Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
LỜI MỞ ĐẦU
Doanh nghiệp thương mại hoạt động với vai trò là cầu nối giữa sản
xuất với tiêu dùng. Hoạt động đó đã làm cho quá trình lưu thông hàng hoá
diễn ra nhanh chóng hơn, thuận tiện hơn, đáp ứng kịp thời, đúng nhu cầu
của người tiêu dùng. Cùng với việc thực hiện vai trò của mình, doanh
nghiệp thương mại cũng như các doanh nghiệp sản xuất khác đều nhằm đến
mục tiêu là lợi nhuận và hiệu quả kinh tế mang lại cho mình. Hiệu quả kinh
doanh không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản
lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp thương mại, hoạt động kinh doanh chính là hoạt
động mua bán hàng hoá. Để đứng vững và phát triển trong điều kiện có sự
cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp phải nắm bắt kịp thời tâm lý và nhu cầu
của người tiêu dùng. Bán hàng là giai đoạn vô cùng quan trọng, nó quyết
định sự thành công hay thất bại trong việc kinh doanh của một doanh
nghiệp. Trong quá trình bán hàng, doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi
phí liên quan đến công tác bán hàng, kế toán phải thường xuyên theo dõi,
phản ánh, ghi chép, đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản doanh thu, giá
vốn hàng bán và các khoản chi phí có liên quan. Cuối kỳ, kế toán cung cấp
kết quả kinh doanh và các chỉ tiêu kinh tế tài chính khác giúp ban lãnh đạo
xây dựng và lựa chọn được phương án kinh doanh có hiệu quả nhất.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán bán hàng và xác
định kết quả bán hàng, với những kiến thức đã học ở trường cùng với sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Năng Phúc cũng như sự giúp đỡ
của các cán bộ kế toán trong phòng Kế toán Tài chính - Công ty xuất nhập
khẩu tổng hợp và chuyển giao công nghệ Việt Nam (VINAGIMEX), em đã
mạnh dạn đi sâu nghiên cứu và quyết định chọn đề tài cho chuyên đề tốt
Trang
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
nghiệp của mình: " Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp và chuyển giao công nghệ Việt Nam".
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là công tác tổ chức bán hàng và xác
định kết quả bán hàng ở doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Mục đích
khi nghiên cứu đề tài là đi sâu, làm rõ lý luận về kế toán bán hàng và xác
định kết quả bán hàng ở doanh nghiệp kinh doanh thương mại, đồng thời
phản ánh qua tình hình thực tế và số liệu cụ thể ở công ty xuất nhập khẩu
tổng hợp và chuyển giao công nghệ Việt Nam. Từ đó đưa ra một số nhận
xét, kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng tại công ty.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận: Duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, lý thuyết về hạch toán kế toán, thống kê...
Đề tài được trình bày với ba phần chính, bao gồm:
Phần I: Lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
trong các doanh nghiệp thương mại.
Phần II: Bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty xuất nhập
khẩu tổng hợp và chuyển giao công nghệ Việt Nam.
Phần III: Một số nhận xét công tác bán hàng và xác định kết quả bán hàng
tại Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp và chuyển giao công nghệ Việt Nam.
Với những kiến thức đã học và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian
thực tập và làm chuyên đề có hạn, do đó bài viết của em không tránh khỏi
những sai sót. Em kính mong thầy giáo và các anh chị trong phòng kế toán
đóng góp ý kiến giúp em hoàn thiện đề tài này.
Trang
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Trang
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC
ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI
I.1. SỰ CẦN THIẾT TỔ CHỨC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC
ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG
I.1.1. Bán hàng, kết quả bán hàng và yêu cầu quản lý đối với công tác
kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
I.1.1.1. Bán hàng
Bán hàng là giai đoạn cuối cùng trong quá trình hoàn vốn kinh doanh
của doanh nghiệp, là quá trình thực hiện mặt giá trị của hàng hoá. Hàng hoá
được coi là đã được bán khi doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu cho khách
hàng và được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán cho số hàng
đó.
