1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN BÁ THẮNG
M· sè:
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN BẢO TỒN, PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HÓA Ở BẮC NINH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Hà Nội - 2011
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN BÁ THẮNG
M· sè:
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN BẢO TỒN, PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HÓA Ở BẮC NINH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
CHUYÊN NGÀNH: CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
MÃ SỐ: 60 31 25
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Phạm Văn Chúc
Hà Nội - 2011
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
số liệu, thơng tin và kết quả được nêu trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nghiên cứu khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Bá Thắng
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN BẢO TỒN, PHÁT HUY DSVH ................................. 14
1.1 Những khái niệm cơ bản ...................................................................... 14
1.2 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả cơng tác tuyên truyền bảo tồn, phát
huy DSVH................................................................................................... 39
1.3 Những nhân tố tác động đến hiệu quả công tác tuyên truyền bảo tồn,
phát huy DSVH .......................................................................................... 44
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ....... 49
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN BẢO TỒN, PHÁT HUY
DSVH Ở BẮC NINH HIỆN NAY.............................................................. 49
2.1 Đặc điểm môi trường tự nhiên, kinh tế-xã hội và DSVH ở Bắc Ninh 49
2.2 Thực trạng hiệu quả công tác tuyên truyền bảo tồn, phát huy DSVH ở
Bắc Ninh hiện nay ...................................................................................... 56
2.3 Một số vấn đề rút ra từ thực trạng hiệu quả công tác tuyên truyền
bảo tồn, phát huy DSVH ở Bắc Ninh ........................................................ 80
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN BẢO TỒN, PHÁT HUY DSVH Ở BẮC
NINH HIỆN NAY ...................................................................................... 85
3.1 Phương hướng ...................................................................................... 85
3.2 Một số giải pháp cụ thể ........................................................................ 89
KẾT LUẬN............................................................................................... 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 113
PHỤ LỤC………………………………………………………………….117
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
5
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. CNH-HĐH
Cơng nghiệp hố – hiện đại hố
2. DSVH
Di sản văn hóa
3. Nxb CTQG
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
4. UBND
Ủy ban nhân dân
5. UNESCO
Ủy ban Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hợp quốc
6. VH-TT-DL
Văn hóa-Thể thao và Du lịch
7. VH-TT
Văn hóa-thơng tin
8. XHCN
Xã hội chủ nghĩa
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng chí Lê Duẩn, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh khi nói về cơng tác tư tưởng đã từng khẳng định: “Trong Đảng ta
khơng có ngành nào già bằng ngành tuyên huấn, từ khi có Đảng đã có nó rồi”
[18, tr 457]. Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, công tác tư tưởng cũng luôn
giữ vị trí quan trọng hàng đầu phục vụ cơng tác lãnh đạo của Đảng. Là một bộ
phận không thể tách rời của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền đã góp phần
to lớn trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến quần chúng
nhân dân, động viên và khích lệ nhân dân đấu tranh chống kẻ thù ngoại xâm, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội, cơng tác tun
truyền cũng đều đóng một vai trị quan trọng khơng thể thiếu. Lĩnh vực văn hóa và
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa (DSVH) ở nước ta hiện nay cũng không tách rời
công tác tuyên truyền. Lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử của dân tộc Việt
Nam nói riêng đã chứng minh rằng, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể
hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển và sự trường tồn của một dân tộc.
Có thể nói, văn hóa là một trong những nhân tố quan trọng góp phần hình thành
nên lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa của dân tộc là một trong những nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, toàn dân
ta. DSVH rất phong phú, đa dạng và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Nghị
quyết Trung ương 5, Khóa VIII khẳng định: “DSVH là tài sản vô giá, gắn kết
cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị
mới và giao lưu văn hóa” [14, tr 62]. Vì vậy, phải coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống cũng như văn hóa cách mạng; coi trọng việc
nghiên cứu, giáo dục đạo lý của dân tộc mà cha ông để lại.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
7
Trong số các địa phương của cả nước, tỉnh Bắc Ninh là một miền quê
giàu truyền thống văn hoá và hiện cịn lưu giữ nhiều DSVH có giá trị, nổi
tiếng ở trong và ngoài nước. Bắc Ninh-Kinh Bắc nằm ở trung tâm châu thổ
sơng Hồng, có núi sơng hùng vĩ, ruộng đồng bờ bãi phì nhiêu, là đất “địa linh
nhân kiệt” sinh ra nhiều nhân tài cho quê hương, đất nước. Người Bắc Ninh
sớm có truyền thống yêu nước, đánh giặc, cần cù, chịu khó, hay lam hay làm.
