Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Thực hiện chính sách dân số của đảng cộng sản việt nam từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.99 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYấN TRUYN

NGUYN VN BN

thực hiện chính sách dân số của Đảng Cộng sản
Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010
Chuyờn ngành
Mã số

: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Hồ Sỹ Lộc

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI



11

1.1. Khái niệm dân số và chính sách dân số

11

1.2. Tầm quan trọng của vấn đề dân số và chính sách dân số

16

1.3. Khái quát việc thực hiện chính sách dân số của Đảng trước năm 2001

19

1.4. Kinh nghiệm thực hiện chính sách dân số của một số nước

28

Chương 2: CHÍNH SÁCH DÂN SỐ CỦA ĐẢNG VÀ QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN SỐ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

35

2.1. Chính sách dân số của Đảng và quá trình thực hiện chính sách
dân số từ năm 2001 đến năm 2006

35

2.2. Chính sách dân số của Đảng và quá trình thực hiện chính sách

dân số từ năm 2006 đến năm 2010

52

Chương 3: KHÁI QUÁT VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN SỐ
CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 2001 – 2010 VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM

84

3.1. Khái quát việc thực hiện chính sách dân số của Đảng từ năm

84

2001 đến năm 2010
3.2. Một số kinh nghiệm

88

KẾT LUẬN

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

96


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Dân số và sự tồn tại, phát triển của xã hội là hai vấn đề ln có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói đến vấn đề dân số khơng có nghĩa là chỉ nói
tới mặt số lượng mà cịn bao gồm mặt chất lượng của dân số. Cùng với việc
phát triển kinh tế - xã hội, con người cần phải điều chỉnh các xu hướng dân số
cho phù hợp với sự phát triển. Quy mô, cơ cấu dân số, tốc độ gia tăng dân số
và sự phân bố dân cư phù hợp sẽ tạo ra những tiền đề và động lực quan trọng
cho phát triển bền vững, ngược lại, sự gia tăng dân số không phù hợp sẽ tạo ra
những nhân tố cản trở việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội. Có thể
nói, dân số là cơ hội, đồng thời là thách thức đối với sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Vì vậy, bất cứ quốc gia nào cũng cần có một chính sách
dân số hợp lý để tạo ra một quy mô dân số “tối ưu”. Nghĩa là, vừa có thể đảm
bảo việc phát huy mọi nguồn lực cho sản xuất, tạo ra được nhiều nhất của cải
vật chất cho xã hội, mặt khác vừa có thể đảm bảo được sự kết hợp hài hòa
giữa sản xuất với tiêu dùng, tăng cường và thúc đẩy việc tích lũy cho tái sản
xuất mở rộng.
Nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân số trong sự
phát triển xã hội, ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta
đã rất quan tâm tới việc thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Từ đó đến nay, đặc biệt là từ năm 1993 (Đánh dấu bằng sự ra đời của Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa VII ngày 14/01/1993), đây là văn bản có tính chất quan trọng, làm
tiền đề cho những quyết sách về công tác dân số - kế hoạch hố gia đình sau
này của Đảng và Nhà nước. Có thể nhận thấy, ban đầu chúng ta mới chủ yếu
quan tâm tới vấn đề giảm sinh để ổn định quy mơ dân số, thì đến nay về cơ
bản chúng ta đã bắt đầu quan tâm được nhiều hơn tới chất lượng dân số, chất


2
lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp

luật của Nhà nước, qua gần 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ tư (khoá VII), với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số - kế hoạch hố gia
đình đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả quan trọng: nhận
thức của toàn xã hội đã có bước chuyển rõ rệt, quy mơ gia đình có một hoặc
hai con được chấp hành ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số đã được
khống chế. Kết quả cơng tác dân số - kế hoạch hố gia đình đã góp phần rất
quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình qn đầu
người hàng năm, xố đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân.
Với những thành tựu của cơng tác dân số - kế hoạch hố gia đình, năm 1999,
Việt Nam đã được nhận giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc.
Sau năm 2001 kết quả thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hố gia
đình chững lại và giảm sút. Từ khi Pháp lệnh Dân số ra đời năm 2003, trong
những năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng
mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên
tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, gây tác động tiêu cực đến phong trào
nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Tình hình này đã làm sai quy định
(trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có 2 con).
Ngun nhân chủ yếu của tình hình trên là do Đảng ta chưa nhận thức
đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của cơng tác này trong bối
cảnh kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thoả mãn với
những kết quả đạt được ban đầu, đã buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức bộ
máy và cán bộ làm cơng tác dân số - kế hoạch hố gia đình thiếu ổn định, quá
tải, quản lý kém hiệu quả, việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một số chính


3
sách liên quan đến vấn đề dân số thiếu chặt chẽ.
Trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội đất nước chưa phát triển, tình trạng

đói nghèo cịn nhiều, tài ngun thiên nhiên hạn hẹp, quy mô dân số hiện nay
khá lớn ước tính khoảng 87,84 triệu người (theo kết quả tổng điều tra Dân số
và Nhà ở vào năm 2011 của Tổng cục Thống Kê), mật độ dân số vào hàng
cao nhất thế giới (259 người/km² vào năm 2009), chất lượng dân số chưa
được cải thiện đáng kể… Do đó, việc tăng dân số nhanh trở lại sẽ phá vỡ
những thành tựu đạt được, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội và việc nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm chậm q trình cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và đặt nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn. Vì vậy,
trong kế hoạch từ 2001 - 2015 cần phải tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính
sách dân số - kế hoạch hố gia đình coi đây là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu.
Xuất phát từ tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn của cơng tác dân số - kế
hoạch hóa gia đình, với lịng mong muốn được góp một số ý kiến vào công
tác quan trọng này tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách dân số của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010” làm đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân số, chính sách dân số đã được các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu và những người quan tâm đề cập dưới các dạng khác nhau.
2.1. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ.... Cụ thể là:
- Luận án tiến sĩ Địa lý của Trần Thị Bích Hằng, “Vấn đề dân số - lao
động - việc làm Đồng bằng sông Hồng”, Hà Nội, 2000. Cơ sở lý luận, thực trạng
của mối quan hệ dân số - lao động - việc làm ở đồng bằng sông Hồng từ 1990
đến nay và đề xuất một số kiến nghị nhằm giải quyết mối quan hệ nói trên.


