Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện thanh sơn, tỉnh phú thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

CÙ XUÂN ĐÔNG

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
Ở HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƢỚC

Hà Nội - 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
LỜI CAM
ĐOAN
HỌC VIỆN BÁO
CHÍ VÀ
TUN TRUYỀN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của


riêng tơi. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng

XN
ĐƠNG
được cơng bố trong bấtCÙ
kỳ cơng
trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
Ở HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
Cù Xuân Đông
Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nƣớc
Mã số :

60 31 02 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƢỚC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS,TS. Phạm Hồng Chƣơng

Hà Nội - 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH


Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.

Hà Nội, ngày tháng 4 năm 2016
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS, TS. Nguyễn Vũ Tiến


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận văn là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Cù Xuân Đông


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
1.1. Cấp xã và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã - quan niệm, vị trí, vai
trị, chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm
1.2. Quan niệm, nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

7


7

27

Chƣơng 2: XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP XÃ Ở HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, THỰC TRẠNG, NGUYÊN

39

NHÂN, MỘT SỐ KINH NGHIỆM
2.1. Các yếu tố tác động đến xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay

39

2.2. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và xây dựng đội ngũ cán bộ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ - thực trạng,

43

nguyên nhân, một số kinh nghiệm
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở

70

HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
3.1. Dự báo tình hình và phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ đến năm 2020

70

79

KẾT LUẬN

96

TÀI LIỆU THAM KHẢO

98

PHỤ LỤC

103


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Cán bộ chủ chốt

CBCC

Cựu Chiến binh


CCB

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Đặc biệt khó khăn

ĐBKK

Hội đồng nhân dân

HĐND

Hệ thống chính trị

HTCT

Mặt trận Tổ quốc

MTTQ

Tổ chức cơ sở đảng

TCCSĐ

Trung học cơ sở

THCS


Trung học phổ thông

THPT

Thành Phố

TP

Ủy ban nhân dân

UBND


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc,
muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [38, tr.269].
Trong suốt quá trình xây dựng và hoạt động lãnh đạo sự nghiệp cách mạng,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm xây dựng và phát huy
vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ. Công tác cán bộ luôn được xác định là
nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng.
Hiện nay Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tình
hình trong nước và quốc tế phát triển nhanh chóng, phức tạp, những thời cơ,
thuận lợi đan xen với những nguy cơ, thách thức. Tình hình nhiệm vụ của cách
mạng đang đặt ra địi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thực sự vững mạnh, ngang
tầm với địi hỏi của thời kỳ mới. Cơng tác cán bộ phải thực sự là một khoa học,
chủ động, sáng tạo, đón trước sự phát triển của tình hình. Tuy nhiên, cơng tác

cán bộ vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, cịn để hẫng hụt nguồn cán bộ.
Chưa có chính sách đủ hiệu lực khơi dậy tài năng và thu hút nhân tài vào các lĩnh
vực quan trọng. Chậm khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, hẫng hụt cán bộ ở
các địa phương. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, đội ngũ CBCC cấp xã luôn
được các cấp uỷ đảng quan tâm và đã có sự trưởng thành, đáp ứng với u cầu
nhiệm vụ chính trị, góp phần củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự
nghiệp cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên việc xây dựng đội
ngũ CBCC cấp xã thật sự có chất lượng cịn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần xem
xét, nghiên cứu làm sáng tỏ để xây dựng cho được đội ngũ CBCC cấp xã thực sự
đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.
Đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong những năm
qua luôn được củng cố, chất lượng từng bước được nâng lên. Phong cách, ý thức


2

trách nhiệm và lề lối làm việc của cán bộ, cơng chức cơ sở có chuyển biến tích
cực theo hướng gần dân và có trách nhiệm với dân, góp phần tích cực vào việc
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xố đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân
dân, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phịng - an ninh, thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Tuy nhiên hiện nay, đứng trước yêu cầu
nhiệm vụ mới, đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thanh Sơn cịn bộc lộ những hạn
chế: trình độ của một bộ phận cán bộ chưa đạt chuẩn, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ
còn thấp, việc sử dụng các kỹ năng giải quyết công việc; công tác quản lý của
chính quyền địa phương cịn yếu; cơng tác xây dựng đội ngũ CBCC còn bộc lộ
nhiều hạn chế, yếu kém. Do vậy việc xem xét đánh giá một cách khách quan,
toàn diện thực trạng chất lượng đội ngũ CBCC, công tác xây dựng đội ngũ CBCC
cấp xã và đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm xây dựng đội ngũ CBCC cấp
xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu cấp bách của huyện Thanh Sơn.