Bản sắc văn hoá của đất Kinh Bắc-Bắc Ninh thể hiện đậm nét ở truyền thống
hiếu học khoa bảng, ở những huyền thoại, truyền thuyết, giai thoại, thơ ca, hị
vè… Chính mảnh đất này đã nảy nở những loại hình nghệ thuật như: hát đúm,
hát ghẹo, hát ví, hát tuồng, chèo, trống quân, ả đào, ca trù, múa rối và đặc biệt
là dân ca quan họ. Phát huy địa thế của quê hương, truyền thống của ông cha,
các thế hệ người Bắc Ninh ln chịu thương chịu khó, hiếu học, u nước,
đánh giặc và đã góp phần to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Tất
cả những truyền thống tốt đẹp, q báu đó đã ni dưỡng tâm hồn mỗi con
người miền quan họ, làm nên một bản sắc văn hoá rất riêng của xứ sở Kinh
Bắc-Bắc Ninh.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong phát triển văn hố thì ở thời
điểm hiện nay, nhiều DSVH ở Bắc Ninh cũng đang đứng trước nhiều thách
thức to lớn trong việc gìn giữ những nét đẹp truyền thống do ảnh hưởng tiêu
cực của cơ chế thị trường. Mặt khác, ý thức bảo tồn và phát huy DSVH của
người dân trong tỉnh còn khá thấp, chưa kể một bộ phận trong số đó, vì lợi ích
kinh tế trước mắt, đã và đang xâm hại các DSVH ở ngay chính q hương
mình. Bắc Ninh phấn đấu đến năm 2015 trở thành một tỉnh công nghiệp nhưng
cũng không quên nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, bởi xét cho
cùng thì chính những DSVH mới làm nên phần hồn, làm nên cốt cách và bản
sắc của mảnh đất và con người Bắc Ninh. Bảo tồn và phát huy DSVH là một
nhiệm vụ quan trọng của tồn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân và cần phải
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
8
thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
bảo tồn và phát huy DSVH chính là một trong số những giải pháp đó.
Thời gian qua, do nhận thức được vai trò cũng như tầm quan trọng của
DSVH và công tác bảo tồn, phát huy giá trị của DSVH, đảng bộ, chính quyền
và nhiều ban ngành, đồn thể ở Bắc Ninh đã tích cực triển khai sâu rộng công
tác tuyên truyền với nhiều nội dung, hình thức, phương pháp khác nhau và thu
được những thành tựu to lớn. Điển hình là năm 2010, dân ca quan họ Bắc
Ninh đã vinh dự được tổ chức Uỷ ban Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của
Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là DSVH phi vật thể của nhân loại.
Tuy nhiên, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, công tác
tuyên truyền bảo tồn và phát huy DSVH ở Bắc Ninh vẫn còn một số hạn chế,
bất cập và hiệu quả chưa cao. Cụ thể là việc triển khai hoạt động tuyên truyền ở
các địa phương trong tỉnh chưa thường xuyên, liên tục; đội ngũ cán bộ chun
trách về văn hóa, văn nghệ cịn thiếu và hoạt động chưa hiệu quả; hình thức và
phương pháp tuyên truyền đơi lúc cịn đơn điệu, chậm đổi mới; sự phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan ban, ngành và các đồn thể chính trị-xã hội trong cơng tác
tun truyền tuy đã có nhưng chưa đồng bộ, gắn kết, chưa đáp ứng yêu cầu đề
ra… Phát huy hơn nữa các điều kiện thuận lợi và những thành tựu đạt được,
đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót để nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền thực sự là một yêu cầu quan trọng nhằm phục vụ cho hoạt động bảo
tồn, phát huy DSVH ở Bắc Ninh. Do vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Hiệu quả
công tác tuyên truyền bảo tồn, phát huy DSVH ở Bắc Ninh hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành công tác tư tưởng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cơng tác tư tưởng nói chung và cơng tác tun truyền nói riêng là một
hoạt động trọng yếu của Đảng trên mặt trận tư tưởng văn hoá, do vậy đã trở
thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và nhất là các cán bộ tư
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
9
tưởng. Đã có nhiều bài viết, nhiều cơng trình nghiên cứu về công tác tuyên
truyền được xuất bản thành sách và cơng bố trên nhiều báo, tạp chí khác nhau.
Có thể kể ra như:
+ Giáo trình Nguyên lý tuyên truyền do tập thể giảng viên khoa Tuyên
Truyền, Học viện Báo chí và Tuyên truyền biên soạn.
+ PGS.TS Lương Khắc Hiếu (chủ biên) với cuốn giáo trình Ngun lý
Cơng tác tư tưởng, Nxb CTQG, 2008.
+ Bùi Phương Dung (Trung Quốc): Công tác tuyên truyền tư tưởng trong
thời kỳ mới, Trần Khang và Lê Cự Lộc dịch, Nxb CTQG, 2005.
+ Tác giả Nguyễn Vân với bài “Tun truyền chính trị trước địi hỏi và
thách thức mới” (Tạp chí Tư tưởng – Văn hóa, số 10/1993).
+ PGS.TS Tơ Huy Rứa, PGS.TS Lương Khắc Hiếu với bài Đào tạo cán
bộ tuyên truyền bậc đại học theo mơ hình mới (Tạp chí Tư tưởng – Văn hóa,
số tháng 1/1994).