4
- Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Địa lý - Địa chất của Nguyễn Kim
Hồng, “Sự phát triển dân số và mối quan hệ của nó với phát triển kinh tế - xã
hội ở thành phố Hồ Chí Minh”, Hà Nội, 1994. Luận án đã tổng hợp hệ thống

các thông tin, lý luận và phát triển dân số và phát triển kinh tế - xã hội để làm
cơ sở phương pháp luận vận dụng vào thành phố Hồ Chí Minh. Mối quan hệ
giữa phát triển dân số và phát triển kinh tế xã hội, những sai biệt lãnh thổ về
dân số - kinh tế xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận án tiến sĩ Xã hội học của Dương Thị Bạch Kim, “Tác động của
truyền thông thay đổi hành vi đến phụ nữ giáo dân trong việc thực hiện chính
sách dân số - kế hoạch hóa gia đình: Qua nghiên cứu xã Kim Chính và xã
Cồn Thoi huyện Kim Sơn, Ninh Bình”, Hà Nội, 2003.
- Luận án tiến sĩ Xã hội học của Đặng Xuân Thao, “Mối quan hệ giữa
dân số và việc làm ở nông thôn đồng bằng sơng Hồng trong q trình cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa”, Hà Nội, 2000. Luận án đã chứng minh mối quan
hệ tương tác giữa dân số và việc làm ở nơng thơn đồng bằng sơng Hồng mang
tính quy luật chung của nhiều nền kinh tế bước sang cơ chế thị trường, mối
quan hệ này còn liên quan, ảnh hưởng đến nhiều yếu tố xã hội của cộng đồng
làng xã hoặc khu vực, quốc gia, nó cũng có tính đặc thù ở từng địa phương.
Nêu một số khuyến nghị về kiểm soát dân số cấp cơ sở.
- Luận án tiến sĩ Giáo dục của Đinh Thị Minh Tuyết, “Mối quan hệ đặc
trưng giữa sự gia tăng dân số và quy mô phát triển giáo dục phổ thông ở Việt
Nam”, Hà Nội, 2001. Tác giả đã hệ thống hoá và xác định tính quy luật trong
mối quan hệ giữa gia tăng dân số và quy mô phát triển giáo dục phổ thông.
Xác định đặc trưng của mối quan hệ này trong giai đoạn 1979 - 1999. Xu
hướng phát triển giáo dục phổ thông ở Việt nam và đề xuất một số giải pháp
nhằm điều tiết mối quan hệ đã nêu.


5
- Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Triết học của Nguyễn Quốc Triệu, “Sự
tác động của phong tục tập quán đến mức sinh và giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình ở Hà Nội”, Hà Nội,
1994. Luận án đã chỉ ra những phong tục tập quán ảnh hưởng đến mức sinh

cao và xem xét phạm vi, mức độ ảnh hưởng của những phong tục tập quán đó.
Các nhân tố tác động đến sự hình thành và biến đổi của phong tục, tập quán.
Những giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục ảnh hưởng của phong tục, tập quán
lạc hậu đến hiệu quả cơng tác.
- Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Kinh tế của Nguyễn Thiện Trưởng,
“Mối quan hệ giữa quản lý chương trình dân số kế hoạch hố gia đình với
các chính sách kinh tế ở nước ta”, Hà Nội, 1996. Luận án trình bày mối quan
hệ giữa chương trình dân số - kế hoạch hố gia đình và các chính sách qua các
thời kỳ: trước 1975, 1976 - 1984, 1985 - nay. Các giải pháp để giải quyết mối
quan hệ giữa chính sách dân số - kế hoạch hố gia đình với chính sách kinh tế
xã hội nói chung và hiệu quả của nó.
- Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Địa lý - Địa chất của Lê Văn Trưởng,
“Sự thay đổi dân số trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Thanh Hoá”, Hà
Nội, 1995. Luận án đã tổng kết, hệ thống hố những lí luận, mơ hình thay đổi
dân số và tác động của sự phát triển kinh tế xã hội tới dân số. Sự thay đổi dân số
Thanh Hoá và tác động của sự phát triển kinh tế xã hội theo từng thời kỳ.
- Luận án tiến sĩ Kinh tế của Ngô Văn Thứ, “Hệ thống mơ hình đánh
giá sự phù hợp của quá trình phát triển dân số - kinh tế Việt Nam”, Hà Nội,
2007. Luận án trình bày quan hệ kinh tế dân số và tiếp cận mơ hình hố q
trình dân số - kinh tế. Phân tích thực trạng quá trình biến động dân số Việt
Nam trong các thời kỳ phát triển kinh tế. Xây dựng mơ hình phù hợp của sự
phát triển dân số - kinh tế Việt Nam hiện nay.


