Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Sử dụng ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khiếm thính trên truyền hình tại việt nam hiện nay (khảo sát chương trình “bản tin o2” o2tv, “bản tin thời sự” và “dạy ngôn ngữ ký hiệu trên truyền hình” kênh vtv2, đài truyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN HƢƠNG MAI

SỬ DỤNG NGƠN NGỮ KÝ HIỆU
DÀNH CHO NGƢỜI KHIẾM THÍNH
TRÊN TRUYỀN HÌNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
(Khảo sát chương trình: “Bản tin O2” - O2TV, “Bản tin thời sự”
và “Dạy ngơn ngữ ký hiệu trên truyền hình” - Kênh VTV2,
Đài truyền hình Việt Nam, từ năm 2009 - 2014)

Ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS Nguyễn Ngọc Oanh

HÀ NỘI - 2016


XÁC NHẬN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƢỢC SỬA CHỮA

Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày ……. tháng 03 năm 2016


CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS, TS Nguyễn Ngọc
Oanh. Các số liệu và kết luận trong luận văn chưa từng
cơng bố trong bất kì một cơng trình nào trước đây. Nếu
sai, tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm.
Tác giả

Nguyễn Hƣơng Mai


LỜI CẢM ƠN
Với mong muốn góp một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu, tăng
cường và phát triển các chương trình truyền hình dành cho người khuyết tật
nói chung và người khiếm thính nói riêng, nhằm nâng cao đời sống văn hóa
của bộ phận dân số này, tơi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Sử dụng ngôn ngữ
ký hiệu dành cho người khiếm thính trên truyền hình tại Việt Nam hiện nay”
(Khảo sát chương trình: “Bản tin O2” - O2TV, “Bản tin thời sự” và “Dạy
ngơn ngữ kí hiệu trên truyền hình” - Kênh VTV2, Đài truyền hình Việt Nam,
từ năm 2009 - 2014).
Để thực hiện đề tài này, tơi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ chân
tình và nghiêm khắc, khoa học và hiệu quả từ PGS, TS Nguyễn Ngọc Oanh, từ
các cá nhân, tổ chức và các bạn đồng nghiệp. Với lịng kính trọng và biết ơn
sâu sắc, tôi xin được gửi lời cảm ơn PGS, TS Nguyễn Ngọc Oanh - người đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên tơi trong q trình thực hiện luận
văn. Tôi cũng mong muốn được gửi lời cảm ơn tới Khoa Phát thanh - Truyền
hình, Khoa Ngoại ngữ, Phòng Đào tạo sau Đại học và các phòng, ban của Học

viện Báo chí và Tuyên truyền đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi cũng như các học
viên Báo chí K19 hồn thành khóa học Cao học năm 2014 - 2015.
Do hiểu biết còn hạn hẹp và thời gian có hạn nên việc có thiếu sót
trong luận văn là điều khó tránh khỏi, tơi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của thầy cơ và các học viên lớp Cao học K19 để có thể có một
nghiên cứu hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
NGƠN NGỮ, NGƠN NGỮ KÍ HIỆU TRÊN TRUYỀN HÌNH ............... 12
1.1. Các khái niệm cơ bản .......................................................................... 12
1.2. Đặc điểm ngơn ngữ ký hiệu trên truyền hình:..................................... 28
1.3. Vai trị, ý nghĩa của việc sử dụng ngơn ngữ ký hiệu dành cho
người khiếm thính trên truyền hình tại Việt Nam hiện nay ................ 34
1.4. Những nhân tố tác động đến việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu dành
cho người khiếm thính trên truyền hình tại Việt Nam hiện nay .......... 37
Chƣơng 2: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGƠN NGỮ KÝ HIỆU TRONG
CÁC CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TẠI VIỆT NAM ................... 43
2.1. Khái quát về các chương trình truyền hình khảo sát ........................... 43
2.2. Công chúng tiếp nhận ngôn ngữ ký hiệu ............................................ 56
2.3. Cách thức sử dụng ngôn ngữ ký hiệu .................................................. 60
2.4. Mức độ sử dụng ngôn ngữ ký hiệu...................................................... 66
2.5. Hiệu quả sử dụng ngôn ngữ ký hiệu ................................................... 70
2.6. Nguyên nhân của thành công và những hạn chế tồn đọng .................. 74
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG

SỬ DỤNG NGÔN NGỮ KÝ HIỆU TRONG CÁC CHƢƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH TẠI VIỆT NAM ............................................................... 80
3.1. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng các chương trình sẵn có .... 80
3.2. Đề xuất xây dựng và tổ chức sản xuất các chương trình truyền
hình chuyên biệt dành cho người khiếm thính .................................... 85
3.3. Đề xuất xây dựng một kênh truyền hình chuyên biệt dành cho
khuyết tật ............................................................................................. 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 101


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Mức độ hài lòng của người khiếm thính về các chương trình
truyền hình sử dụng ngôn ngữ ký hiệu tại Việt Nam ................... 58
Bảng 2.2. Tỉ lệ người khiếm thính theo dõi các chương trình truyền hình
hiện nay dành riêng cho họ ........................................................... 69
Bảng 2.3. Đánh giá về cách thức truyền đạt của các chương trình truyền
hình hiện nay dành cho người khiếm thính .................................. 70
Bảng 2.4. Tỉ lệ người biết về các chương trình truyền hình hiện nay
dành riêng cho người khiếm thính ................................................ 71
Bảng 3.1. Các dạng chương trình truyền hình người khiếm thính thường xem ... 81

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Cùng một từ nhưng mỗi quốc gia lại có một ký hiệu khác nhau .... 30
Hình 1.2. Hệ thống chữ cái bằng ngón tay...................................................... 31
Hình 1.3. Cách diễn đạt bằng ngơn ngữ ký hiệu ............................................. 33
Hình 2.1. MC Hồng Lan, một trong hai MC của chương trình “Nhật ký
O2” - O2TV .................................................................................... 47
Hình 2.2. Một buổi ghi hình của “Bản tin thời sự” lúc 22h00 ........................ 51