+ PGS.TS Hồng Quốc Bảo với cuốn sách Học tập phương pháp tuyên
truyền cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008.
Ngồi ra cịn một số cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học khác.
Có thể nói, các nghiên cứu này đã xây dựng một hệ thống lý thuyết khá hồn
thiện về cơng tác tun truyền. Tuy nhiên, những bài viết, những cơng trình
nghiên cứu về một vấn đề cụ thể như đề tài tác giả đã chọn thì chưa nhiều.
Về DSVH và bảo tồn, phát huy DSVH, đây là một hoạt động quan
trọng nhằm xây dựng nền “văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn
hóa dân tộc”, do vậy có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã quan tâm
tìm hiểu về lĩnh vực này. Một số tác giả và cơng trình tiêu biểu như:
Trong Hội nghị quốc tế “Bảo vệ DSVH vật thể và phi vật thể: Hướng đến
Phương pháp tiếp cận tổng thể” tổ chức tại Nara, Nhật Bản từ 19 đến 23-10-2004,
Tuyên bố Yamato về Phương pháp tiếp cận tổng thể trong bảo vệ DSVH vật thể và
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
10
phi vật thể đã được thông qua. Với bản Tuyên bố này, các quan niệm về DSVH đã
được nhân loại định nghĩa cụ thể trên phương diện lý luận theo Công ước và Quy
chế của UNESCO.
+ Ở nước ta, nghiên cứu về DSVH trước tiên phải kể đến cơng trình
Việt Nam Văn hoá sử cương của học giả Đào Duy Anh từ năm 1938.
+ Năm 1997, GS,TS. Hoàng Vinh hoàn thành cuốn sách Một số vấn đề
về bảo tồn và phát triển DSVH dân tộc. Trên cơ sở những quan niệm DSVH
của quốc tế và Việt Nam, tác giả đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH,
đồng thời bước đầu vận dụng nghiên cứu DSVH nước ta.
+ Trong sách Bảo vệ DSVH phi vật thể do Bộ Văn hố-Thể thao và Du lịch
phát hành năm 2007, GS,TS. Ngơ Đức Thịnh (nguyên Viện trưởng viện Văn hoá
dân gian) đã bàn đến Văn hoá phi vật thể: Bảo tồn và phát huy. Trưởng Ban Di
sản phi vật thể, Văn phòng UNESCO Pari - ông Rieks Smeets đã nghiên cứu về
Bối cảnh, nhận thức và q trình xây dựng Cơng ước về bảo vệ DSVH phi vật thể.
Tổng giám đốc ACCU - ơng Sato Kunio đề cập đến Các chương trình của ACCU
và tầm nhìn về bảo vệ DSVH phi vật thể. Hai nhà nghiên cứu Trung Quốc là Cố
Quân và Uyển Lợi nghiên cứu về Bảo vệ DSVH phi vật thể và những quy tắc nên
theo. Partrik J. Bolyan nghiên cứu DSVH phi vật thể, cơ hội và thách thức đối với
Bảo tàng và công tác đào tạo cán bộ chun mơn bảo tàng.
+ Cơng trình Một con đường tiếp cận DSVH do Bộ Văn hố-Thơng tin (nay là
Bộ Thơng tin và Truyền thông) phát hành năm 2006 đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu
về DSVH, cả lý luận cũng như thực tiễn, có thể làm tư liệu nghiên cứu tốt cho đề tài.
+ Sách Giữ gìn, phát huy DSVH các dân tộc Tây Bắc do NXB Văn hoá Dân
tộc - Tạp chí Văn hố nghệ thuật phát hành có thể giúp người đọc nhận diện một số
vấn đề lý luận về DSVH.
+ Trên Tạp chí Cộng sản số 20, năm 2003, PGS, TS. Nguyễn Văn Huy
đã có nhiều cố gắng nghiên cứu Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những
DSVH các dân tộc hiện nay.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
11
+ Cùng hướng nghiên cứu này, Ngô Phương Thảo viết bài Bảo vệ di sản,
cuộc chiến từ những góc nhìn đăng ở Tạp chí Văn hố nghệ thuật số 289,
tháng 7-2008. Bài viết đã đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay.
+ Luật DSVH năm 2001, Sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Lao động, Hà Nội 2009.
+ Tác giả Thanh Bình: Những quy định pháp luật về bảo vệ DSVH, Nxb
Lao động, Hà Nội, 2002
+ Tác giả Nguyễn Đình Thanh (Chủ biên) với cuốn sách DSVH– Bảo tồn
và phát triển, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
Nghiên cứu về văn hố và DSVH ở Bắc Ninh, có một số cơng trình tiêu biểu như:
+ TS Trần Đình Luyện: “Tìm hiểu DSVH, văn nghệ dân gian thời Lý ở
Bắc Ninh”, Báo cáo Hội thảo khoa học “Đề tài nghiên cứu văn nghệ dân gian
Bắc Ninh chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, 27-8-2009.