6
2.2. Sách, tạp chí, báo:
- Bộ kế hoạch và đầu tư - Tổng cục Thống kê, “Điều tra biến động dân
số và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2011, các kết quả chủ yếu”, Hà Nội, 2011.
Trình bày kết quả cơ bản của cuộc điều tra cùng các phân tích về quy mơ và
cơ cấu dân số, tình trạng hơn nhân, kế hoạch hố gia đình và sức khoẻ sinh

sản, mức sinh, mức chết, di cư và các đặc trưng của di cư. Cung cấp những
biểu số liệu được tổng hợp từ cơ sở dữ liệu vi mô của cuộc Tổng điều tra dân
số và nhà ở và điều tra biến động dân số và kế hoạch hố gia đình.
- Dự án VIE/01/P14, “Cơ sở lý luận về dân số - phát triển và lồng ghép
dân số vào kế hoạch hoá phát triển”, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2005. Dự án
trình bày cơ sở lí luận về dân số - phát triển và giới thiệu một số vấn đề cơ
bản về lồng ghép dân số trong kế hoạch hoá phát triển.
- Phạm Đại Đồng, “Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến mức sinh ở
Việt Nam”: sách chuyên khảo, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2009.
Tác giả trình bày những vấn đề lí luận chung về mức sinh và các nhân tố ảnh
hưởng. Phân tích các vấn đề liên quan đến mức sinh ở Việt Nam với những số
liệu và thống kê cụ thể.
- Tống Văn Đường (chủ biên), Nguyễn Đình Cử, Phạm Quý Thọ,
Nguyễn Thị Thiềng, “Giáo trình dân số và phát triển”, Nxb. Nơng nghiệp,
2004. Các tác giả trình bày những kiến thức cơ bản về dân số và mối quan hệ
tác động qua lại giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội.
- Dỗn Đình Huề, “Thực trạng và giải pháp về dân số và kế hoạch hố
gia đình ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 01 - 2005. Tác giả
đã chỉ ra thực trạng về công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam
trong thời gian qua. Từ đó tác giả đã đề xuất những giải pháp để thực hiện tốt
công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở nước ta.
- Mai Hữu Khuê, Phùng Thế Trường, Bùi Văn Nhơn (chủ biên), “Chính


7
sách dân số và quản lý nhà nước về dân số - kế hoạch hố gia đình ở Việt Nam”,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995. Tác phẩm trình bày những vấn đề cơ bản
về dân số học, các chiến lược và các chính sách dân số. Những vấn đề cơ bản
trong quản lý nhà nước về dân số - kế hoạch hố gia đình ở Việt Nam.
- Trịnh Duy Luân, Bùi Thế Cường, Đặng Nguyên Anh.... “Dân số Việt

Nam qua các cơng trình nghiên cứu xã hội học”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, T.1, T.2 - 2009. Tuyển tập một số cơng trình nghiên cứu gần đây.
Nghiên cứu dân số ở Việt Nam, đặc điểm về vấn đề tử vong và di cư được
nhìn nhận, khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau qua các bìa viết xã hội học
dân số của các nhà nghiên cứu.
- Lê Hữu Nghĩa (chủ biên), Trần Văn Chiến, Trần Văn Chử... “Dân số
và phát triển một số vấn đề cơ bản”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
Các tác giả cung cấp những thông tin cơ bản về các vấn đề liên quan đến dân
số và phát triển: một số kiến thức nhân khẩu học; mối quan hệ giữa dân số với
các q trình phát triển kinh tế - văn hố - xã hội. Các tri thức về chính sách
dân số và quản lí chương trình dân số ở Việt Nam và trên thế giới.
- Đặng Kim Oanh, “Quá trình lãnh đạo công tác dân số của Đảng
Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 09 - 2005. Tác giả đã khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân số từ năm
1961 đến năm 2005 và những thành tựu đã đạt được.
- Trần Cao Sơn, “Bức tranh dân số thế giới và Việt Nam”, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1999. Tác giả nêu thực trạng và dự báo khái quát dân số
thế giới từ 1950 đến 2050 và tiến trình đơ thị hoá, sự tăng trưởng các thành phố
của thế giới cùng với những thành tựu, thách thức đối với dân số Việt Nam.
- Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Văn Đồn (chủ biên), Võ Thị Hồng
Loan.., “Một số nghiên cứu xã hội học về dân số (1991-2000)”, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. Một số vấn đề nghiên cứu về xã hội học dân số ở
Việt Nam (1991-2000): Sử dụng phương pháp xã hội học trong nghiên cứu
một số đề tài về dân số, đánh giá năm triển khai nghị quyết Trung ương 4 về


8
chính sách dân số - kế hoạch hố gia đình qua khảo sát cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện, xã, hội phụ nữ với công tác vận động kế hoạch hố gia đình.
- Lê Thị Thu, “Tiếp tục thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hố gia

đình trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng Sản, số 18 - 2005. Tác giả đã chỉ ra
những thành tựu về dân số trong quá trình Đảng lãnh đạo từ 1961 đến năm
2005. Từ đó tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm và những nhiệm vụ cần
phải thực hiện trong thời gian tới.
- Đặng Thu, “Một số vấn đề về dân số Việt Nam”, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1996. Tác giả đã chỉ ra các kết quả nghiên cứu về các vấn đề dân
số Việt Nam: tuổi thọ trung bình của dân số Việt Nam, trình độ phát triển của
các dân tộc ít người, ảnh hưởng của nạn chết đói, tổn thất dân số do chiến
tranh, hơn nhân và kế hoạch hố giai dình, chính sách dân số.
- Uỷ ban dân số - Kế hoạch hoá gia đình tỉnh Bình Dương, “Chính sách
dân số và kế hoạch hố gia đình (1990 – 2000), Bình Dương, 2000. Các văn
bản pháp quy chính yếu liên quan đến những chính sách và hoạt động kế
hoạch hố gia đình từ năm 1990 đến nay của tỉnh Bình Dương: tình hình thực
hiện cơng tác dân số kế hoạch hố gia đình, mục tiêu và quan điểm, các giải
pháp về dân số kế hoạch hố gia đình v.v...
Có thể nói từ trước đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
tổng thể về “Thực hiện chính sách dân số của Đảng Cộng sản Việt Nam từ
năm 2001 đến năm 2010”. Những công trình nghiên cứu của các tác giả đi
trước đã cung cấp cho chúng tôi nguồn tài liệu quý giá và định hướng nghiên
cứu để chúng tôi thực hiện đề tài này.