Hình 2.3. Chương trình “Dạy ngơn ngữ ký hiệu trên truyền hình” phát
sóng lúc 23h thứ 5 và phát lại và 9h sáng chủ nhật hàng tuần ....... 53
Hình 2.4. Lí do nhiều người khiếm thính chưa từng theo dõi chương
trình có sử dụng ngơn ngữ ký hiệu ................................................. 73
Hình 2.5. Mục đích xem chương trình của người khiếm thính....................... 73


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Tun ngơn toàn thế giới về quyền con người và trong các Công
ước quốc tế về quyền con người năm 1966, Liên Hợp Quốc đã thống nhất
tuyên bố rằng: Mọi người đều có các quyền và tự do mà các cơng ước bảo vệ,
khơng có sự phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào. Theo đó, các quyền và tự do
cơ bản của con người có tính phổ qt, nằm trong một chỉnh thể thống nhất,
phụ thuộc lẫn nhau và liên quan lẫn nhau, và rằng cần bảo đảm cho người
khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền này mà khơng có sự phân biệt nào.
Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (1966), thừa nhận rằng:
Sự khuyết tật là một khái niệm luôn tiến triển và sự khuyết tật xuất phát từ sự
tương tác giữa người có khuyết tật với những rào cản về môi trường và thái
độ, những rào cản này phương hại đến sự tham gia đầy đủ và hữu hiệu của
họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Thừa nhận tầm
quan trọng của các nguyên tắc và định hướng chính sách, được ghi nhận tại
Chương trình hành động thế giới về người khuyết tật và các Quy tắc tiêu
chuẩn về bình đẳng hóa cơ hội cho người khuyết tật trong tác động đối với
việc khuyến khích, xây dựng và đánh giá chính sách, kế hoạch, chương trình
hành động ở các cấp quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm mục đích tăng cường
bình đẳng hóa cơ hội cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, cơng ước này cũng
“nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa các vấn đề về người khuyết tật trở

thành một bộ phận của các chiến lược phát triển bền vững liên quan. Đồng
thời thừa nhận rằng phân biệt đối xử chống lại bất kỳ người nào trên cơ sở sự
khuyết tật là vi phạm phẩm giá vốn có của con người”.
Ngày 13/12/2006, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ước
về quyền của Người khuyết tật và Chính phủ Việt Nam là thành viên thứ 118
tham gia ký Công ước này vào tháng 10/2007. Tại khoản 1, điều 4 về nghĩa vụ


2

chung của các quốc gia thành viên nêu rõ, các quốc gia thành viên cần cam kết
bảo đảm và thúc đẩy việc biến các quyền và tự do cơ bản của con người thành
hiện thực đối với mọi người khuyết tật mà khơng có bất kỳ sự phân biệt đối xử
nào trên cơ sở sự khuyết tật. Đặc biệt, trong đó nhấn mạnh việc: “Cung cấp
thơng tin dễ tiếp cận cho người khuyết tật về phương tiện, thiết bị hỗ trợ di
chuyển và các cơng nghệ trợ giúp, trong đó có các cơng nghệ mới, cũng như
mọi hình thức dịch vụ hoặc cơ sở vật chất trợ giúp khác”.
Tại Việt Nam, theo số liệu chưa đầy đủ của Tổng cục Thống kê, Việt
Nam có khoảng 6,7 triệu người khuyết tật, trong đó có những dạng khuyết tật
như: khuyết tật vận động, nghe nói (thính giác), nhìn (thị giác), khuyết tật
thần kinh, tâm thần, khuyết tật trí tuệ và một số khuyết tật khác. Có nhiều
nguyên nhân gây ra khuyết tật như: khuyết tật mắc phải khi phát triển (từ chu
kỳ sinh, bệnh, tổn thất, thương tích do bạo hành, tai nạn, chiến tranh hay
thơng qua lão hóa) hay khuyết tật bẩm sinh (do di truyền, nhiễm sắc thể, bất
thường bẩm sinh…).
Lên tới con số hơn 1 triệu, lượng người khiếm thính tại Việt Nam
chiếm tới 6,3% dân số. Cũng trong số hơn 1 triệu người khiếm thính ở Việt
Nam hiện nay, có khoảng 400 nghìn người khiếm thính trong độ tuổi học
đường. Hằng năm, có khoảng 20 nghìn trẻ khiếm thính đến độ tuổi đi học.
Mặc dù các phương tiện kỹ thuật ngày càng phát triển, hiện đại và phổ thơng

hóa giúp người khiếm thính có cơ hội học nói, giao tiếp bằng lời, song "ngôn
ngữ ký hiệu" vẫn giữ vị trí vơ cùng quan trọng và là thứ ngơn ngữ "mẹ đẻ"
của người câm điếc.
Có thể nói, thơng tin có vai trị vơ cùng quan trọng đối với đời sống mỗi
cá nhân cũng như sự phát triển của quốc gia. Trong Hiến pháp 2013, tại điều
25, chương II về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân nêu
rõ: “Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội


3

họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định mọi công dân đều bình
đẳng, khơng bị phân biệt đối xử trong việc thực hiền quyền tiếp cận thơng tin,
trong đó có thơng tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng.
Hiện nay, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học cơng nghệ,
trước sự đa dạng hóa của nhiều nhóm cơng chúng, nhiều tờ báo, tạp chí, nhiều
kênh phát thanh, truyền hình chuyên biệt đã được ra đời. Trong đó có các
chương trình truyền hình sử dụng ngơn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật
nói chung và khiếm thính nói riêng. Dù cịn nhiều khó khăn, vất vả trong việc
truyền tải thơng tin đến với nhóm đối tượng khán giả này nhưng sự ra đời và
phát triển của các chương trình truyền hình sử dụng ngơn ngữ ký hiệu đã trở
thành điểm sáng trong truyền thơng Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Với mong muốn thực hiện đúng Cơng ước Quốc tế về người khuyết tật,
đồng thời thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền tiếp nhận thông tin của người
khuyết tật, tơi đã nghiên cứu, tìm hiểu và quyết định chọn Đề tài này. Nghiên
cứu vấn đề “Sử dụng ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khiếm thính trên
truyền hình tại Việt Nam hiện nay” là một dịp quan trọng để các cơ quan ban
ngành có thể hiểu thêm tình hình thực tế, khả năng, nhu cầu, nguyện vọng của
người khuyết tật nói chung và người khiếm thính nói riêng, đồng thời, nắm

bắt những thơng tin, kinh nghiệm trong việc bổ sung, xây dựng và thực hiện
chính sách dành cho người khuyết tật tại Việt Nam thông qua các chương
trình truyền hình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Thực tế cho thấy, trước sự phát triển nhanh chóng của báo chí hiện
đại tại Việt Nam hiện nay, trước nhu cầu ngày càng cao của khán giả xem
truyền hình, đã và đang có rất nhiều tờ báo, tạp chí, chương trình phát
thanh, truyền hình hướng tới nhiều đối tượng khán giả khác nhau. Nhiều