Từ thực tế nêu trên, tác giả chọn nội dung: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng và
Chính quyền Nhà nước, tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
xã nói riêng đã có nhiều đề tài, cơng trình, bài viết nghiên cứu. Cụ thể là:
Đề tài khoa học:
- Nghiên cứu của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Đề tài khoa học cấp bộ: Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh
đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở, Hà Nội, 1992. Đề tài phân tích thực trạng,
phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở,
trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của cơng tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng.


3

- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ”, chuyên đề khoa học cấp Nhà nước
KX.02 do GS Đặng Xuân Kỳ làm chủ biên. Trong chuyên đề này, tác giả đã đi
sâu nghiên cứu những mặt hợp thành nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ,
cơng tác cán bộ, tiêu chuẩn của cán bộ.
Các sách đã xuất bản:
- GS,TS Lê Hữu Nghĩa, GS,TS Hồng Chí Bảo, TS Bùi Đình Bơn (đồng
chủ biên) (2008), Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị
- xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Đảng Cộng
sản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb Chính trị - Hành Chính, Hà Nội.
- Đinh Ngọc Giang (2011), “Chuẩn hóa chức danh Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
xã (Qua khảo sát các tỉnh đồng bằng sông Hồng)”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luận án, luận văn:

- Phạm Thị Thanh Nhàn (2012), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”,
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội. Luận văn đã trình bày một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và công tác cán bộ, đánh giá thực trạng và đề ra phương hướng, giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng giai đoạn hiện nay.
- Ngơ Thị Bích Thảo (2014), “Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở huyện Ba Vì, Thành Phố Hà Nội hiện nay” Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng
và Chính quyền Nhà nước, Học viện Báo chí và Tun truyền, Hà Nội. Luận văn
đã trình bày một số nội dung về chất lượng đội ngũ cán bộ, đánh giá thực trạng
và đề ra phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở huyện Ba Vì, TP. Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Trần Quốc Huân (2014), “Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường ở Thành
Phố Bến Tre gia đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng và Chính quyền


4

Nhà nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận văn đã trình
bày một số nội dung về xây dựng đội ngũ cán bộ, đánh giá thực trạng và đề ra
phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường ở TP. Bến Tre,
bảo đảm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay.
+ Vũ Anh Tuấn (2014), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước về kinh tế của huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ”, Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng và đề ra
phương hướng, giải pháp nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức
quản lý nhà nước về kinh tế huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Các bài viết đăng trên các tạp chí:

- Trần Đình Thu (2007), “Bốn giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở Kon Tum”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (3), Hà Nội.
- Phạm Văn Vọng (2015), “Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế tại tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Cộng sản, (868), Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thanh (2015), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên đáp ứng yêu cầu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế của tỉnh Ninh Bình”, Tạp chí Cộng sản, (98), Hà Nội.
Dưới các góc độ khác nhau, các cơng trình khoa học bàn về vai trị của đội
ngũ CBCC cấp cơ sở, tầm quan trọng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội cán bộ
chủ chốt cấp xã, là nguồn tư liệu quan trọng để tác giả tham khảo trong quá trình
triển khai nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên đến nay chưa có một cơng trình nào đi
sâu nghiên cứu vấn đề xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh
Phú Thọ hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn luận văn đưa ra các quan niệm về CBCC
cấp xã; phân tích vai trị, chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm của đội CBCC cấp xã;


5

nội dung xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã; đánh giá thực trạng và đề xuất phương
hướng, những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các quan niệm về CBCC cấp xã; vị trí, vai trị, chức trách, nhiệm
vụ, đặc điểm của đội ngũ CBCC cấp xã; nội dung xây dựng đội ngũ CBCC cấp
xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện
Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, chỉ ra nguyên nhân của những ưu điểm, khuyết điểm,

hạn chế từ đó rút ra những kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ
CBCC cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở
huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
Luận văn nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở 22 xã, 01
thị trấn trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
- Về thời gian:
Nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh
Phú Thọ từ năm 2010 đến tháng 6/2015. Phương hướng và giải pháp đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và
công tác cán bộ.