9
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Trình bày có hệ thống chính sách dân số của Đảng từ năm 2001 đến
năm 2010.
- Trình bày q trình Đảng chỉ đạo thực hiện chính sách dân số.
- Rút ra một số kinh nghiệm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày những vấn đề chung liên quan đến đề tài.
- Trình bày quá trình thực hiện chính sách dân số của Đảng từ năm 2001
đến năm 2010.
- Rút ra một số kinh nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực hiện chính sách dân số của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu về thực hiện chính sách dân số của
Đảng ở Việt Nam.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách dân số
của Đảng từ năm 2001 đến năm 2010.
- Về phạm vi nội dung: Luận văn tập trung trình bày việc thực hiện
chính sách dân số của Đảng từ năm 2001 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về dân số
và chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu Lịch sử, phương pháp Lơgíc


10
và kết hợp chặt chẽ hai phương pháp này. Phương pháp lịch sử là phương
pháp trình bày các sự kiện lịch sử theo thời gian và khơng gian. Phương pháp
Lơgíc là phương pháp khái quát, tổng hợp để từ đó rút ra bản chất của sự việc
mà tác giả muốn trình bày. Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khác như: Phương pháp phân tích - tổng hợp, điều tra khảo sát, thống kê - so
sánh... để thấy được q trình thực hiện chính sách dân số của Đảng từ năm
2001 đến năm 2010.

6. Cái mới của luận văn
- Trình bày có hệ thống chính sách dân số của Đảng từ năm 2001 đến
năm 2010.
- Trình bày thực trạng dân số ở Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010.
- Chỉ ra những kết quả, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm qua 10
năm thực hiện chính sách dân số của Đảng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Góp phần làm rõ hơn ý nghĩa của việc thực hiện chính sách dân số
của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước đối với vấn đề dân số - kế hoạch hóa gia đình.
- Cung cấp những luận cứ khoa học và gợi mở một số suy nghĩ có thể vận
dụng vào thực tiễn cơng tác đối với việc thực hiện chính sách dân số hiện nay. Có
thể sử dụng luận văn làm tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Lịch sử Đảng
và các ngành liên quan.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài.
Chương 2: Chính sách dân số của Đảng và q trình thực hiện chính
sách dân số từ năm 2001 đến năm 2010.
Chương 3: Khái quát việc thực hiện chính sách dân số của Đảng từ
năm 2001 đến năm 2010 và một số kinh nghiệm.


11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm dân số và chính sách dân số
1.1.1. Khái niệm dân số

Dân số có liên quan đến nhiều hoạt động, nhiều khía cạnh khác nhau của
đời sống kinh tế - xã hội. Có rất nhiều các khái niệm khác nhau nói về dân số,
sau đây là một số khái niệm thường gặp:
Dân số theo nghĩa thông thường là số lượng dân trên một vùng lãnh thổ,
một địa phương nhất định. Bởi vì dân số có thể coi là số lượng dân của cả trái
đất hay một phần của nó, của một quốc gia một vùng địa lý nào đó.
Dân số theo nghĩa rộng được hiểu là một tập hợp người. Tập hợp
này không chỉ là số lượng mà cả cơ cấu và chất lượng. Tập hợp này
bao gồm nhiều cá nhân hợp lại, nó khơng cố định mà thường xuyên
biến động. Ngay bản thân mỗi cá nhân cũng thường xuyên biến
động: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già hóa và tử vong [58, tr.3].
Trong dân số học, thuật ngữ “Dân số” khơng chỉ hiểu theo nghĩa thơng
thường, mà cịn hiểu theo nghĩa rộng của nó. Nó nghiên cứu cả ở trạng thái
tĩnh và trạng thái động cùng những yếu tố gây nên sự biến động đó.
Dân số là số lượng và chất lượng người của một cộng đồng dân cư, cư
trú trong một vùng lãnh thổ (hành tinh, khu vực, châu thổ, quốc gia…) tại một
thời điểm nhất định.
Dân số luôn luôn biến động theo thời gian và không gian. Những biến
động về dân số có ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và
tồn xã hội. Nhằm đảm bảo sự kiểm soát nhất định đối với vấn đề dân số của
một quốc gia thì quốc gia thường có những cuộc điều tra dân số để làm cơ sở
đánh giá, nhân định và đưa ra những chính sách đối với vấn đề dân số của


12
quốc gia mình.
“Dân số chỉ tất cả những người sống trong phạm vi một địa giới nhất
định (một nước, một vùng kinh tế, một đơn vị hành chính, v.v...) có đến một
thời điểm hay trong một khoảng thời gian nhất định” [94].
“Dân số là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng

địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính” [90, tr.9].
Ngồi từ dân số trong cuộc sống, các tài liệu, sách báo... còn dùng các
từ dân cư, nhân khẩu, dân tộc, nhân dân, giữa các từ này với dân số có điểm
chung giống nhau, nhưng cũng có những nét đặc trưng khác nhau. Mặc dù đơi
khi có thể dùng từ này thay cho từ khác, khi ngữ nghĩa gần giống nhau, nhưng
cũng có trường hợp không thể thay thế cho nhau được.
1.1.2. Khái niệm chính sách và chính sách dân số
- Khái niệm chính sách: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực
hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó” [43, tr.475].
Những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ là bản chất,
nội dung và phương hướng giải quyết vấn đề, lĩnh vực của chính sách nên nó
tuỳ thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ trong các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội. Vì vậy, có thể gọi tên chính sách gắn với vấn đề,
lĩnh vực như chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính sách tài chính, chính
sách tiền tệ, chính sách nơng nghiệp, chính sách tài ngun thiên nhiên, chính
sách khoa học và cơng nghệ, chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo, chính
sách ngoại giao...
Chính sách được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như là các loại
văn bản pháp lý, văn bản điều hành hoặc là lời tuyên bố, các thông báo hoặc
được phỏng đốn chính xác từ một loạt các hành động đang thực thi của các cơ
quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị -


13
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, đơn vị kinh tế, đơn
vị vũ trang nhân dân nhằm tác động hoặc giải quyết vấn đề, lĩnh vực.
- Khái niệm chính sách dân số: Chính sách dân số được quan niệm theo
nghĩa rộng hay nghĩa hẹp tuỳ thuộc vào mục tiêu cần đạt được trong từng giai
đoạn nhất định ở mỗi quốc gia. Có khá nhiều khái niệm về chính sách dân số,

mỗi khái niệm có những đặc thù riêng, theo cách nhìn nhận riêng hoặc tùy
theo tính cấp bách đối với việc điều chỉnh sự phát triển và di chuyển của dân
cư. Sau đây là một số khái niệm thường gặp:
+ Có một định nghĩa như được cơng nhận rộng rãi là: Một chính sách dân
số được tồn tại trên thực tế khi mà các vấn đề liên quan tới mức sinh, mức
chết hoặc cách phân bố đặc biệt về dân số được đề cập cơng khai.
Chính sách dân số có thể được định nghĩa như là những quy định về
mặt pháp lý, những chương trình quản lý, điều hành và những hoạt
động khác của Chính phủ nhằm vào việc thay thế hoặc sửa đổi xu
hướng phát triển dân số trong thời điểm hiện tại có quan tâm tới lợi
ích và sự sống cịn của quốc gia [80, tr.3].
+ Chính sách dân số bao gồm các biện pháp nhằm xoá đi khoảng cách
giữa tổng số những đứa trẻ thực sự sinh ra trong xã hội và số trẻ mà xã hội có
thể chấp nhận (thơng qua một số biện pháp đặc biệt trong việc quyết định để
đạt được những mục tiêu xã hội quan trọng).
+ Chính sách dân số là sự kết hợp các biện pháp trực tiếp và gián tiếp có
ảnh hưởng tới qui mô, sự phân bố hay chất lượng của cộng đồng con người.
Các biện pháp này được hình thành và được thực thi bởi toàn bộ các thể chế
xã hội cho dù Chính phủ có chủ đích hay khơng có chủ đích.
+ Chính sách dân số là một quan niệm khơng chính xác bao hàm một ý
nghĩa mà ít nhiều, mỗi người muốn nó thể hiện. Webster định nghĩa chính sách
dân số là một tiến trình hay phương pháp hành động có xác định, sự lựa chọn


14
giữa các khả năng nhằm hướng dẫn và xác định các quyết định hiện tại và tương
lai và một chính sách công cộng hay quốc gia là cái được chấp nhận bởi một cơ
quan Nhà nước.
+ Chính sách dân số là một văn bản hoặc một loạt văn bản hướng đến các
mục đích, mục tiêu nhân khẩu học quan trọng và đi kèm một loạt các biện

pháp nhằm đạt được các mục đích, mục tiêu đề ra.
+ Chính sách dân số là các văn bản về các biện pháp trực tiếp và gián
tiếp, do các cơ quan, tổ chức đề ra (kể cả Chính phủ), dù có mục đích hay
khơng có mục đích, nhưng có tác động, ảnh hưởng tới kích thước, phân bố
hoặc các thành phần của dân số.
+ Chính sách dân số là các cố gắng của Chính phủ trên phạm vi toàn
quốc nhằm gây ảnh hưởng tới các thông số nhân khẩu học về sinh, chết, di
dân hoặc tác động tới quy mô, cơ cấu và phân bố dân số theo khơng gian.
Chính sách dân số là các giải pháp và các chương trình nhằm đạt
được các mục tiêu kinh tế - xã hội, dân số, chính trị và các mục tiêu
khác thông qua ảnh hưởng của các biến dân số như quy mô, tốc độ
gia tăng và phân bố dân số theo địa lí (trong nước và quốc tế) và các
đặc trưng nhân khẩu khác [80, tr.3].
+ Demeny định nghĩa: Chính sách dân số có thể định nghĩa là những điều
kiện về mặt thể chế hoặc các chương trình cụ thể được xây dựng hoặc điều
chỉnh một cách cẩn trọng, thơng qua đó Chính phủ có tác động một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp đến các biến động về nhân khẩu học.
Nhìn chung, mỗi chính sách dân số đều phải có các mục tiêu cụ thể theo
thời gian, phải có các biện pháp và các chương trình để đạt được các mục tiêu
đề ra. Mục tiêu chính của chính sách dân số là nhằm kiểm sốt quy mô dân
số, đồng thời phải xem xét sự ảnh hưởng tới cơ cấu và phân bổ dân số.
Trong chính sách dân số, mục tiêu về số lượng được nhấn mạnh bởi vì


15
hiệu lực của chính sách có liên quan trước hết tới việc tác động vào quy mô
dân số và làm thay đổi tỷ lệ phát triển dân số. Ngoài mục tiêu về số lượng,
chính sách dân số cịn bao gồm cả mục tiêu của chất lượng dân số và các mục
tiêu phi lượng khác, dẫn đến nhiều khi chính sách dân số gần như đồng nghĩa
hoặc là một bộ phận của chính sách xã hội nói chung. Chất lượng sinh học,

đối tượng của các biện pháp kiểm soát cấu trúc gene của một dân số, đôi khi
cũng được thể hiện trong chính sách dân số.
Về bản chất, con người vừa là chủ thể của mọi chính sách, vừa là đối
tượng mà mọi chính sách cần phải quan tâm, cho nên có thể hiểu theo nghĩa
rộng là chính sách dân số bao gồm tất cả các hoạt động có ảnh hưởng làm
thay đổi các yếu tố nhân khẩu học.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách dân số, song việc sử
dụng định nghĩa chính sách dân số của mỗi quốc gia phải xuất phát từ những
vấn đề quan tâm trong mỗi thời kì cụ thể để điều khiển quá trình phát triển
dân số phù hợp với quá trình phát triển của đất nước. Căn cứ tình hình thực
tiễn xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân số và căn cứ vào sự phân
tích nhân khẩu học để lựa chọn khái niệm chính sách dân số hợp lí với những
vấn đề đã được đặt ra.
Vì vậy, tác giả sử dụng khái niệm chính sách dân số là: Chính sách dân
số là văn bản của Đảng và Nhà nước về những chủ trương, biện pháp, quy
định, hướng dẫn về những vấn đề liên quan nhằm làm thay đổi xu hướng hiện
tại của dân số theo mục đích, mục tiêu đề ra.
Với khái niệm nêu trên, chính sách dân số bao gồm những đặc điểm: 1)
là loại văn bản quy định riêng biệt về vấn đề dân số hoặc là văn bản quy định
các vấn đề kinh tế xã hội, nhưng có tác động đến sinh, chết, di dân, phát triển
con người, quy mô, cơ cấu, chất lượng và sự phân bố dân số; 2) cơ quan có
thẩm quyền ban hành văn bản là Đảng và Nhà nước; 3) phạm vi tác động bao