4

chương trình, thậm chí là nhiều kênh truyền hình chun biệt dành cho các
đối tượng chuyên biệt đã được ra đời. Một số kênh truyền hình chuyên biệt
được biết đến như: Kênh VTV4 – Đài Truyền hình Việt Nam (Kênh truyền
hình đối ngoại của Đài Truyền hình Việt Nam), kênh VTV5 – Đài Truyền
hình Việt Nam (Kênh truyền hình tiếng dân tộc thiểu số, có phụ đề tiếng
Việt), kênh VTV6 – Đài Truyền hình Việt Nam (Kênh truyền hình dành
cho thanh - thiếu niên - nhi đồng), kênh Truyền hình Quốc phịng Việt Nam
(Cơ quan ngơn luận của Qn ủy Trung ương, Bộ Quốc phịng, tiếng nói
của lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam), kênh truyền hình Cơng an
Nhân dân - An ninh TV….
Bên cạnh các chương trình, các kênh truyền hình chuyên biệt, tại Việt
Nam cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học, nhiều luận văn, luận
án về cộng đồng người khiếm thính nói chung như:
- Phạm Thị Cơi (1988) Q trình hình thành ngơn ngữ nói ở người điếc
Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học: Xuất
phát từ thành tựu nghiên cứu và dạy hoc ngôn ngữ kí hiệu trên thế giới, từ đặc
điểm tâm sinh lý của người khiếm thính, nghiên cứu đã phân tích và làm rõ
q trình hình thành ngơn ngữ nói ở người điếc Việt Nam.

- Cao Thị Xuân Mỹ (2004 – 2005): Xây dựng Từ điển ký hiệu giao tiếp
cho người khiếm thính, đề tài khoa học cấp cơ sở: Nghiên cứu đã phân tích kĩ
lưỡng cách xây dựng ngơn ngữ kí hiệu của các nước trên thế giới để so sánh
đối chiếu với hệ thống ký hiệu giao tiếp của người khiếm thính Việt Nam
nhằm tìm ra những quy luật hình thành các ký hiệu, xây dựng quy luật chuẩn
trong giao tiếp giữa người khiếm thính với nhau, giữa người khiếm thính với
người bình thường. Trên cơ sở các quy luật chuẩn sẽ xây dựng hệ thống ký
hiệu cơ bản, bảo đảm được "cái gốc" để vùng miền nào cũng có thể hiểu ý
nghĩa của ký hiệu mới khi giao tiếp.


5

- Cao Thị Xuân Mỹ (2006-2008), Mở rộng nội dung Từ điển ký hiệu
giao tiếp của người khiếm thính, Đề tài khoa học cấp Bộ: ứng dụng công nghệ
thông tin nhằm trợ giúp vốn từ giao tiếp bằng ký hiệu cho người khiếm thính
và phục vụ cơng tác đào tạo sinh viên ngành giáo dục đặc biệt.
- Nhóm nghiên cứu: Vương Hồng Tâm, Ngô Thị Kim Thoa, Đỗ Long
Giang, Nguyễn Thị Thu Hiền (2008) Nghiên cứu cách biểu đạt ngôn ngữ của
người điếc Việt Nam: Bằng các phương pháp nghiên cứu như lí luận, phương
pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, nghiên
cứu đã đi sâu vào các cách thức biểu đạt ngôn ngữ ký hiệu của người điếc,
trên cơ sở đó định hướng về phương pháp dạy ngơn ngữ kí hiệu và cách thức
giao tiếp bằng ngơn ngữ kí hiệu với trẻ điếc hiệu quả hơn. Đồng thời, xác
định đặc điểm của ngôn ngữ ký hiệu là một hệ thống những cử chỉ được sử
dụng theo quy ước thông qua bàn tay, nét mặt, điệu bộ... để biểu đạt một ý
nghĩa nào đó (hay để biểu thị một sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất....),
xác định đặc tính của ngơn ngữ kí hiệu….
- Vương Hồng Tâm (2009) Sử dụng kết hợp các phương tiện giao tiếp
để phát triển nhận thức của trẻ khiếm thính tiểu học trong lớp học hồ nhập,

Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Đi sâu vào nghiên cứu thực trạng sử dụng các
phương tiện giao tiếp để phát triển nhận thức của trẻ khiếm thính tiểu học
trong lớp học hòa nhập. Đồng thời đưa ra một số biện pháp sử dụng kết hợp
các phương tiện giao tiếp để phát triển nhận thức của trẻ khiếm thính tiểu học
trong lớp học hòa nhập và thực nghiệm sư phạm.
- Lê Thị Thủy (2009), Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ, Luận
văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học sư phạm, thành phố Hồ Chí
Minh: Luận văn vận dụng lí thuyết của kí hiệu học để giải thích về mặt kí
hiệu của cử chỉ và lí thuyết tâm lý học giao tiếp làm rõ nội dung biểu hiện của
con người trong mỗi cử chỉ. Về mặt thực tiễn: Trong xu thế hội nhập thế giới