+ Đỗ Trọng Vỹ, Nguyễn Thị Thảo hiệu đính; Đỗ Tuấn Anh dịch: Bắc
Ninh dư địa chí, Nxb Văn hóa thơng tin, 1997
+ Trần Quốc Thịnh: Quần thể văn hóa Phả Lại - Đại Phúc, Nxb Văn hóa
dân tộc, 2000.
+ Nguyễn Đăng Duy, Nguyễn Duy Nhất: Văn hóa quê hương nhà Lý,
Nxb Hà Nội, 1999.
+ Cao Minh: Bảo tồn di sản quan họ - phát huy vai trò chủ thể của người
dân, Báo Sài Gịn giải phóng, 2-2010.
Các nghiên cứu trên đều đi sâu tìm hiểu các giá trị DSVH ở Bắc Ninh,
cịn cơng tác tun truyền bảo tồn và phát huy DSVH thì hầu như chưa có
nghiên cứu nào. Do vậy đề tài luận văn của tác giả là khá mới mẻ và không
trùng lặp với những nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trong q trình nghiên cứu đề tài, mục đích của tác giả là vận dụng những
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
12
kiến thức chuyên ngành đã được học về công tác tuyên truyền để tìm hiểu, khảo
sát, đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền bảo tồn, phát huy DSVH ở Bắc
Ninh, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.
3.2 Nhiệm vụ
Để triển khai đề tài, luận văn cần giải quyết một số nhiệm vụ đó là:
+ Làm rõ cơ sở lý luận về công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy
DSVH trong giai đoạn hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy DSVH
ở Bắc Ninh thời gian qua.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy DSVH ở Bắc
Ninh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả công tác tuyên truyền bảo tồn và phát
huy DSVH ở Bắc Ninh trong thời gian vừa qua cùng các giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
4.2 Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là công tác tuyên truyền bảo tồn, phát
huy DSVH của cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức chính tri - xã hội ở
Bắc Ninh từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quản điểm của Đảng về công tác
tuyên truyền và bảo tồn, phát huy DSVH; đồng thời có sự kế thừa, vận dụng
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
13
một số kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan đã được
cơng bố ở nước ta.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp khác nhau,
cụ thể là: phương pháp logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, thống kê, so
sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học… và các phương pháp chuyên
ngành khác.
6. Đóng góp của luận văn
6.1 Về mặt lý luận
Luận văn góp phần là sáng tỏ hơn các khái niệm về cơng tác tun
truyền và DSVH, phân tích làm nổi bật vai trò của DSVH trong sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội và sự cần thiết phải bảo tồn cũng như phát huy
DSVH ở nước ta, vai trị của cơng tác tuyên truyền trong việc bảo tồn, phát
huy các DSVH.
6.2 Về mặt thực tiễn
Trong khả năng của mình, tác giả cố gắng đề cập một cách khái quát các
DSVH ở Bắc Ninh, thực trạng công tác bảo tồn và phát huy DSVH và đặc biệt là
công tác tuyên truyền nhằm bảo tồn và phát huy các DSVH ở Bắc Ninh hiện nay.
Bước đầu đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần đẩy mạnh cơng tác
tun truyền bảo tồn và phát huy DSVH ở Bắc Ninh hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn có 3
chương, 8 tiết
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
14
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN BẢO TỒN, PHÁT HUY DSVH
1.1 Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Bảo tồn, phát huy DSVH
1.1.1.1 Văn hóa và DSVH
- Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Văn
hóa bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao
gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư
tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương
tiện... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn
hóa. Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại
học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164
định nghĩa khác nhau về văn hóa. Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh
vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học, dân gian học, địa văn hóa học,
văn hóa học, xã hội học... Trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó, định nghĩa về
văn hóa cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn hóa tương đối nhiều và cách
tiếp cận cũng khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các định nghĩa về văn
hóa cũng rất phong phú.
Năm 2002, trong Tuyên bố chung về tính đa dạng văn hóa, UNESCO đã
đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau:
Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc
trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay
một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngồi văn học và
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
15
nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,
truyền thống và đức tin.
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng:
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
của mình. [47, tr.27]
Năm 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức xử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
địi hỏi của sự sinh tồn. [32, tr.431]
Ở khái niệm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một số những sản
phẩm do con người sáng tạo ra, trong đó có văn hố vật thể (những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở…), có văn hố phi vật thể (ngơn ngữ,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật). Những sản phẩm
do con người phát minh ra mà Chủ tịch Hồ Chí Minh liệt kê nêu trên phải là
những sản phẩm nhằm phục vụ cho con người, có nghĩa là chứa đựng những
giá trị. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một khái niệm văn hố theo
nghĩa rộng.
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con
người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Trong ý nghĩa rộng nhất:
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
16
Văn hóa hơm nay là có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh
thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ
thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín
ngưỡng: văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản
thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc
biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo
lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản
thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem
xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết mệt những ý
nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những cơng trình vượt trội.