6

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các
phương pháp chuyên ngành như: thống kê, điều tra, khảo sát, phân tích, tổng
hợp, diễn giải và quy nạp, tổng kết, đánh giá, phương pháp lôgic và lịch sử trên
cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Những đóng góp khoa học của luận văn

- Luận văn đã xây dựng được quan niệm về CBCC cấp xã; phân tích vai
trị, chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm đội ngũ CBCC cấp xã; nội dung xây dựng
đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
- Phân tích, đánh giá đội ngũ CBCC cấp xã, chỉ ra nguyên nhân và rút ra
những bài học kinh nghiệm xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thanh Sơn,
tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất giải pháp chủ yếu có tính khả thi để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ trong tình hình mới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong công tác cán bộ cho các cấp ủy, tổ chức đảng ở huyện Thanh Sơn,
tỉnh Phú Thọ.
- Có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu mơn
xây dựng Đảng ở trường chính trị tỉnh Phú Thọ, các trung tâm bồi dưỡng ở các
huyện, thành thị trong tỉnh và người nghiên cứu quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


7

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
1.1. Cấp xã và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã - quan niệm, vị trí, vai trị,
chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm
1.1.1. Vị trí, vai trị, đặc điểm cấp xã
* Vị trí, vai trò cấp xã
Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:

nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện,
thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành
quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, trị
trấn; thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia
thành phường. Như vậy xã là đơn vị hành chính – lãnh thổ, cấp cuối cùng, nhỏ
nhất trong HTCT bốn cấp của nước ta. Đó là một loại hình cơ sở hồn chỉnh có
đầy đủ các tổ chức trong HTCT, các tổ chức kinh tế, xã hội; ở đó diễn ra phần
lớn các hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Mỗi cấp có vị trí, vai trị khác nhau, song, có hai cấp giữ vai trị trọng yếu đó là
cấp Trung ương có vai trị chiến lược, nơi trực tiếp đề ra cương lĩnh, đường lối, nghị
quyết và trực tiếp chỉ đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; cấp xã là nền tảng của cả HTCT. Sinh thời, Hồ Chí Minh ln quan
tâm chăm lo xây dựng cấp xã, Người cho rằng “cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng
của hành chính. Cấp xã làm được cơng việc, thì mọi cơng việc đều xong xi” [38,
tr.371]. Do vậy, cấp xã có vai trị rất quan trọng trong cơng cuộc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong thời kỳ hoạt động bí mật, cấp xã
là địa bàn quan trọng, ở đó có các tổ chức của Đảng được nuôi dưỡng, bảo vệ và hoạt
động tuyên truyền, giác ngộ nhân dân, lôi quấn họ vào phong trào đấu tranh cách mạng
giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành


8

Đảng cầm quyền giữ vai trò lãnh đạo đối với tồn xã hội, thì cấp xã càng trở nên
quan trọng, bởi lẽ, cấp xã là nơi tổ chức, thực hiện, đưa đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực; đồng thời cũng là nơi cung
cấp những thông tin, kinh nghiệm cho Đảng điều chỉnh, bổ sung, hồn chỉnh đường
lối, chính sách ấy. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, vị trí, vai trị của
cấp xã nâng lên một tầm cao mới. Cấp xã không chỉ là nơi tổ chức, thực hiện thắng lợi

mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, mà còn là
nơi phản ánh trực tiếp tâm tư tình cảm và nguyện vọng chính đáng của nhân dân lên
cấp trên. Đồng thời, cấp xã còn là nơi tập trung mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành
nghề, là nơi sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội mà trọng tâm là lương thực,
thực phẩm. Xã cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành
cơng nghiệp, bên cạnh đó xã cịn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho nhiều
lĩnh vực ngành nghề, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của cả nước nói
chung, của địa phương nói riêng. Mặt khác, xã cịn là nơi giao lưu các giá trị lịch sử và
văn hoá đặc sắc của q hương, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát triển giá
trị truyền thống của dân tộc.
* Đặc điểm cấp xã
Tổ chức đảng ở cấp xã, hay tổ chức cơ sở đảng ở xã, thị trấn là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, trực tiếp liên kết, tập hợp các đảng viên lại với nhau
thành tổ chức. Với mạng lưới tổ chức của mình, các cơ sở Đảng ở cấp xã là nơi tuyên
truyền, vận động và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng trong quần chúng. Thông
qua phong trào cách mạng của quần chúng ở địa phương, CBCC ở cơ sở, Đảng nắm
được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, tổng kết sáng kiến của quần chúng, đóng góp
cho Đảng và Nhà nước để bổ sung, phát triển đường lối, chính sách.
Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND. Trong đó, HĐND là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở cơ sở và là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, đảm bảo dân chủ mà còn là chủ thể tổ chức các hoạt động của cộng đồng trên
địa bàn như: các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…, một mặt chăm lo