6

và sự giao lưu văn hóa tồn cầu, mỗi người hiểu thêm về ngôn ngữ cử chỉ
không những giao tiếp thành cơng hơn mà cịn hịa nhập với cuộc sống xung
quanh. Kết qủa khảo sát đã xác lập được một hệ thống những cử chỉ phổ biến
trong giao tiếp hàng ngày của người Việt khá phong phú, chân thực cho
những ai muốn tìm hiểu thêm về đề tài ngơn ngữ cử chỉ.
- Cao Thị Xuân Mỹ (2010-2013), Tìm hiểu quy luật diễn đạt bằng ngôn
ngữ ký hiệu của người Khiếm thính Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ: Nghiên cứu đã chỉ ra 5 yếu tố cấu thành kí hiệu giao tiếp trong ngơn ngữ
kí hiệu và phân tích: Mặc dù chưa có hệ thống ngơn ngữ kí hiệu thống nhất
trong cả nước, song ngơn ngữ kí hiệu Việt Nam cũng đảm bảo các yếu tố cấu
thành đó. Qua nhiều dẫn chứng cụ thể, nghiên cứu đã phân tích, làm rõ để có
cái nhìn sâu hơn về ngơn ngữ kí hiệu Việt Nam, đồng thời tạo cơ sở giúp cho
việc học tập, tiếp cận ngơn ngữ kí hiệu được dễ dàng hơn.
- Đỗ Thị Hiên và nhóm nghiên cứu (2012), Ngơn ngữ kí hiệu của cộng
đồng người khiếm thính Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Báo cáo tổng hợp
đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Với những luận điểm, luận cứ vững chắc,

nghiên cứu của Đỗ Thị Hiên và đồng sự đã chỉ ra những hạn chế của ngươi
khiếm thính khi khả năng nghe bị suy giảm, dẫn đến khả năng giao tiếp bằng
lời ở cộng đồng. Nghiên cứu cũng phân tích những điểm khác biệt trong ngữ
pháp của ngơn ngữ kí hiệu và tiếng Việt chứng tỏ ngơn ngữ kí hiệu Việt Nam
là một ngơn ngữ đích thực độc lập với tiếng Việt.
Bên cạnh các nghiên cứu khoa học trên, còn nhiều nghiên cứu, luận
văn, luận án nghiên cứu tới đề tài ngơn ngữ kí hiệu như:
- Khảo sát thực trạng sử dụng ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ của người điếc
Việt Nam. Chủ nhiệm Đỗ Văn Ba, 1997.
- Ký hiệu ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ của người điếc Việt Nam. Chủ
nhiệm Đỗ Văn Ba, 1997.


7

- Hình thành thống nhất hệ thống ký hiệu cử chỉ điệu bộ cơ bản cho
người điếc Việt Nam. Chủ nhiệm Đỗ Văn Ba. Cơ quan chủ trì: Viện KH Giáo
dục Việt Nam, 1997.
- Giáo dục nghệ thuật để phát triển tư duy cho trẻ em câm điếc. Chủ
Nhiệm: Ths. Lê Anh Cường. Cơ quan chủ trì: Viện nghiên cứu giáo dục – Đại
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
- Nội dung, chương trình, kế hoạch đào tạo giáo viên dạy hòa nhập cho
trẻ khuyết tật. Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học giáo dục, 1995.
- Khảo sát thực trạng đội ngũ giáo viên dạy hòa nhập trẻ khuyết tật
trong các trường tiểu học. Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học giáo dục, 1995.
- Xây dựng mơ hình giáo dục trẻ có tật. Chủ nhiệm PTS. Trịnh Đức Duy, 1990.

Đối với các chương trình truyền hình, từ năm 2009 đã bắt đầu xuất hiện
một chương trình truyền hình sử dụng ngôn ngữ ký hiệu nhằm mở rộng đối
tượng xem truyền hình, hướng tới một lượng lớn những người khuyết tật nói

chung và người khiếm thính nói riêng. Chương trình đã được nghiên cứu, tìm
hiểu và tổ chức sản xuất mang tính chất thường kỳ trong thời gian phát sóng.
Đó là chương trình “Bản tin O2” được phát sóng trên kênh O2TV ra đời năm
2009. Đến năm 2011, chương trình “Bản tin thời sự” phát sóng lúc 22h00 trên
kênh VTV2 - Đài Truyền hình Việt Nam cũng hướng tới nhóm khán giả này
khi mở rộng sản xuất, phối hợp sử dụng ngơn ngữ ký hiệu trong chương trình.
Và tới năm 2012, kênh VTV2 - Đài Truyền hình Việt Nam tiếp tục cho ra đời
một chương trình truyền hình mới lạ có tên “Dạy ngơn ngữ ký hiệu trên
truyền hình”. Chương trình hướng tới nhóm khán giả là những người khuyết
tật và những người u thích ngơn ngữ ký hiệu. Tuy nhiên, sau một thời gian
dài tìm hiểu, nghiên cứu, tơi nhận thấy: đa số các nghiên cứu, chương trình
đều chưa có hoặc có nhưng chỉ một phần rất nhỏ tìm hiểu, nghiên cứu về cách
thức hay hiệu quả truyền thông cho người khiếm thính.


8

Đề tài luận văn “Sử dụng ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khiếm
thính trên truyền hình tại Việt Nam hiện nay” có thể nói là một trong số ít ỏi
những đề tài nghiên cứu mới mẻ, thiết thực về vấn đề này, tính tới thời điểm
hiện tại. Nghiên cứu khơng chỉ có ý nghĩa lý luận, mà hi vọng cịn có đóng
góp thiết thực về thực tiễn cho những người sản xuất chương trình truyền hình
ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận báo chí, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng sử
dụng ngơn ngữ ký hiệu dành cho người khiếm thính trên truyền hình tại Việt
Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng,
hiệu quả của các chương trình truyền hình sử dụng ngơn ngữ kí hiệu dành cho
người khiếm thính tại Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về ngơn ngữ, ngơn ngữ kí hiệu trên
truyền hình.
- Tình hình sử dụng ngơn ngữ kí hiệu trong các chương trình truyền
hình tại Việt Nam.
- Giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ kí hiệu
trên truyền hình tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc sử dụng ngơn ngữ kí hiệu
dành cho người khiếm thính trên truyền hình tại Việt Nam hiện nay.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Các chương trình truyền hình sử dụng ngơn ngữ kí hiệu tại Việt Nam.
- Đối tượng người khiếm thính – khán giả của chương trình, những
người trực tiếp tiếp nhận thơng tin thơng qua ngơn ngữ kí hiệu.