16
gồm những vấn đề liên quan (vấn đề dân số và vấn đề kinh tế xã hội tác động
đến quá trình dân số và kết quả dân số) nhằm làm thay đổi xu hướng hiện tại
của dân số về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số; 4) cấu trúc của
chính sách bao gồm mục đích, mục tiêu, biện pháp (hoặc quy định, hướng
dẫn) và đối tượng tiếp nhận hoặc tác động.

Khái niệm về chính sách dân số hợp lý nêu trên đã đáp ứng đầy đủ các
đặc điểm của chính sách dân số, phù hợp với sự phân tích nhân khẩu học và
phù hợp với thực tiễn của các chính sách dân số đã ban hành ở nước ta.
Như vậy, chính sách dân số sẽ bao gồm chính sách trực tiếp nhằm điều
chỉnh các vấn đề dân số và những chính sách kinh tế - xã hội có tác động, ảnh
hưởng gián tiếp đến dân số. Mục tiêu và giải pháp của chính sách dân số sẽ
làm thay đổi quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số.
1.2. Tầm quan trọng của vấn đề dân số và chính sách dân số
1.2.1. Tầm quan trọng của vấn đề dân số
Dân số vừa là lực lượng tiêu dùng của cải xã hội vừa là lực lượng sản
xuất ra của cải cho xã hội. Vì vậy, quy mô, cơ cấu của dân số quyết định quy
mô, cơ cấu của sản xuất và tiêu dùng. Dân số đóng vai trị trung tâm trong
mọi chương trình, chiến lược phát triển, nó vừa là điều kiện, phương tiện, vừa
là mục tiêu của sự phát triển. Phát triển kinh tế xã hội dù ở đâu và thời kỳ nào
đều nhằm hướng tới việc phục vụ cho mục tiêu phát triển toàn diện con người.
Dân số là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội. Công
tác dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là
yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình
và tồn xã hội, góp phần quan trọng thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Dân số là yếu tố rất quan trọng trong sự phát triển chung của nhân loại,
có hai mặt: tích cực và tiêu cực.


17
- Tích cực: Dân số trẻ sẽ đóng góp vào nguồn lao động có trình độ kĩ
thuật cao. Dân số trẻ thể hiện được sự phát triển của mỗi quốc gia, bởi khi
một quốc gia có nền kinh tế phát triển thì sẽ làm cho thu nhập cao, thu nhập
cao tất yếu sẽ giảm tỉ lệ sinh, là nguồn lao động quan trọng cho tất cả mọi
ngành kinh tế, nếu khơng có nguồn lao động thì tất cả mọi ngành kinh tế đều

ngừng tồn tại. Dân số trẻ thể hiện được tình hình kinh - tế xã hội của quốc gia,
thúc đẩy việc khai thác, tận dụng thế mạnh của từng quốc gia.
- Tiêu cực: Việc gia tăng dân số q nhanh sẽ ảnh hưởng tới tình hình
chính trị, kinh tế - xã hội của quốc gia: tệ nạn xã hội gia tăng, khó đáp ứng
được vấn đề lao động; tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm luôn là một bài tốn
khó cho các nhà chức trách. Dân số già ảnh hưởng tới việc chăm sóc, xây
dựng nhiều nơi an dưỡng, tốn kém và gây nên sự thiếu hụt lao động, ảnh
hưởng tới tốc độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
1.2.2. Tầm quan trọng của chính sách dân số
Chính sách dân số là một bộ phận của chiến lược phát triển toàn diện
của mỗi quốc gia, là một trong những công cụ hữu hiệu để điều tiết quá trình
vận động của dân số. Trước hết, nó điều tiết sự phát triển dân số hợp lý, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách dân số điều chỉnh quá trình
di cư, nhập cư, đảm bảo phân bố dân cư và lao động hợp lý, phù hợp với điều
kiện, đặc điểm, tình hình phân bố của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát
triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Việc thực hiện tốt chính sách dân
số cịn góp phần thúc đẩy q trình phát triển giáo dục, y tế... đặc biệt là giải
quyết tốt mối quan hệ giữa dân số với tài nguyên, môi trường, hạn chế tệ nạn
xã hội từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống... Ở nước
ta hiện nay, việc thực hiện chính sách dân số suy cho cùng là việc hạn chế tỷ
lệ gia tăng dân số nhanh, hạn chế tình trạng sinh con thứ ba trở lên và thực
hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống. Đối với


18
chính sách dân số, quan trọng nhất vẫn là nhóm chính sách có liên quan đến
vấn đề sinh, tử và di dân bởi vì mọi sự biến đổi của dân số suy cho cùng đều
chịu ảnh hưởng của ba nhân tố này. Vì vậy, việc sinh đẻ và các chính sách tác
động tới mức sinh có ý nghĩa quan trọng nhất, nhất là với những nước có tốc
độ gia tăng dân số nhanh như Việt Nam.