(Tun bố về những chính sách văn hóa, Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ
trì, 8-1982, Mê-hi-cơ.)
- Di sản văn hóa
Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước, nhân dân hết sức quan tâm tới
vấn đề giữ gìn các DSVH dân tộc, tạo điều kiện để làm sống dậy mọi tiềm
năng văn hóa như là một nguồn lực nội sinh mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), đã nêu rõ
DSVH là gì và khẳng định nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các DSVH trong bối
cảnh mới ở nước ta:
DSVH là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản
sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa.
Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả
văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Di sản là cái của thời trước để lại [35, tr. 254].
DSVH theo nghĩa Hán Việt là những tài sản văn hóa có giá trị của quá khứ còn tồn
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
17
tại trong cuộc sống đương đại và tương lai. Di là để lại, còn lại, dịch chuyển,
chuyển lại. Sản là tài sản, là những gì q giá, có giá trị. DSVH được hiểu
bằng sự tổng hợp của các ý nghĩa nói trên. Năm 1983, Hội nghị Di sản tồn
quốc của Vương quốc Anh đã định nghĩa: “di sản là những gì thuộc về thế hệ
trước giữ gìn và chuyển giao cho thế hệ hiện nay và những gì mà một nhóm
người quan trọng trong xã hội hiện nay mong muốn chuyển giao cho thế hệ
tương lai”. [41, tr.20]
Đại hội đồng Tổ chức UNESCO, họp phiên thứ 32 tại Paris từ 29-9 đến
17-10-2003 đã bàn thảo và ra Công ước về bảo vệ DSVH phi vật thể. Công ước
đã ghi nhận: Các q trình tồn cầu hóa và chuyển đổi cơ cấu xã hội cùng với
các điều kiện khác đã tạo nhiều cơ hội đối thoại mới giữa các cộng đồng, đồng
thời cũng làm nảy sinh những mối đe dọa về sự suy thoái biến mất và hủy hoại
các DSVH phi vật thể. Theo Công ước về việc bảo vệ DSVH và di sản thiên
nhiên của thế giới, DSVH được hiểu: Một là, các di tích bao gồm các cơng
trình kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ hoành tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính
chất khảo cổ, các văn bản, các hang động và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế
đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học. Hai là, các quần thể
gồm các nhóm cơng trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị
quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do kiến trúc,
sự thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hoá của chúng vào cảnh quan. Ba là,
các thắng cảnh bao gồm các cơng trình của con người hoặc những cơng trình
của con người kết hợp với các cơng trình của tự nhiên, cũng như các khu vực,
kể cả các di chỉ khảo cổ học, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử,
thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.
Luật DSVH của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam
xác định: “DSVH bao gồm DSVH phi vật thể và DSVH vật thể, là sản phẩm
tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
18
hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” [29, tr.17]. Nhiều
nhà khoa học xã hội, những người làm cơng tác quản lý văn hóa cũng đã thống
nhất rằng: DSVH là sản phẩm sáng tạo trong quá trình hoạt động của con
người nhằm vươn tới đỉnh cao giá trị chân-thiện-mỹ. DSVH Việt Nam là sự
kết tinh của mối quan hệ tổng hòa và tương tác giữa mơi trường-con ngườivăn hóa, là sự vươn lên những thách thức khốc liệt bằng sự kiên trì, lịng dũng
cảm, trí thông minh và khát vọng vươn tới tầm cao của nhân loại, là tấm lòng
bao dung, sự kết hợp giữa việc bảo tồn bản sắc riêng của mình với sự thích
ứng và tiếp thu những giá trị của các nền văn hóa khác.
DSVH là tài sản của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau theo hướng tích
lũy ngày càng phong phú trong mơi trường văn hóa. Sự tích lũy và kinh
nghiệm hoạt động của nhiều thế hệ đã góp phần tạo ra sự phong phú, có chất
lượng và mang giá trị nhân văn cao. DSVH tồn tại như một thực thể khách
quan, bởi nó ln gắn kết yếu tố truyền thống với hiện tại. Luật DSVH được
Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 9, tháng 6-2001 khẳng định DSVH Việt Nam là
tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của
DSVH nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của
nhân dân ta.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
chủ trương, đường lối và chính sách bảo vệ và phát huy giá trị DSVH nhằm nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước. DSVH Việt Nam khi được bảo tồn, kế thừa và phát huy sẽ có tác dụng tích
cực trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam đương đại, kết hợp với quá
trình đẩy mạnh CNH-HĐH, phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Phân loại DSVH
Phân loại sự vật và hiện tượng là một trong những cách nhận thức và
thâu tóm bản chất của sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội đa dạng, phong
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
19
phú. Phân loại DSVH là một nhu cầu chính đáng trong nghiên cứu. Theo quan
niệm của UNESCO, DSVH bao gồm hai loại:
DSVH vật thể được hiểu là những sản phẩm văn hóa có thể “sờ thấy
được”. Văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ yếu dưới
dạng vật thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét,
màu sắc, kiểu dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. DSVH vật
thể được tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử rõ rệt.