9

4.3. Đối tượng điều tra
Thực trạng việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu dành cho người khiếm thính
trên truyền hình tại Việt Nam hiện nay. Thành công, hạn chế và nguyên nhân.
4.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu và nghiên cứu một số chương trình sử dụng ngơn
ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật tại Việt Nam như: Nhật ký O2 O2TV, bản tin thời sự 22h00 và dạy ngơn ngữ ký hiệu trên truyền hình, kênh
VTV2 - Đài Truyền hình Việt Nam, từ năm 2009 - 2014.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, cơ sở lý luận báo chí, truyền thơng.

Luận văn cũng được nghiên cứu trên cơ sở tham khảo và kế thừa kết quả
nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực ngơn ngữ kí hiệu của các tác giả đi trước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, ngoài việc vận dụng lý luận về phương pháp
nghiên cứu, phương pháp phân tích, luận văn cịn sử dụng các phương pháp
cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thơng qua việc tìm kiếm, tập hợp
tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau trên sách, báo, internet, các cơng trình
nghiên cứu khoa học, các tài liệu phục vụ hội thảo về ngơn ngữ ký hiệu để
xem xét, phân tích các thơng tin trong tài liệu. Trên cơ sở đó kế thừa những
giá trị vốn có nhằm rút ra những dữ liệu để so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích nội dung: Dùng để đánh giá những kết quả
nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Được thực hiện với một số khán giả
xem truyền hình tại 3 tỉnh, thành phố, gồm: Hà Nội, Thái Bình, Hải Phịng.


10

Các khán giả đều là người khiếm thính ở các độ tuổi khác nhau, qua đó tìm ra
những thành cơng, hạn chế và nguyên nhân chưa đạt được hiệu quả cao của
các chương trình truyền hình sử dụng ngơn ngữ kí hiệu tại Việt Nam.
- Phương pháp điều tra định lượng bằng bảng anket: Tác giả luận văn
tiến hành điều tra 180 khán giả là người khiếm thính tại 3 tỉnh, thành phố,
gồm: Hà Nội, Thái Bình, Hải Phịng. Lập bảng hỏi về các vấn đề xoay quanh
nội dung, chất lượng, sự phù hợp của các chương trình cũng như cách thức
thực hiện chương trình, nhằm mục đích thu thập các thơng tin phục vụ cho
q trình nghiên cứu luận văn này.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã có
và kết quả điều tra xã hội học, đánh giá về chất lượng các chương trình sử

dụng ngơn ngữ ký hiệu trên truyền hình hiện nay, từ đó tìm ra các ưu điểm,
các hạn chế còn tồn tại để đạt đến cuối cùng là đưa ra đề xuất, ý kiến nhăm
nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình sử dụng ngơn ngữ kí hiệu
tại Việt Nam, đồng thời tăng cường xây dựng các chương trình truyền hình
chun biệt dành cho người khiếm thính nói riêng và những người khuyết tật
tại Việt Nam nói chung.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Về mặt lý luận
Thông qua nghiên cứu, khảo cứu, luận văn cung cấp một số vấn đề lý
luận cơ bản về ngôn ngữ, ngôn ngữ học, ký hiệu, ngôn ngữ ký hiệu, người
khiếm thính, chương trình truyền hình.
Luận văn khẳng định tính ưu việt cũng như hạn chế của việc sử dụng
ngôn ngữ kí hiệu trên truyền hình tại Việt Nam và làm rõ hiệu quả hoạt động
phối hợp tuyên truyền của các cơ quan báo chí tới một số lượng lớn đối tượng
khán giả là người khiếm thính tại Việt Nam.


11

6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ nội dung nhận thức về vấn đề sử dụng ngôn
ngữ kí hiệu dành cho người khiếm thính trên truyền hình tại Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Luận văn đánh giá khách quan thực trạng, khẳng định những đóng góp
và đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu của việc sử dụng ngơn ngữ ký
hiệu trên truyền hình tại Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cơng tác giảng dạy, các cơ
quan báo chí và những người quan tâm đến nội dung, số liệu của luận văn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn được bố cục thành 3 chương, gồm:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về ngôn ngữ, ngơn
ngữ kí hiệu trên truyền hình
Chƣơng 2: Tình hình sử dụng ngơn ngữ ký hiệu trong các chƣơng
trình truyền hình tại Việt Nam
Chƣơng 3: Giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lƣợng các chƣơng
trình truyền hình sử dụng ngơn ngữ kí hiệu tại Việt Nam


12

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
NGƠN NGỮ, NGƠN NGỮ KÍ HIỆU TRÊN TRUYỀN HÌNH
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Ngôn ngữ
Từ xa xưa, ngôn ngữ đã xuất hiện một cách đa dạng và sinh động. Mỗi
ngơn ngữ cụ thể lại có một nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp với những chiều
hướng biến động, phát triển không hề giống nhau. Cuộc sống của con người
phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng ngôn ngữ nhanh chóng và hiệu quả. Thế
nhưng, ngơn ngữ là gì vẫn là một câu hỏi có nhiều câu trả lời khác nhau.
Trước kia, các giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ đã được đưa ra với
thuyết tượng thanh, thuyết về tiếng kêu động vật, thuyết về tiếng kêu trong phối
hợp lao động, thuyết cảm than bộc lộ tâm lí tình cảm, thuyết quy ước xã hội…
Với sự ra đời của triết học duy vật biện chứng, vấn đề nguồn gốc của
ngơn ngữ được xem xét và phân tích một cách toàn diện hơn, khoa học hơn và
hợp lý hơn. Con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ, vì vậy việc
tìm hiểu về sự ra đời của ngôn ngữ đã được gắn liền với nghiên cứu nguồn
gốc của con người, cả trong quá trình phát sinh giống nịi lẫn q trình phát
sinh và phát triển của mỗi cá thể. Và các kết quả nghiên cứu về triết học, sinh

vật học, khảo cổ học, sinh lý học thần kinh và cả ngôn ngữ học đã kết luận
rằng: Lao động đã làm phát sinh, phát triển loài người và làm phát sinh ngơn
ngữ trong q trình đó.
Cũng cần phải phân biệt rõ ngôn ngữ với tư cách là phương tiện giao
tiếp và phát triển tư duy của con người với những hiện tượng khác cũng được
gọi là ngôn ngữ. Chẳng hạn như người ta thường nói tới “ngơn ngữ hội họa”,
“ngôn ngữ điện ảnh”, “ngôn ngữ âm nhạc”, “ngôn ngữ toán học”… Trong