Chính sách được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn, nhưng
việc quyết định ban hành chính sách lại mang tính chủ quan của con người
nhằm giải quyết và quản lý vấn đề, lĩnh vực trong đời sống xã hội và là cơ sở
đảm bảo cho hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc
thực hiện đường lối, mục tiêu nhiệm vụ và đảm bảo quyền, lợi ích của đối
tượng tham gia. Tầm quan trọng của chính sách dân số thể hiện:
- Định hướng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, hoạt động theo những cơ cấu
ưu tiên, khuyến khích nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố bất lợi trong việc thực
hiện mục tiêu dân số bao gồm quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số.
Việc giải quyết mục tiêu dân số có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm công bằng và sự phát triển bền vững của xã hội.
- Định hướng, hướng dẫn khung pháp lý để bảo đảm hoạt động của các
chủ thể trong xã hội và bảo đảm hành vi của công dân cùng hướng, góp phần ổn
định trật tự xã hội và phù hợp với bản chất, nội dung của chính sách dân số.
- Đề ra tiêu chuẩn, định mức, chế độ, cơ chế và phương thức thực hiện
để điều tiết cụ thể đối với các đối tượng tham gia và đối tượng thụ hưởng phù
hợp với yêu cầu và thực tế khách quan trong từng giai đoạn.
- Vai trò của cơ quan, tổ chức ban hành chính sách dân số là bảo đảm
hình thức của chính sách dân số phù hợp với mục đích, mục tiêu điều chỉnh.
- Vai trị của đối tượng tiếp nhận và đối tượng tham gia tác động để
thực hiện chính sách là phải chủ động thực hiện các hành vi, các mối quan hệ
phù hợp với mục đích, mục tiêu và các hoạt động của chính sách dân số.


19
1.3. Khái quát việc thực hiện chính sách dân số của Đảng trước
năm 2001
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm đi đầu trong việc thực hiện
công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Sau Đại hội III của Đảng (1960),
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 216/CP ngày 26/12/1961 về công tác
dân số với mục tiêu: vì sức khỏe của người mẹ, vì hạnh phúc và hịa thuận của

gia đình, vì để cho việc ni dạy con cái được chu đáo, việc sinh đẻ của nhân
dân cần được hướng dẫn một cách thích hợp. Từ năm 1963, Đảng, Nhà nước
ta bắt đầu thực hiện chương trình kế hoạch hóa gia đình thơng qua cuộc “vận
động sinh đẻ có kế hoạch” và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy
nhiên, tỷ lệ tăng dân số vẫn cịn ở mức hơn 2% mỗi năm. Cơng tác dân số - kế
hoạch hóa gia đình chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đại hội IV (1976), Đại
hội V (1982) của Đảng, đưa ra mục tiêu hạ tỷ lệ tăng dân số được xác định ở
mức 1,7%, nhưng chưa năm nào thực hiện được. Tại Đại hội VI (1986), trong
phần đầu tiên của chính sách xã hội, Đảng ta đã nêu vấn đề kế hoạch hóa dân
số, tiếp tục nêu mục tiêu: “Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số đến năm 1990
xuống 1,7%” [32, tr.87]. Các cấp bộ Đảng, chính quyền và đồn thể đã chỉ
đạo chặt chẽ và thường xuyên cuộc vân động kế hoạch hóa dân số, coi đó là
một điều kiện để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Nhận thức rõ sự gia tăng dân số là một trong những nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng kinh tế trầm trọng những năm 1980, cản trở sự phát triển kinh tế - xã
hội, tại Đại hội VII (1991), Đảng ta nêu rõ: “Nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội của
nước ta có nguyên nhân ở tốc độ phát triển dân số quá cao. Nhịp độ tăng dân số
năm 1989 khoảng 2,2%. Công tác tuyên truyền vận động nhân dân chưa được tiến
hành tốt” [33, tr.31]. Đại hội cũng khẳng định, vấn đề dân số đã trở thành gay gắt
và coi việc giảm tỷ lệ gia tăng dân số là một quốc sách. Đại hội chỉ rõ cần thực
hiện đồng bộ chiến lược dân số trên cả ba mặt: quy mô, cơ cấu và sự phân bố dân


20
cư, giảm tỷ lệ phát triển dân số mỗi năm khoảng 0,4 - 0,6‰.
Dân số nước ta vẫn tiếp tục tăng. Đến cuối năm 1993, dân số cả nước
đã lên tới 71 triệu người. Tuy nhiên công tác dân số cũng đạt nhiều kết quả:
Tính đến năm 1993, số con trung bình của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã
giảm từ 6 con (năm 1960) xuốn còn 4 con (năm 1993). Để cụ thể hóa Nghị
quyết Đại hội VII, ngày 14/01/1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa VII) đã ra Nghị quyết số 04 - NQ/HNTW về chính
sách dân số - kế hoạch hóa gia đình. Nghị quyết đánh dấu bước hồn thiện về
quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình,
thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với công tác này.
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng công tác dân số - kế hoạch hóa gia
đình cùng những việc đã làm được và những vấn đề bức xúc, Nghị quyết số
04 - NQ/HNTW về chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình đã nêu ra quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện công tác dân số - kế
hoạch hóa gia đình.
Mục tiêu tổng qt cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trong
những năm tiếp theo là: gia đình ít con, khỏe mạnh, tạo điều kiện
để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu cụ thể là thực hiện
mỗi gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con để tiến tới năm 2015 bình qn
tồn xã hội mỗi gia đình có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số
vào giữa thế kỷ XXI [6].
Tập trung mọi nỗ lực tạo chuyển biến rõ rệt trong thập kỷ 90 của thế
kỷ XX. Nghị quyết đã đề ra 6 giải pháp, trong đó, giải pháp quan trọng hàng
đầu là phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác dân số
- kế hoạch hóa gia đình. Các cấp ủy Đảng, các cơ quan Nhà nước, đoàn thể,
phải coi công tác này là một nội dung trọng tâm trong chương trình hành
động, đồng thời phải huy động được tồn xã hội tham gia thành một phong