9

tổ chức các hoạt động cộng đồng; mặt khác, là công cụ của Nhà nước để ngăn chặn
những hành vi vi phạm pháp luật và quyền làm chủ của nhân dân. Chính quyền cấp xã
được củng cố và hồn thiện sẽ được đơng đảo quần chúng nhân dân tín nhiệm và tin
tưởng; những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội

được thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội ở cơ sở thuộc HTCT ở cơ sở, chủ
yếu có năm tổ chức là: MTTQ, Hội Nơng dân, Hội Phụ nữ, Đồn Thanh niên,
Hội Cựu chiến binh. Các đồn thể chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, thống nhất, phối hợp hoạt động của các tầng lớp nhân dân,
nhằm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giám
sát việc thực thi dân chủ; bảo vệ, chăm lo lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân; tham gia củng cố HTCT, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững an ninh quốc phòng ở cơ sở. Các hoạt động của các tổ chức đoàn
thể nhân dân là nhằm thực hiện quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích hợp pháp của
các hội viên và nhân dân lao động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
1.1.2. Quan niệm về cán bộ chủ chốt cấp xã
Thuật ngữ cán bộ chủ chốt (CBCC) nói chung và cán bộ chủ chốt cấp xã
nói riêng xuất hiện trong lịch sử đương đại, gắn liền với sự xuất hiện của Đảng
chính trị và thường được dùng ở các nước xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, vẫn có
nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau về thuật ngữ này. Có ý kiến cho rằng đội
ngũ CBCC cấp xã là các ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy xã. Có quan niệm lại
cho rằng đây là các chức danh trong tổ chức bộ máy cấp xã, tức là những người
đứng đầu, (quan trọng nhất) trong tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội..., có thể nhận thấy rằng, các quan niệm này không thống nhất với
nhau ở việc xác lập vai trò của từng tổ chức trong HTCT cấp xã, ở số lượng cán
bộ và phạm vi chức trách của các chức danh cán bộ chủ chốt.
Để đi đến thống nhất về quan niệm, nhận thức thuật ngữ CBCC cấp xã,
theo tác giả cần làm sáng tỏ những vấn đề sau đây:


10

Thứ nhất, “cán bộ”
Cán bộ giữ vị trí quan trọng hàng đầu, là nhân tố quyết định sự thành, bại

của cách mạng, là một trong những vấn đề có tầm quan trọng quyết định đối với
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Cán bộ là những người xây dựng, cụ thể
hóa, phát triển và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
“Cán bộ” là từ được Hồ Chí Minh sử dụng lần đầu tiên trong tác phẩm
“Nhật Bản” từ năm 1923 và được sử dụng phổ biến ở nước ta trong kháng chiến
chống Pháp. Theo thời gian, tùy theo từng lĩnh vực cụ thể, nó được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau. Theo quan niệm chung, cán bộ gồm những người giữ vai
trò trụ cột, nòng cốt trong lĩnh vực công tác; những người giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý (do bổ nhiệm hoặc do bầu cử) trong một tổ chức, bộ máy, có nhiệm vụ
đề ra phương hướng hoạt động, tổ chức và phối hợp hành động của các thành
viên trong tổ chức, bộ máy đó, thiết lập và sử lý tốt các mối quan hệ phối hợp
trong và ngồi tổ chức để thực hiện mục tiêu cơng việc đã đề ra.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ
và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [38, tr.269].
Theo Từ điển tiếng Việt (năm 2002) của Viện Ngôn ngữ học, cán bộ là
những người làm công tác nghiệp vụ, chuyên môn trong tổ chức, cơ quan như
cán bộ Nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị; chỉ những người làm cơng
tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường,
khơng có chức vụ, như cán bộ và chiến sĩ, cán bộ và cơng nhân nhà máy, cán bộ
đồn thanh niên [13, tr.109].
Luật cán bộ công chức năm 2008 quy đinh: cán bộ là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở


11


Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [43, tr.1].
“Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội; cơng chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [43, tr.1].
Từ những phân tích nêu trên có thể quan niệm một cách chung nhất như
sau: Cán bộ là những người có chức vụ, giữ cương vị nịng cốt trong một cơ
quan, tổ chức, đơn vị; đóng vai trị lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành và có
ảnh hưởng mang tính quyết định đến hoạt động của cơ quan, tổ chưc, đơn vị đó.
Thứ hai, “cán bộ chủ chốt”
Theo Từ điển Tiếng Việt (năm 2002), “chủ chốt” nghĩa là cái “quan trọng
nhất, có tác dụng làm nịng cốt, cán bộ chủ chốt của phong trào” [13, tr.147].
Vậy CBCC là người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng làm nịng cốt,
chi phối tồn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định. CBCC là cán bộ có những
đặc thù so với cán bộ thông thường. Mỗi tổ chức, mỗi cơ quan, đoàn thể dù ở
Trung ương hay địa phương, cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp cơ sở đều có nhiều loại
cán bộ khác nhau, trong đó có CBCC hay cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý.
Cán bộ chủ chốt là những người có chức vụ, vai trị và cương vị nòng cốt
trong những tổ chức nhất định, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ
chức và thực hiện, giải quyết các quan hệ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, định hướng sự phát triển của tổ chức.
Như vậy, nói đến CBCC là nói đến những người có vị trí quan trọng trong
HTCT. Họ là những người khơng chỉ có chun mơn, mà cịn có năng lực trình
độ trí tuệ và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn. Có trọng trách giải quyết các



12

mối quan hệ của cơ quan, đơn vị. Trong điều kiện nước ta hiện nay, thì quan
trọng nhất là giải quyết mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong
quá trình quản lý kinh tế, quản lý xã hội, nhằm đưa lại những quan hệ xã hội
lành mạnh, tạo điều kiện cho sự phát triển đất nước.
Những cán bộ này có ảnh hưởng lớn đến tồn bộ hoạt động của một tổ
chức và của cả HTCT. Cán bộ chủ chốt thường gắn liền với hoạt động lãnh đạo,
quản lý. Vì vậy, trong điều kiện cụ thể, người ta cũng thường gọi những CBCC
là “cán bộ lãnh đạo”, “người lãnh đạo” hay “cán bộ quản lý” và “người quản lý”.
Tuy nhiên, việc xác định cán bộ chủ chốt hay không chủ chốt chúng ta
cần đặt họ trong một tổ chức nhất định. Dựa vào chức trách cụ thể của mỗi cán
bộ và đặt nó trong mối quan hệ với tồn bộ hệ thống tổ chức. Có cán bộ ở cương
vị này, trong tổ chức này là cán bộ chủ chốt nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí
khác lại khơng phải là cán bộ chủ chốt. Chẳng hạn, Bí thư Đảng ủy xã A là cán
bộ chủ chốt của xã A, nhưng không phải là cán bộ chủ chốt của huyện, cho dù
đồng chí Bí thư ấy có thể là Huyện ủy viên.
Thứ ba, “đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã”
Theo Từ điển Tiếng Việt, năm 2002: “Đội ngũ là khối đông người được
tập hợp và tổ chức thành một lực lượng có quy củ” [13, tr.535]. Đội ngũ CBCC
cấp xã bao những người đứng đầu các tổ chức trong HTCT của một xã, họ đều
được cơ cấu là đảng ủy viên của Ban Chấp hành đảng bộ xã, cùng thực hiện một
nhiệm vụ chính trị, an ninh quốc phịng, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
của xã theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội, chương trình, kế hoạch
cơng tác của đảng bộ xã, chi bộ và nhiệm vụ được cấp trên giao.
Từ những khái niệm nêu trên, có thể quan niệm: Đội ngũ CBCC cấp xã ở
huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ là một bộ phận cán bộ của Đảng, Nhà nước, các
tổ chức chính trí – xã hội, đó là những cơng dân Việt Nam được đào tạo, bồi
dưỡng, có đủ phẩm chất, năng lực, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ các