13

những trường hợp này, ngôn ngữ được hiểu là một phương tiện diễn tả truyền
đạt nào đó. Đối với âm nhạc, ngôn ngữ là âm thanh với những giai điệu, tiết
tấu khác nhau. Đối với hội họa, ngôn ngữ là màu sắc và đường nét với những
sắc độ và quan hệ khác nhau. Đối với tốn học, ngơn ngữ lại được hiểu là hệ
thống những kí hiệu biểu đạt những những quan hệ trừu tượng...
Có thể nói, ngơn ngữ có thể được tiếp cận từ nhiều phía xuất phát từ
nhiều quan điểm, khuynh hướng khác nhau, khai thác theo những mức độ
rộng, hẹp, nông, sâu khác nhau. Ngay cả những cách giải thích gần gũi và trực
quan nhất, như xem ngôn ngữ là những bảng từ trong từ điển, là những chuỗi
âm thanh, là các sách ngữ pháp hoặc những chữ cái thì cũng chỉ vạch ra
những biểu hiện, những khía cạnh khác nhau của ngơn ngữ.
Hiện nay, chưa có một ngôn ngữ chung cho tất cả mọi người trên trái
đất, mà chỉ có những ngơn ngữ riêng, cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi cộng
đồng người.
Theo bản điều tra báo cáo mới nhất của UNESCO Liên Hiệp Quốc
trong năm 2014, thì trên thế giới có 2.700 thứ tiếng. Cịn theo thống kê của
nhà ngôn ngữ học Michael Krauss thuộc Đại học Alaska Fairbanks (Hoa Kỳ)
thì từ xa xưa nhân loại có đến 15.000 ngơn ngữ khác nhau nhưng theo thời
gian, dần dần chỉ cịn tồn tại khoảng 6.000 ngơn ngữ, và cho đến ngày nay thì

thế giới chỉ cịn từ 2.000 – 3.000 ngôn ngữ khác nhau. Nhưng trong các thứ
tiếng phong phú này, thì có trên 1.400 thứ tiếng hoặc không được công nhận
là thứ tiếng độc lập, hoặc sắp bị tiêu vong. Có khoảng 20 thứ tiếng hầu như
ngày nay khơng cịn ai biết nói nữa. 3/4 các thứ tiếng trên thế giới cịn chưa
có chữ viết. Chỉ có khoảng 500 thứ tiếng đã được người ta nghiên cứu tương
đối đầy đủ.
Nói về khái niệm của ngơn ngữ, qua tài liệu của các nhà nghiên cứu,
trước hết, phải nhận thấy ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt.


14

Bản chất xã hội của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao
tiếp giữa mọi người, phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, phương tiện
giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau tổ chức công tác chung trên
mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Ngơn ngữ thể hiện ý thức xã hội, có
khả năng hình thành và sử dụng văn hóa. Sự phát triển của ngôn ngữ gắn liền
với sự tồn tại và sự phát triển chung của xã hội.
Thứ hai, ngôn ngữ được hiểu là một hệ thống tín hiệu âm thanh.
Theo cách hiểu thơng thường, người ta có thể sử dụng từ ngơn ngữ để
chỉ một hệ thống kí hiệu bất kì dùng để diễn đạt, thơng báo một nội dung nào
đó. Thí dụ: Ngơn ngữ điện ảnh là tồn bộ những phương tiện nghệ thuật được
các nhà làm phim sử dụng để phản ánh hiện thực; ngôn ngữ hội họa là tồn bộ
những đường nét, màu sắc, hình khối mà họa sĩ sử dụng để phản ánh thế giới;
ngôn ngữ của loài ong là toàn bộ những "vũ điệu" mà loài ong sử dụng để báo
cho nhau về nơi chốn có hoa và lượng hoa...
Ðơi khi người ta cịn dùng từ ngôn ngữ để chỉ đặc điểm khái quát trong
việc sử dụng ngôn ngữ của một tác giả, một tầng lớp hay một lứa tuổi hoặc
một phong cách ngôn ngữ cụ thể. Thí dụ: Ngơn ngữ Nguyễn Du, ngơn ngữ trẻ

em, ngơn ngữ báo chí... Tuy nhiên, theo cách hiểu phổ biến và chủ yếu nhất:
Ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu bao gồm hệ thống những âm, những từ và
những quy tắc kết hợp các từ mà những người trong cùng một cộng đồng sử
dụng làm phương tiện để giao tiếp với nhau.
Riêng với Ferdinand de Saussure (1857-1913) thì ngôn ngữ được hiểu
như một thuật ngữ ngôn ngữ học. Giáo trình Ngơn ngữ học đại cương xuất
bản năm 1916 của Saussure đã quan niệm hoạt động ngôn ngữ gồm hai mặt:
mặt ngơn ngữ và mặt lời nói. Theo ơng, ngôn ngữ là một hợp thể gồm những
quy ước tất yếu được tập thể xã hội chấp nhận... Ðó là một kho tàng được


