ngôn ngữ đề xuất rằng giáo viên ngoại ngữ nên chấp nhận lỗi
như một hiện tượng tự nhiên. Khi giáo viên chấp nhận lỗi của người học, người học sẽ
cảm thấy tự tin hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ đích. Ngồi ra, trường cũng cần tổ

chức các câu lạc bộ nói và các cuộc thi hùng biện tiếng Anh. Các câu lạc bộ nói nên
được mở và tổ chức rộng rãi và thường xuyên để sinh viên có cơ hội tham dự. Trong
bầu khơng khí thư giãn này, học sinh sẽ có thể làm việc cùng nhau theo nhóm. Bộ mơn
Anh văn nên tổ chức các câu lạc bộ nói tiếng Anh để sinh viên nâng cao kỹ năng nói,
kỹ năng thuyết trình và thuyết phục người nghe.
6. KẾT LUẬN
Không thể phủ nhận rằng tiếng Anh đã trở thành ngơn ngữ giao tiếp tồn cầu. Mục đích
của nghiên cứu là tìm ra những khó khăn nói của sinh viên thuộc trình độ A1 tại Đại
học Giao thơng vận tải. Dựa trên kết quả nghiên cứu, có thể thấy rằng thiếu tự tin là vấn
đề phổ biến nhất của sinh viên thuộc nhóm này, nhưng sử dụng Chiến lược hội thoại có
hướng dẫn có thể giúp họ khắc phục điều này. Các giảng viên tiếng Anh nên tạo ra các
tình huống có thể khuyến khích người học giao tiếp bằng tiếng Anh. Ngoài ra, việc sử
dụng các cuộc hội thoại có hướng dẫn có thể giúp học sinh làm quen với việc sử dụng
tiếng Anh trong giao tiếp thực tế. Điều đó có nghĩa là học sinh có thể áp dụng các cuộc
trò chuyện với những người khác trong cuộc sống hàng ngày của họ để họ hứng thú hơn
với việc học kỹ năng nói.
7. HẠN CHẾ
Nghiên cứu này là nghiên cứu định lượng, do đó rất khó để kiểm soát tất cả các biến
ảnh hưởng đến kết quả của nghiên cứu. Nghiên cứu về ý kiến mang tính chủ quan cao.
Thông qua việc nhà nghiên cứu cố gắng hết sức để đưa ra phân tích chính xác, một số
điều đã xảy ra trong quá trình nghiên cứu, nằm ngồi tầm kiểm sốt của nhà nghiên
-890-


Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII

Trường Đại học Giao thông vận tải

cứu. Tổng số mẫu của nghiên cứu này có thể khá nhỏ do tác giả chỉ áp dụng cho hai lớp
tiếng Anh tại Trường Đại học Giao thông vận tải.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cortazzi, M., & Jin, L. (1996). English teaching and learning in China. Language
teaching, 29(2), 61-80.
[2]. Dwyer, E., & Heller-Murphy, A. (1996). Japanese Learners in Speaking Classes.
Edinburgh Working Papers in Applied Linguistics, 7: 46-55.
[3]. Herlina, H., & Holandiyah, M. (2015). Teaching speaking skill by using guided
conversation technique through pair taping to the seventh grade students of SMP PTI
Palembang. Edukasi: Jurnal Pendidikan dan Pengajaran, 2(2), 107-120.
[4]. Khameis, M. (2006). Using creative strategies to promote students’ speaking skills.
Bachelor Thesis from Fujairah Woman Collage.
[5]. Richard. J. C (2007). A personal reflection. Singapore: SEAMEO Regional
Language Centre.
[6]. Richards, J. C., & Renandya, W. A. (Eds.). (2002). Methodology in language
teaching: An anthology of current practice. Cambridge University Press.
[7]. Schneider, P. (1993). Developing fluency with pair taping. JALT Journal, 15(1),
55-62.

-891-



×