13

chức vụ chủ chốt và phụ trách các tổ chức thuộc hệ thống chính trị cấp xã, nhằm
đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị cơ sở.
Như vậy, đội ngũ CBCC cấp xã gồm những chức danh sau:
- Bí thư Đảng ủy
- Phó Bí thư Đảng ủy
- Chủ tịch Hội đồng nhân (HĐND)
- Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND)
- Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ)
- Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ
- Chủ tịch Hội Nơng dân
- Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh
- Bí thư Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Mỗi CBCC cấp xã được giao những thẩm quyền, trách nhiệm nhất định
trong tổ chức gắn với chức vụ mà người lãnh đạo đảm nhiệm. Phạm vi tác động
và trách nhiệm công việc của mỗi CBCC là khác nhau, nhưng đều có chung mục
đích là bảo đảm cho hoạt động của HTCT cơ sở đạt hiệu quả, hướng tới việc
phát huy dân chủ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo lập
địa bàn ổn định, phát triển bền vững.

1.1.3. Vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ
Bất kỳ chế độ chính trị nào, đảng phái nào, trong mọi giai đoạn cách mạng
thì cán bộ và cơng tác cán bộ đều là vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp
đến vận mệnh của đất nước, sự tồn vong của chế độ và thành bại của cách mạng.

C.Mác và Ph.Ăngghen, không chỉ là những người sáng lập ra chủ nghĩa
xã hội khoa học, mà còn đem lý luận khoa học kết hợp với phong trào công nhân
lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới. Từ kinh nghiệm lịch sử của


14

xã hội lồi người và từ chính q trình nghiên cứu, truyền bá lý luận khoa học
vào phong trào công nhân, C.Mác đã khẳng định “Tư tưởng căn bản không thể
thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng cần có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn [36, tr.181].
Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, ngay từ những ngày đầu
tiên chuẩn bị cho việc thành lập Đảng cách mạng của giai cấp công nhân Nga,
VI.Lênin đã chỉ rõ “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị nếu nó khơng tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào” [35, tr.473]. Theo VI.Lênin, với lơgíc đó, giai cấp cơng nhân Nga
khơng chỉ có thể lật đổ chế độ Nga Hồng, giành chính quyền khi xây dựng
cho mình đội ngũ những nhà cách mạng chun nghiệp. Đó là đội ngũ cán bộ
nịng cốt đầu tiên của Đảng Cộng sản (Bơnsêvích) Nga, “những nhà chính trị của
giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vơ sản và khơng thua kém những
nhà chính trị tư sản” [34, tr.80]. Sau khi giành được chính quyền, Người khẳng
định: “nghiên cứu con người tìm những cán bộ có năng lực, biết làm việc, thực
chất vấn đề hiện nay chính là ở những chỗ đó, nếu thiếu những điểm này thì tất cả
mọi mệnh lệnh, mọi quy định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [35, tr.449]. Trong hoạt động
thực tiễn, Người đã trực tiếp tiến hành đánh giá, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để lãnh đạo giai cấp cơng nhân, lãnh đạo
nhân dân lao động Nga hồn thành cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại nhất
trong lịch sử nhân loại.
Như vậy, C.Mác, Ăngghen và Lênin đã thống nhất cách nhìn nhận và

đánh giá vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ, nhất là người lãnh đạo chủ chốt trong
sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và các Đảng Cộng sản, đó là lực lượng
biến “tư tưởng”, “mệnh lệnh”, các “quyết định” của Đảng thành hiện thực.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, khi nói đến vai trị của cán bộ, Hồ Chí Minh ln khẳng định tính chất


15

quan trọng có ý nghĩa quyết định của cán bộ đó là “gốc của mọi cơng việc”,
“mn việc thành cơng hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [38, tr.269].
Theo Người, cây sống được và tốt tươi chính là cây có gốc, khơng có gốc thì cây
sẽ khơ héo, vì vậy mọi cơng việc, mọi nhiệm vụ cách mạng sẽ khơng đi đến đâu
nếu như khơng có cán bộ và sự thành công hay thất bại của công việc là phụ thuộc
và quyết định bởi chất lượng của đội ngũ cán bộ. Bởi lẽ, theo Người cán bộ là
người “đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ
và thi hành”, đồng thời “đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [38, tr.269]. Vì vậy, cán bộ là
“nhịp cầu” nối liền Đảng, Chính phủ với nhân dân. Hồ Chí Minh cịn đặt cán bộ
vào vị trí có tính chất quyết định, “là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê
liệt” [38, tr.54].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh mỗi đảng viên của Đảng đều có thể
xem là cán bộ. Người hay dùng khái niệm “cán bộ, đảng viên” để chỉ đội ngũ
cán bộ nói chung. Quan tâm đến cán bộ các cấp, nhưng người đặc biệt quan tâm
tới đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, đội ngũ đóng vai trị then chốt trong việc
hồn thành mọi nhiệm vụ. Hồ Chí Minh viết: “Cấp xã là người gần gũi nhân dân
nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi cơng việc đều
xong xi” [38, tr.371].
Theo Hồ Chí Minh, vai trò của người cán bộ được thể hiện qua bốn mối