Công tác bán hàng phản ánh việc giải quyết đầu ra của hoạt động sản
xuất kinh doanh, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Trong nền
kinh tế thị trường, các mặt hàng ngày càng trở lên đa dạng và phong phú
hơn, người tiêu dùng được quyền lựa chọn và sử dụng nhiều loại hàng hoá
hơn. Trong điều kiện khả năng thanh toán có hạn, nhu cầu của người tiêu
dùng lại cao, họ sẽ chọn những loại sản phẩm hàng hoá đem lại cho họ lợi
ích tiêu dùng lớn nhất. Do vậy, công tác bán hàng rất quan trọng đối với
doanh nghiệp. Một mặt sản phẩm, hàng hoá bán ra phải thoả mãn nhu cầu
của người tiêu dùng, mặt khác nó phải đảm bảo sự duy trì cũng như sự phát
triển của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp thương mại, hoạt động mua vào là tiền đề của
hoạt động bán hàng, và ngược lại hoạt động bán hàng lại có tính chất quyết
định tới hoạt động thu mua hàng hoá. Nếu hàng mua về không bán được
Trang
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
dẫn đến vốn kinh doanh bị ứ đọng, ảnh hưởng đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Nếu công tác bán hàng được thực hiện tốt, hàng hoá luân
chuyển nhanh sẽ tăng nhanh vòng vốn kinh doanh. Từ đó, doanh nghiệp có
điều kiện tích luỹ để tái sản xuất và mở rộng hoạt động kinh doanh.
Trang
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
I.1.1.2.Kết quả bán hàng.
Kết quả bán hàng là chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, đó là khoản chênh lệch giữa doanh thu thuần (Tổng
doanh thu trừ đi các khoản giảm trừ: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu,
giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại) với trị giá vốn của hàng đã bán, chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho hàng đã bán.
Kết quả bán hàng là bộ phận chủ yếu cấu thành nên kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh lại là đánh giá cuối cùng về
hiệu quả quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy kết quả bán hàng
có tính chất quyết định đến kết quả kinh doanh. Kết quả kinh doanh có thể
lỗ hoặc lãi. Nếu lỗ sẽ được sử lý theo quy định của Bộ Tài chính và quyết
định của cấp có thẩm quyền. Nếu lãi sẽ được phân phối theo quy đinh của
cơ chế tài chính, theo một trình tự nhất định: Làm nghĩa vụ với nhà nước,
chia lãi cho các bên liên doanh, chia cổ tức cho cổ đông, để lại doanh
nghiệp để hình thành các quỹ và bổ xung nguồn vốn. Đây là cơ sở để duy
trì sự tồn tại cũng như sự phát triển của doanh nghiệp.
I.1.1.3. Yêu cầu quản lý quá trình bán hàng và xác định kết quả bán
hàng.
Đối với mọi doanh nghiệp, việc tiêu thụ hàng hoá là một vấn đề vô
cùng quan trọng, quyết đinh quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Bởi vì thông qua tiêu thụ, một mặt thể hiện tính chất hữu ích của
hàng hoá được xã hội thừa nhận, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, mặt
khác nó có khả năng bù đắp các chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh và
có lợi nhuận. Nếu như hàng hoá được tiêu thụ nhanh sẽ tăng nhanh vòng
quay của vốn lưu động, tránh sự ứ đọng vốn, giảm thiểu việc sử dụng các
nguồn vốn kém hiệu quả, như vốn vay, vốn chiếm dụng, đảm bảo thu hồi
vốn nhanh, có điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Trang
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Ngoài ra, trong quan hệ với các doanh nghiệp khác, việc tiêu thụ
hàng nhanh chóng cũng thể hiện nỗ lực của bản thân doanh nghiệp trong
việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng về số lượng, chủng loại, mẫu mã và
thời gian đáp ứng. Mặt khác, đơn vị có khả năng thanh toán cao và nhanh
hơn với các đơn vị bán hàng, điều này góp phần tăng uy tín của doanh
nghiệp.
Từ những phân tích trên, ta thấy rằng thực hiện tốt công tác tiêu thụ
hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Do đó, cần phải
quản lý tốt công tác bán hàng. Tuy nhiên, để quản lý tốt công tác bán hàng
ta cần phải thoả mãn các yêu cầu sau:
Trang
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
- Nắm bắt theo dõi hàng hoá bán ra.
+ Về khối lượng hàng hoá tiêu thụ: Phải nắm chính xác số lượng
từng loại hàng hoá tồn kho đầu kỳ, hàng nhập trong kỳ, hàng xuất tiêu thụ
trong kỳ, từ đó xây dựng kế hoạch dự trữ cần thiết và thường xuyên đối
chiếu kiểm tra giữa kế toán hàng hoá, thủ kho và bộ phận thu mua - bán
hàng hoá, thường xuyên đối chiếu kiểm tra cho từng loại hàng, nhóm hàng.