15

thực tiễn nói năng của những người thuộc cùng một cộng đồng ngơn ngữ lưu
lại, một hệ thống tín hiệu, một hệ thống ngữ pháp tồn tại dưới dạng tiềm năng
trong mỗi bộ óc, hay, nói cho đúng hơn trong các bộ óc của một tập thể.
(Ferdinand de Saussure, 1916)
Nói một cách tổng quan, theo cách hiểu thông thường, phổ biến nhất, ta
có thể sử dụng khái niệm ngơn ngữ để chỉ một hệ thống tín hiệu giao tiếp bằng
âm thanh mà một cộng đồng dân tộc nào đó sử dụng. Theo cách hiểu duy danh
và khoa học, người ta có thể tách ngơn ngữ thành hai mặt gắn bó khăng khít:
Mặt ngơn hay mặt lời nói là sản phẩm của cá nhân, và mặt ngữ hay mặt ngôn
ngữ là sản phẩm của tập thể, là phần trừu tượng tồn tại ở dạng tiềm năng trong
óc của một cộng đồng dân tộc. Nó là một hệ thống kí hiệu đặc biệt, có bản chất
xã hội đặc biệt, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của lồi người và là
cơng cụ của tư duy. Và dựa vào các đặc trưng quan trọng của ngơn ngữ lồi
người, có thể chấp nhận một định nghĩa về ngôn ngữ như sau:
“Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện
giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng
người; ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt

truyền thống văn hóa, lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác”. (Nguyễn Thiện
Giáp – Giáo trình ngơn ngữ học,Nxb ĐHQG, trang 28)
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của
lồi người, phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngơn ngữ bao
gồm ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết. Trong thời đại hiện nay, nó là cơng cụ
quan trọng nhất của sự trao đổi văn hoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội và là công cụ tư duy của con người.
Ngơn ngữ học có khía cạnh tâm lý học, ngơn ngữ có vai trị nhiều nhân tố: xã
hội, tâm lý, dân tộc... Ngôn ngữ học tâm lý nghiên cứu những mối quan hệ
qua lại giữa nhân cách với cấu trúc chức năng của ngôn ngữ. Về một khía


16

cạnh khác, giữa nhân cách với ngôn ngữ như yếu tố cấu thành hình thành thế
giới của con người. Qua nghiên cứu ngôn ngữ tâm lý học sẽ thấy được đặc
điểm tâm lý của một cộng đồng bản ngữ, và qua đó sẽ thấy được “trong ngữ
nghĩa của mỗi ngơn ngữ tự nhiên đều hàm chứa một cách nhìn thế giới của
mỗi cộng đồng bản ngữ đó đối với sự vật hiện tượng xung quanh họ”.
1.1.2. Ngôn ngữ học
Cũng như mọi ngành khoa học cơ bản, ngôn ngữ học gồm hai nội dung
tri thức lớn: tri thức ngôn ngữ học cơ sở đã được định hình làm nền tảng cho
sự tồn tại của ngành khoa học này và tri thức ngơn ngữ học hiện đại nhờ
khám phá, tìm tịi làm cho ngôn ngữ học phát triển theo hướng vừa tập trung
mang tính đơn ngành lại vừa mở rộng mang tính liên ngành, vừa chuyên sâu
với tư cách của một ngành khoa học thực thụ lại vừa có tính ứng dụng cao,
phục vụ cho đời sống của con người.
Nghiên cứu về “Sự hình thành và phát triển của ngơn ngữ học”, trong
cuốn “Dẫn luận ngôn ngữ học” của NXB Giáo dục năm 1998, Giáo sư, Tiến
sĩ Nguyễn Thiện Giáp cho rằng “Ngôn ngữ là người bạn đồng hành không

thể thiếu của con người. Vì vậy, con người ln ln quan tâm đến ngôn ngữ
và xây dựng cả một khoa học về nó. Đó là ngơn ngữ học”. (Giáo sư, Tiến sĩ
Nguyễn Thiện Giáp, NXB Giáo dục năm 1998)
Theo nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Thiện Giáp, khuynh hướng mạnh
nhất trong ngôn ngữ học đầu thế kỉ XX là chủ nghĩa cấu trúc. Nó xuất phát
trực tiếp từ học thuyết của F. de Saussure được trình bày trong "Giáo trình
ngơn ngữ học đại cương" của ông. Nhiệm vụ hàng đầu của ngôn ngữ học là
nghiên cứu "các mối quan hệ" giữa các yếu yố ngôn ngữ. Ngôn ngữ học cấu
trúc phân biệt rạch rịi "ngơn ngữ" và "lời nói", "đồng đại" và "lịch đại".
Nhiều phương pháp nghiên cứu mới và độc đáo đã được áp dụng như: phép


17

đối lập, phép phân bố, phép chuyển hoá, phép phân tích thành tố trực tiếp,
phép thay thế v.v... Thậm chí, ngôn ngữ học cấu trúc vận dụng cả các phương
pháp của các các khoa học chính xác khác.
Hiện nay, ngơn ngữ học lại xuất hiện các khuynh hướng mới, đó là: nhân
chủng - ngơn ngữ học, tâm lí - ngơn ngữ học và ngôn ngữ học khu vực. Nếu
“Nhân chủng - ngôn ngữ học” coi ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng trong
sinh hoạt văn hoá và tinh thần của dân tộc, các tác động rõ rệt đến thế giới quan
và tư cách con người. Nó đặt vấn đề nghiên cứu mối quan hệ và ảnh hưởng lẫn
nhau giữa ngơn ngữ và tâm lí, ngơn ngữ và văn hố, ngơn ngữ và lịch sử dân
tộc... Thì “Tâm lí - ngôn ngữ học” là khoa học về các quy luật tâm lí và ngơn
ngữ của việc tạo thành lời nói từ những yếu tố ngôn ngữ và của việc hiểu kết cấu
ngơn ngữ của lời nói, tức là hiểu các yếu tố tạo thành lời nói. Có thể xem nó là
khoa học nằm ở ranh giới của ngôn ngữ học, tâm lí học và lí thuyết thơng tin.
Trong khi đó, “ngôn ngữ học khu vực” gắn liền với tên tuổi của
Gilenron, M. Bactơlơ và G. Bơngphăngtê. Nó chú ý tới vai trị của các điều
kiện khơng gian, địa lí trong lịch sử các ngôn ngữ và trong việc nghiên cứu

ngôn ngữ. Nó nghiên cứu sự phân bố các sự kiện ngôn ngữ giống nhau, các
vạch đường đồng ngữ tuyến. Các nhà bác học theo khuynh hướng này đặc
biệt chú ý đến các quá trình ảnh hưởng qua lại phức tạp của các ngôn ngữ
được sử dụng đồng thời tại một địa phương.
Ý kiến về thời gian ra đời của ngôn ngữ học với tư cách là một khoa
học tự lập, có đối tượng riêng, phương pháp riêng, cho đến nay vẫn chưa
thống nhất.
Có người cho rằng ngơn ngữ học ra đời từ thế kỉ 19 cùng với sự xuất
hiện của khuynh hướng so sánh - lịch sử. Người khác lại cho rằng ngơn ngữ
học chỉ thực sự được hình thành từ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, cùng với sự
xuất hiện của Giáo trình ngơn ngữ học đại cương của Ferdinand de Saussure.