21
trào rộng rãi.
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương lần thứ tư của Đảng, ngày
03/06/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 270/TTg phê duyệt
chiến lược dân số - kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000. Chiến lược đặc biệt
nhấn mạnh: Quán triệt sâu sắc và thể hiện trên mọi hoạt động 5 quan điểm của
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng về dân số kế hoạch hóa gia đình. Chiến lược được chia làm hai giai đoạn thực hiện:

- Giai đoạn đầu (1993 - 1995), với mục tiêu chủ yếu là xây dựng lực
lượng và cùng với nguồn lực đã có triển khai đồng bộ hoạt động dân số - kế
hoạch hóa gia đình nhằm giảm tổng tỷ suất sinh xuống mức 3,6 con vào năm
1995 để đạt quy mơ dân số 75 triệu người. Nhiệm vụ chính là xây dựng mơ
hình và chuẩn bị nguồn lực, xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức cán bộ,
nâng cao năng lực hoạt động cho cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hóa
gia đình ở cơ sở.
- Giai đoạn thứ hai (1996 - 2000), với mục tiêu giảm tổng tỷ suất sinh
xuống còn 2,9 con để qui mô dân số khoảng 82 triệu người vào năm 2000 để
đạt mức sinh thay thế vào năm 2015. Nhiệm vụ chính là mở rộng tồn diện và
thực hiện có hiệu quả cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên phạm vi cả
nước, tiến hành mạnh mẽ và đồng bộ các giải pháp đến từng thơn, xóm, bản
làng nhằm tạo sự chuyển biến rõ rệt trong những năm còn lại của thập kỷ 90.
Những quan điểm, mục tiêu, giải pháp về cơng tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình của Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa VII), chiến lược dân số - kế
hoạch hóa gia đình đến năm 2000, Nghị định số 42/CP ngày 21/06/1993 của
Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban
quốc gia dân số - kế hoạch hóa gia đình đã mở ra một thời kỳ mới cho công
tác dân số ở nước ta, cả trong tư duy và hành động của Đảng, Nhà nước và
toàn dân. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng đã được nhân dân ủng


22
hộ và thực hiện. Cuộc vận động “dừng lại ở hai con để nuôi dạy cho tốt” đã
thực sự lan rộng trong đông đảo nhân dân, đạt được những kết quả quan
trọng. Tỷ suất sinh đã giảm từ 25,3‰ (năm 1994) xuống 22,3‰ (năm 1995).
Những kết quả đạt được của cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình là cơ sở
để các Đại hội Đảng tiếp tục khẳng định và hồn thiện chính sách dân số.
Đại hội VIII (1996) của Đảng đã chỉ rõ định hướng đối với công tác
này theo hướng:

Đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, kiện tồn hệ
thống tổ chức làm cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, phát
triển mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến tận cơ sở,
nhất là nơng thơn, miền núi, “hướng vào mục tiêu mỗi cặp vợ
chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, đạt tỷ lệ tăng dân số dưới 1,8% vào
năm 2000, tiến tới ổn định quy mô dân số trong nửa đầu thế kỷ
sau [34, tr.118].
Như vậy chương trình dân số Việt Nam đến năm 1996 đã chuyển biến
một bước quan trọng. Nếu giai đoạn trước năm 1996 hướng chủ yếu đến mục
tiêu giảm sinh, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình quy mơ
nhỏ có 1 hoặc 2 con, thì giai đoạn sau năm 1996 Việt Nam chuyển từ chương
trình dân số - kế hoạch hóa gia đình sang chương trình dân số - phát triển sức khỏe sinh sản. Ngoài mục tiêu giảm sinh, chương trình dân số - phát triển
- sức khỏe sinh sản còn đặc biệt chú ý đến việc nâng cao chất lượng dân số.
Trọng tâm của chương trình này là chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Có thể khẳng định rằng từ khi có Nghị quyết Trung ương lần thứ tư
(Khóa VII) của Đảng về cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, nhờ có sự
quan tâm chỉ đạo của Đảng, sau gần 10 năm thực hiện, công tác dân số - kế
hoạch hóa gia đình đã đạt được những kết quả quan trọng, công tác dân số đã
góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm


23
nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Việc khái quát thực hiện chính sách dân số của Đảng trước năm 2001,
tuy đã đạt được một số kết quả, nhưng cũng còn nhiều hạn chế:
Kết quả: Việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta đã có một q
trình lâu dài với nhiều thành tựu và kinh nghiệm vô cùng quý báu. Đến nay,
có thể đánh giá kết quả trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta trước
năm 2001 như sau:
Thứ nhất: Về kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn so với mục tiêu đề

ra. Mục tiêu của Chiến lược dân số - kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000 là giảm
cho được tổng tỷ suất sinh xuống mức 2,9 con hoặc thấp hơn, quy mô dân số dưới
mức 82 triệu người vào năm 2000 để đạt mức sinh thay thế vào năm 2015.
Thực tế cho thấy, trong giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1992, tỷ
lệ sinh không giảm, nhưng từ khi thực hiện Chiến lược dân số - kế
hoạch hóa gia đình đến năm 2000, tức là từ năm 1993 đến nay,
tổng tỷ suất sinh đã giảm khá nhanh, từ 3,8 con năm 1989 xuống
2,67 con trong thời kỳ 1992-1996 và còn khoảng 2,3 con vào năm
1999 [68, tr.3].
Quy mô dân số ở mức khoảng 78 triệu người vào giữa năm 2000. Kết
quả này đã tạo điều kiện để đạt mức sinh thay thế chậm nhất vào năm 2005,
sớm hơn 10 năm so với mục tiêu mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VII) đề ra. Năm 1999 Việt Nam vinh dự được
Liên hợp quốc trao giải thưởng Dân số.
Thứ hai: Về cơ bản đã thống nhất được thái độ và hành động của toàn
xã hội về tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách dân số. Các cấp uỷ,
chính quyền, đồn thể từ Trung ương đến địa phương đã coi công tác dân số kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của


×