Văn hóa vật thể được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể ngoài bản thân
con người. DSVH vật thể luôn chịu sự thách thức của quy luật bào mòn của
thời gian, trong sự tác động của con người thời đại sau. DSVH vật thể đứng
trước nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi so với nguyên gốc. Hiện nay, vấn đề
bảo tồn những DSVH vật thể lâu đời đòi hỏi cơng nghệ kỹ thuật cao mới có
thể phục ngun lại như cũ.
DSVH phi vật thể là dạng thức tồn tại của văn hóa khơng phải chủ yếu
dưới dạng vật thể có hình khối trong khơng gian và thời gian mà nó tiềm ẩn
trong trí nhớ, ký ức cộng đồng, tập tính, hành vi ứng xử của con người và
thơng qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội
mà thể hiện ra. Từ đó người ta có thể nhận biết được sự tồn tại của “văn hóa
phi vật thể”. Đặc trưng rõ nhất của “văn hóa phi vật thể” là nó ln tiềm ẩn
trong tâm thức của một cộng đồng xã hội và chỉ bộc lộ ra qua hành vi và hoạt
động của con người. “Văn hóa phi vật thể” được lưu giữ trong thế giới tinh
thần của con người và thông qua các hình thức diễn xướng.
DSVH phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện,
biểu đạt tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là các cơng cụ, đồ vật, đồ tạo tác và
các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm và một số
trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần DSVH của họ. Được
chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, DSVH phi vật thể được các cộng
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
20
đồng và nhóm khơng ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan
hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành
trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tơn trọng
đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người.
Trên cơ sở đồng thuận với quan niệm của UNESCO, Luật DSVH của
Việt Nam phân loại DSVH như sau:
“DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao
gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn
truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về
nghề thủ cơng truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm
thực, về trang phục truyền thống dân tộc...
DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
bao gồm các di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia. Giá trị đặc biệt quý hiếm của bảo vật quốc gia được thể hiện
bằng các tiêu chí sau: Thứ nhất, hiện vật nguyên gốc, độc bản. Thứ hai, hình
thức độc đáo. Thứ ba, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học thể hiện
là vật chứng của một sự kiện lớn hoặc gắn bó với cuộc sống, sự nghiệp của
anh hùng dân tộc, danh nhân kiệt xuất; là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá
trị tư tưởng-nhân văn, thẩm mỹ và hình thức thể hiện tiêu biểu cho một
khuynh hướng, một phong cách, một thời đại; là sản phẩm được phát minh,
sáng chế tiêu biểu có giá trị thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát
triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Thứ tư, được Thủ tướng Chính phủ
quyết định cơng nhận sau khi có ý kiến của thẩm định của Hội đồng DSVH
Quốc gia” [29, tr. 46].
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
21
1.1.1.2 Bảo tồn DSVH
DSVH tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những vùng miền,
những tộc người khác nhau. Sự đa dạng, giàu có của DSVH Việt Nam khơng
chỉ bởi dân tộc ta đã có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước; không
chỉ bởi nước ta hội tụ sự đặc sắc văn hóa của 54 tộc người... mà còn bởi mỗi
vùng miền, mỗi tộc người đều cố gắng bảo tồn những sắc thái văn hóa, những
truyền thống văn hóa lâu đời của riêng mình để góp chung vào kho tàng
DSVH của dân tộc và nhân loại. DSVH của từng tộc người, của cả dân tộc cần
được bảo tồn, cần được làm sống dậy tiềm năng to lớn của nó để góp phần vào
sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là cơng
việc hết sức cần thiết, hết sức có ý nghĩa, bởi nếu khơng có giải pháp bảo tồn,
phát huy một cách thiết thực, có hiệu quả thì nhiều DSVH, cả vật thể và phi
vật thể, sẽ nhanh chóng bị hủy hoại bởi thời gian, bởi môi trường thiên nhiên
khắc nghiệt, bởi mặt trái của tồn cầu hóa và thị trường hóa...
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “bảo tồn là giữ lại khơng để cho mất đi”,
cịn “phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác dụng và tiếp tục nảy nở
thêm”. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng
thức vốn có của nó. Bảo tồn là không để mai một, “không để bị thay đổi, biến
hóa hay biến thái”. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, khơng có khái
niệm “cải biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển”. Hơn nữa, khi nói đối tượng bảo
tồn “phải được nhìn là tinh hoa”, chúng ta đã khẳng định giá trị đích thực và
khả năng tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau
của đối tượng được bảo tồn.