quan hệ phải giải quyết là: với đường lối, chính sách; với bộ máy (cơ quan lãnh
đạo, quản lý); với công việc; với nhân dân. Chỉ khi nào giải quyết tốt các quan
hệ đó, người cán bộ mới thực hiện đúng vai trị của mình. Vai trị của cán bộ và
công tác cán bộ chỉ được thể hiện rõ ràng, cụ thể, có hiệu lực, khi gắn với đường
lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Để có đội ngũ cán bộ tốt, đáp ứng cho phong trào, cho nhiệm vụ của mỗi
giai đoạn, cơng tác cán bộ có vị trí quyết định. Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ


16

luôn gắn với tổ chức và chất lượng của cán bộ là kết quả tổng hợp của các khâu
trong công tác cán bộ như: tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, đánh giá,
sử dụng, đề bạt, cân nhắc, kiểm tra, giám sát, phê bình và sự nỗ lực phấn đấu của
từng người.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cán bộ có vai trị to lớn, quyết định sự
thành cơng hay thất bại của mọi công việc. Khi bàn về vai trò cán bộ trong sự
nghiệp cách mạng, Người nhấn mạnh nhiều đến cán bộ, đảng viên có chức, có
quyền, những người chịu trách nhiệm trực tiếp và to lớn, nặng nề trước nhân dân
và tồn dân tộc. Họ có trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức Đảng, cơ quan chính
quyền, hành chính, sự nghiệp, đồn thể hay tổ chức quản lý kinh doanh...từ cấp
trung ương đến cấp cơ sở. Tuy nhiên, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ
lãnh đạo các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên hệ chặt chẽ với nhau trong tổ
chức của Đảng, Nhà nước. Nếu cán bộ lãnh đạo cấp Trung ương là những cán bộ
cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, thì cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ
chức Đảng và hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng
lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Vì vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có trách nhiệm rất nặng nề, vai
trò hết sức quan trọng trong bộ máy của hệ thống chính trị ở địa phương.

Quán triệt các quan điểm nêu trên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta luôn coi công tác cán bộ là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng,
có vị trí, vai trị quyết định đối với tồn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Vấn đề
cán bộ và công tác cán bộ đã được đề cập trong nhiều văn kiện quan trọng của
Đảng. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng ta xác định “phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong
xây dựng Đảng thì cơng tác cán bộ là lĩnh vực quan trọng nhất, là khâu then chốt
của vấn đề then chốt” [1, tr.8]. Do đó, đội ngũ CBCC cấp xã lại càng có vị trí


17

quan trọng. Vì, đây là lực lượng nịng cốt, điều hành các hoạt động của toàn
HTCT cấp xã, đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Vì thế, đội ngũ CBCC cấp
xã có tầm quan trọng đặc biệt, là một trong những nhân tố có ý nghĩa chiến lược,
quyết định sự thành bại công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây
dựng nông thôn mới.
Mặt khác, đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ còn
giữ vai trò hết sức quan trọng:
Một là, đội ngũ CBCC cấp xã góp phần quyết định trong việc quán triệt
và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đến người dân.
Cấp xã là cấp hành động, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước dù có đúng, có hay đến đâu nhưng để thực hiện có hiệu quả
nhất thiết phải thông qua phong trào cách mạng của quần chúng. CBCC cấp xã
là người chỉ huy, điều hành và tổ chức mọi hoạt động, đảm bảo cho bộ máy vận
hành đồng bộ, đúng chức năng, nhiệm vụ; làm cho chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống. Nhưng, do điều kiện kinh tế - xã hội