18

Nếu chọn Giáo trình ngơn ngữ học đại cương của Saussure làm mốc
hình thành của khoa học ngơn ngữ, ta có thể phân q trình phát triển của
ngơn ngữ học ra làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Trước thế kỉ 20 - Thời kì chuẩn bị cho sự ra đời của ngôn
ngữ học.
- Giai đoạn 2: Từ thế kỉ 20 trở đi - Thời kì ra đời và phát triển của ngôn
ngữ học.
Theo nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học thì ngơn ngữ học đại cương
được giới thiệu vào Việt Nam từ khoảng đầu những năm 70 của thế kỉ XX, bắt
đầu với Giáo trình Ngơn ngữ học đại cương của F.de Saussure (bản dịch, in lần
đầu năm 1973) và sau đó là các cơng trình của Ju. Stepanov (Những cơ sở
Ngôn ngữ học đại cương, 1984), V.Rozdextvenski (Những bài giảng Ngôn ngữ
học đại cương, 1997), J. Lyons (Nhập mơn Ngơn ngữ học lí thuyết, 1997), V.B
Kasevich (Những yếu tố cơ sở của Ngôn ngữ học đại cương, 1998), v.v.
Bên cạnh các giáo trình của các nhà ngơn ngữ học quốc tế thì một số bài

giảng, giáo trình Ngôn ngữ học đại cương do các nhà ngôn ngữ học Việt Nam
biên soạn cũng đã được xuất bản, trong đó đáng chú ý là bộ giáo trình Đại
cương ngơn ngữ học (tập 1, tập 2) của Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Tốn (1991)
và “Các bài giảng về Ngơn ngữ học đại cương” của Nguyễn Lai (2002).
1.1.3. Ký hiệu
Ngay từ những bước đi đầu tiên trong buổi bình minh của lịch sử, con
người đã tìm mọi cách, dùng mọi ký hiệu (hay tín hiệu) để thơng tin cho nhau:
Từ tiếng hú, tiếng mõ đến đốt lửa hoặc dùng cách ra hiệu…, rồi tiến tới tiếng
nói, chữ viết để truyền đi những thông tin cần trao đổi.
Vậy ký hiệu là gì? Theo Ch.W. Morris (1901 – 1979) thì : „„Semiosis
(một thuật ngữ của ký hiệu học) là quá trình kiến tạo ký hiệu gồm bốn yếu tố
hợp thành. Đó là: Đối tượng – Người diễn giải – Sự diễn giải – Phương tiện
ký hiệu‟‟. (Ch.S. Peirce.- Cơ sở logic của lý luận ký hiệu. SPb., 2000).


19

Ơng cho rằng: „„Semiosis là mọi q trình mà ở đó có một cái gì hoạt
động như một ký hiệu, là mọi quá trình kiến tạo ý nghĩa ký hiệu. Nó là con
đường phát triển đơn tuyến nào đó của đối tượng mà ở đây tên gọi của đối
tượng làm nảy sinh các phạm trù ngữ nghĩa‟‟.
Nhưng trước Ch. W. Moris thì Charles.S.Peirce (1839 – 1914) đã sử
dụng khái niệm Semiosis để xác định tương quan ba mặt như là đặc điểm bản
chất của một quan hệ ký hiệu sơ đẳng: „„Đối tượng – Ký hiệu – Sự diễn giải‟‟.
Theo Peirce, chừng nào chưa được giải thích như một ký hiệu, thì ký hiệu
chưa hoạt động như một ký hiệu. Phải được diễn giải thì ký hiệu mới trở
thành ký hiệu. Sự diễn giải chính là một ký hiệu mới xuất hiện trong ý thức
của người sử dụng ký hiệu, nó là sự phiên dịch, thuyết minh, giới thuyết mối
quan hệ ký hiệu - đối tượng trong ký hiệu nối tiếp theo sau. Ví như một phản
ứng cụ thể của con người trước một ký hiệu được tiếp nhận, hoặc sự giải thích

ý nghĩa của từ này nhờ sự hỗ trợ của các từ khác. Đó là cái được „„sinh ra bởi
ký hiệu trong ý thức người diễn giải‟‟.
Diễn giải là ý nghĩa đầu tiên, xuất hiện khi ta tiếp nhận một ký hiệu khả
hữu, tiềm tại. Với ý nghĩa như thế, diễn giải là một hình thức thể hiện khác
nối kết ký hiệu với một ký hiệu khác chứ khơng phải nối kết ký hiệu với đối
tượng. Vì mỗi ký hiệu có thể sinh ra một diễn giải, cho nên sự diễn giải là q
trình khơng có hồi kết.
Peirce lý luận : Nếu cho rằng có một sự diễn giải sau chót, hết sức phức
tạp có thể vắt kiệt nghĩa của một đối tượng cụ thể, thì sự diễn giải ấy chỉ có thể là
chính đối tượng hiện lên trong ý thức của chúng ta chứ không thể là một cái gì
khác. Nhưng một đối tượng như thế, cũng hệt như một ký hiệu như thế - giống
như những thứ đồng nhất với nhau về phương diện vật lý – khơng thể có, khơng
thể tồn tại. Cho nên sự diễn giải là bất tận. Semiosis là quá trình giải thích ký
hiệu đầy năng động, là phương thức hoạt động khả hữu duy nhất của nó.


×