Trong nghiên cứu, cũng như trong hoạt động bảo tồn thường bắt gặp
ba từ: bảo quản, bảo vệ và bảo tồn. Bảo quản mang nghĩa sử dụng những
biện pháp kỹ thuật để gìn giữ, chăm sóc đối tượng được nguyên vẹn tồn tại
lâu dài [22, tr.21]. Bảo vệ chứa đựng nội dung thực hành các hoạt
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
22
động mang tính chất pháp lý hay nói cách khác bảo vệ là “giữ không để cho
bị xâm phạm”[47, tr.589].
Bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là hoạt động giữ gìn một cách an toàn
khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại hay nói cách khác bảo tồn có
nghĩa là bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự xuống cấp của
kết cấu đó. Như vậy, bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử
hình thành, ý nghĩa của DSVH nhằm bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài về
vật chất cho DSVH và khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày,
khôi phục và tôn tạo lại để khai thác khả năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ
của xã hội. Công tác bảo tồn DSVH có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm các
hoạt động như: Bảo tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục hồi, tái
tạo-làm lại, quy hoạch bảo tồn.
Trong tiến trình lịch sử, hoạt động bảo tồn DSVH xuất hiện ngay từ khi
con người ý thức được giá trị của DSVH trong đời sống, đồng thời hiểu được mối
nguy hại do tác động của thiên nhiên và chính con người gây ra. Họ đã khơng
ngừng tìm kiếm các biện pháp bảo tồn, trong lịch sử bảo tồn theo cơ sở khoa học
được hình thành và phát triển từ Pháp vào giữa thế kỷ 19. Cho đến vài thập kỷ
gần đây bảo tồn DSVH trở thành mối quan tâm của nhiều giới khoa học và là
điểm nóng chú ý của xã hội. Theo thống kê của Dư Nguyệt có ngày từ “bảo tồn
DSVH” xuất hiện trên mạng lên tới 482.000 trang web [42, tr.141].
Ở nhiều nước, bảo tồn DSVH trở thành một ngành học có tính chun
mơn cao, người ta áp dụng các quy tắc chung về bảo tồn theo các quy ước
chung của cộng đồng quốc tế như:
Năm 1954, UNESCO đưa ra nghị định về bảo tồn DSVH.
Năm 1964, tổ chức ICOMOS cho ra đời hiến chương Venice về bảo tồn
và trùng tu di tích, di chỉ. Hiến chương này nhấn mạnh việc bảo tồn địi hỏi
phải giữ gìn tính ngun gốc, có nghĩa khơng được phép làm thêm hay bớt đi
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
23
mà phải bảo tồn nguyên vẹn. Khi hãy còn là một khung cảnh truyền thống thì
khung cảnh đó phải được bảo vệ. Khơng một cơng trình xây dựng gì mới, một
sự phá hoại hoặc sửa sang nào mà làm biến đổi mối tương quan giữa khối hình
và màu sắc được phép tiến hành.
Năm 1972, Công ước về việc bảo tồn các DSVH và thiên nhiên thế giới
do UNESCO đề xướng và khởi thảo chính thức có hiệu lực dựa trên tinh thần
tôn trọng Hiến chương Venice.
Năm 1981, Hiến chương Burra ra đời nhằm bổ sung thêm cho hiến
chương Venice, chủ chương xử lý thận trọng sự thay đổi: làm mọi việc cần
thiết để bảo tồn di sản, song mặt khác càng ít thay đổi càng tốt để di sản giữ
được tối đa giá trị văn hóa của nó.
Năm 1994, Văn kiện Nara về tính nguyên gốc đã nhấn mạnh tính đa
dạng văn hóa và đa dạng di sản, tùy theo tính chất của DSVH, bối cảnh văn
hóa của di sản đó và sự biến chuyển của nó trong thời gian mà phán xét về tính
ngun gốc có thể được gắn với một loạt các nguồn thông tin khác nhau. Các
dạng thơng tin có thể bao gồm hình thức và thiết kế, vật liệu và chất liệu, cách
sử dụng và chức năng, truyền thơng và kỹ thuật, vị trí và nơi dựng lập, tinh
thần và cách thực hiện, những yếu tố bên trong và bên ngoài di sản. Việc sử
dụng những nguồn thơng tin đó sẽ cho phép dựng lên được các chiều kích
nghệ thuật, lịch sử, xã hội và khoa học của DSVH được khảo sát. Văn kiện mở
ra một con đường mới, lối suy nghĩ thoáng hơn và linh hoạt hơn tùy theo tính
chất, hồn cảnh cụ thể để mà phán xét về tính nguyên gốc của DSVH. Tuy
nhiên văn kiện Nara vẫn khẳng định vị trí khơng thể thay đổi của hiến chương
Venice về tính nguyên gốc của DSVH. Đối tượng bảo tồn cần thỏa mãn hai
điều kiện:
- Một là, nó phải được nhìn là tinh hoa, là một “giá trị” đích thực được
thừa nhận minh bạch, khơng có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
24
- Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu
dài (tức là có giá trị lâu dài, có thể “trơ gan cùng tuế nguyệt”) trước những
biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay với chính sách mở cửa và bối cảnh nền
kinh tế thị trường và q trình tồn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sôi động.
Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng “tĩnh”). Bảo tồn nguyên vẹn
văn hóa vật thể ở dang “tĩnh” là vận dụng thành quả khoa học kỹ thuật công
nghệ cao, hiện đại đảm bảo giữ nguyên trạng hiện vật như sự vốn có về kích
thước, vị trí, đường nét màu sắc, kiểu dáng. Khi cần phục nguyên các DSVH
vật thể cần sử dụng hiệu quả các phương tiện kỹ thuật như: đồ họa kỹ thuật vi
tính cơng nghệ 3D theo khơng gian ba chiều; chụp ảnh, băng hình video; xác
định trọng lượng, thành phần chất liệu của DSVH vật thể. Sau khi tiến hành
bảo tồn nguyên vẹn, phải so sánh đối chiếu số liệu với nguyên mẫu đã được
lưu giữ chi tiết để không làm biến dạng DSVH vật thể.
Bảo tồn DSVH phi vật thể ở dạng “tĩnh” là tiến hành điều tra sưu tầm,
thu thập các dạng thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa
học nghiêm túc chặt chẽ, “giữ” chúng trong sách vở, các ghi chép, mơ tả bằng
băng hình, băng tiếng, ảnh... Tất cả các hiện tượng văn hóa phi vật thể này có
thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các viện bảo tàng.
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng “động”). Bảo tồn
“động”, tức là bảo tồn các hiện tượng văn hóa trên cơ sở kế thừa. Các DSVH
vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần giữ gìn những nét cơ bản của di tích, cố
gắng phục chế lại nguyên trạng DSVH vật thể bằng nhiều kỹ thuật công nghệ
hiện đại. Đối với các DSVH phi vật thể, bảo tồn “động” trên cơ sở kế thừa là
bảo tồn các hiện tượng văn hóa đó ngay chính trong đời sống cộng đồng. Bởi
lẽ, cộng đồng không những là môi trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa
phi vật thể mà cịn là nơi tốt nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm giàu và phát huy văn
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
25
hóa phi vật thể trong đời sống xã hội theo thời gian. Các hiện tượng văn hóa
phi vật thể tồn tại trong ký ức cộng đồng, nương náu trong tiếng nói, trong các
hình thức diễn xướng, trong các nghi lễ, nghi thức, quy ước dân gian.
Hoạt động bảo tồn theo cơ sở khoa học trải qua nhiều thay đổi, có thể
hiểu bảo tồn DSVH khơng có nghĩa là cố gắng giữ lại được càng nhiều càng
tốt những gì thuộc về quá khứ hoặc giữ nguyên trạng một cách cứng nhắc làm
cho di sản đóng băng và về lâu dài sẽ đưa đến sự xuống cấp, hủy hoại chúng.
Cũng khơng có nghĩa bảo tồn DSVH là được phép tự ý sửa chữa theo ý muốn
chủ quan của một cá nhân hay tập thể nào để dẫn đến tình trạng tự hủy hoại,
xuống cấp hoặc làm mất đi bản sắc riêng của mỗi di sản. Bảo tồn DSVH là
việc bảo vệ, gìn giữ những giá trị liên quan từ quá khứ đến hiện tại làm cho
DSVH đó lớn mạnh hơn, giàu có hơn và tất yếu cái được bảo tồn phải phù hợp
với thời đại để nó có thể tiếp tục song hành cùng xu hướng đi lên của cuộc
sống. Hoạt động bảo tồn DSVH phải tuân thủ những nguyên tắc nghiêm ngặt
mang tính thơng lệ được cộng đồng quốc tế chấp nhận thơng qua. Tuy nhiên,
trên thực tế có nhiều dự án trùng tu đã làm phá hoại DSVH hơn là bảo tồn.
Đặc biệt đối với các DSVH là các công trình kiến trúc, các vật liệu gốc được
thay thế bằng vật liệu mới. Các kỹ thuật hiện đại sử dụng trong cơng trình kiến
trúc cổ khơng mấy thành cơng đã phá hỏng vẻ đẹp vốn có của DSVH. Có
nhiều trường hợp vì mục đích giới thiệu với cộng đồng, nhằm làm thỏa mãn
nhu cầu về du lịch, thương mại hoặc các nhu cầu khác mà làm mất đi tính
nguyên gốc của DSVH. Quanh địa điểm của các cơng trình kiến trúc nhiều chỗ
phát triển mới khơng thích hợp: như việc xen lẫn các cơng trình hiện đại, kể cả
việc sử dụng công viên, cây xanh quá nhiều cũng làm mất đi giá trị ban đầu
của các di sản. Nhưng cũng có nhiều nơi bảo tồn di sản được thực hiện cách
rất nghiêm túc như ở Nhật Bản. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, Chính phủ đã có
những chính sách ưu tiên bảo tồn các cơng trình kiến trúc truyền thống (chùa,
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com