các xã ở huyện Thanh Sơn còn chậm phát triển, trình độ dân trí thấp, nhất là đồng
bào các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa. Vì lẽ đó, đội ngũ CBCC cấp xã nơi đây có
vai trị quyết định trong việc tuyên truyền, giáo dục cho người dân hiểu và tự giác
thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Hai là, đội ngũ CBCC cấp xã còn giữ vai trò quan trọng là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với người dân.
Đội ngũ CBCC cấp xã - một đội ngũ tiên tiến, tích cực nhất ở địa phương.
Họ là người hiểu chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; thay mặt Đảng
giải thích, giáo dục cho người dân nói chung và đồng bào các dân tộc hiểu rõ và
tự giác thực hiện nghiêm túc. Ngoài ra, là cán bộ ở cơ sở gần dân nhất, họ am
hiểu nhiều về văn hóa, phong tục tập quán của người dân, nên đội ngũ cán bộ


18

này dễ dàng tiếp cận, đi sâu nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người
dân, cũng như tính đúng đắn, phù hợp của các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước từ đó phản ánh lại với Đảng, Nhà nước để kịp thời bổ sung, sửa đổi
cho đúng với tình hình thực tiễn. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói
“chỉ có đồng bào và cán bộ người dân tộc mình mới am hiểu dân tộc mình sâu
sắc nhất, để phát huy mọi truyền thống tốt đẹp của dân tộc và mọi tiềm năng của
quê hương mình trong việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa” [28].
Ba là, đội ngũ CBCC cấp xã có vai trị to lớn trong tuyên truyền, tập hợp
nhân dân trên địa bàn xã tham gia các phong trào hành động cách mạng ở địa
phương, thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng
nông thôn mới.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là phong trào mang tính tự giác cao, đòi hỏi
sự giác ngộ sâu sắc. Đội ngũ CBCC cấp xã - đội ngũ giác ngộ nhất ở địa bàn về
lý tưởng cách mạng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ sự am hiểu sâu sắc về phong tục, tập qn, ngơn

ngữ của dân tộc mình nên rất thuận lợi trong việc tuyên truyền đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như các phong trào do địa phương
phát động. Họ là tấm gương sáng để người dân tự giác thực hiện.
Sự nghiệp CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn, đặc biệt là chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới - một chương trình lớn, tồn diện,
lần đầu tiên được thực hiện trên quy mô cả nước. Đây là bước cụ thể hóa chủ
trương của Đảng trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và quốc
phịng - an ninh thông qua các chỉ tiêu phát triển cụ thể cho từng lĩnh vực.
Huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ khi triển khai gặp nhiều khó khăn, một số tiêu
chí rất khó thực hiện được, đặc biệt là đối với các xã vùng sâu, vùng xa có đơng
đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống, như tiêu chí về thu nhập, chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa thị trường khi
trình độ sản xuất của người dân còn lạc hậu... Song, với sự quyết tâm của


19

tồn Đảng, tồn dân và vai trị nịng cốt của đội ngũ CBCC cấp xã ở đây, những
khó khăn trên dần được tháo gỡ. Họ đã lôi cuốn, thúc đẩy người dân ở địa
phương tham gia vào tiến trình chung của cách mạng, góp phần thực hiện cơng
cuộc đổi mới; xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội; thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, đấu tranh chống đói nghèo, lạc
hậu, vì hạnh phúc của nhân dân.
1.1.4. Chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thanh
Sơn, tỉnh Phú Thọ
Căn cứ Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ
ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh cán bộ cấp xã như sau:
* Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn:
- Chức trách: Là cán bộ chuyên trách cơng tác Đảng ở đảng bộ xã, thị
trấn, có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của đảng bộ, chi bộ; cùng tập thể đảng uỷ, chi uỷ lãnh đạo toàn diện đối với hệ

thống chính trị ở cơ sở trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước trên địa bàn xã, thị trấn.
- Nhiệm vụ của Bí thư Đảng ủy xã, thị trấn:
+ Nắm vững Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết và chỉ thị của cấp trên và
chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cấp mình; chủ trì cuộc họp của Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ và chỉ đạo việc chuẩn bị xây dựng nghị quyết của
đảng bộ, của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và tổ chức chỉ đạo thực hiện thắng
lợi các nghị quyết đó.
+ Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt
động và giữ vai trị trung tâm đồn kết giữ, vững vai trị lãnh đạo tồn diện đối
với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã, thị trấn; lãnh đạo, kiểm tra việc tổ
chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, của đảng bộ, của Ban Chấp
hành và Ban Thường vụ Đảng uỷ.


×