+ Về giá vốn hàng xuất bán: Đây là bộ phận cấu thành giá trị của
thành phẩm, hàng hoá. Đối với doanh nghiệp thương mại, giá vốn hàng hoá
xuất bán bao gồm giá mua thực tế và chi phí thu mua của số hàng đó. Tuỳ
từng doanh nghiệp tính giá vật tư, hàng hoá theo phương thức khác nhau
thì gía vốn của hàng xuất bán cũng khác nhau. Doanh nghiệp có thể lựa
chọn sử dụng một trong các phương pháp: Nhập trước xuất trước; Nhập sau
xuất trước; Bình quân gia quyền: Bình quân liên hoàn; Thực tế đích danh;
Phương pháp giá hạch toán.
-Theo dõi chặt chẽ các khoản doanh thu và chi phí liên quan đến quá
trình bán hàng.
Doanh thu bán hàng là thu nhập chính của doanh nghiệp thương mại,
dịch vụ. Để có được doanh thu cao, bù đắp được các chi phí và có lãi,
doanh nghiệp phải xây dựng được các chính sách giá phù hợp. Bộ phận
nghiên cứu thị trường cần có các thông tin chính xác, kịp thời về giá cả.
Qua đó doanh nghiệp xây dựng, lựa chọn các chính sách giá hợp lý, phù
hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường.
Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi
phí liên quan đến công tác bán hàng và công tác quản lý doanh nghiệp. Các
chi phí này có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch, kiểm tra giám sát
việc thực hiện kế hoạch về các khoản chi phí này, đồng thời có biện pháp
giảm thiểu các chi phí không cần thiết.
Trang
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
-Có biện pháp đôn đốc, thu hồi đầy đủ kịp thời vốn của doanh
nghiệp, tăng vòng quay của vốn lưu động.
Trước khi ký kết hợp đồng, doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ khách hàng
của mình về các yêu cầu, về khả năng thanh toán và về uy tín của khách
hàng, đặc biệt đối với các khách hàng lớn và có khả năng quan hệ lâu dài.
Doanh nghiệp phải thường xuyên đôn đốc việc thu hồi nợ, đa dạng hoá các
phương thức thanh toán, thoả thuận với khách hàng về phương thức thanh
toán và thời hạn thanh toán hợp lý tạo điều kiện cho doan nghiệp thu hồi
vốn nhanh, rút ngắn chu kỳ thanh toán, trang trải kịp thời các chi phí và đáp
ứng được nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh doanh khác.
Kết quả bán hàng được tính dựa trên cơ sở doanh thu thuần và chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Đây là phần thu nhập lớn nhất
đối với bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh thương mại nào. Nếu công tác bán
hàng được quản lý chặt chẽ, hợp lý tất yếu sẽ dẫn đến kết quả bán hàng sẽ
cao. Tuy nhiên ta cũng không thể tránh khỏi những sai sót có thể xảy ra.
Do vậy cần có một công cụ đắc lực, hợp lý để tổng hợp quá trình trên: Bán
hàng - xác định kết quả bán hàng - đó là hạch toán kế toán. Nó đảm bảo
cung cấp thông tin một cách chính xác, đầy đủ và kịp thời, cho phép doanh
nghiệp đạt được ba mục tiêu chiến lược: Lợi nhuận - vị trí và an toàn.
Thoả mãn được các yêu cầu đó góp phần tăng hiệu quả sử dụng vốn
trong doanh nghiệp, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp và góp phần làm tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
I.1.2. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng.
I.1.2.1.Vai trò của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
Đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với doanh nghiệp thương
mại nói riêng, tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng có vai trò quan trọng.
Trang
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Thông qua các số liệu của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng cung cấp, ban lãnh đạo công ty có thể thấy được những thiếu sót giữa
khâu mua, khâu dự trữ và khâu bán, phát hiện những hàng hoá chậm luân
chuyển, hàng hoá luân chuyển nhanh, từ đó tìm ra biện pháp thúc đẩy quá
trình lưu thông hàng hoá, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động.
Từ số liệu trên báo cáo tài chính mà kế toán bán hàng và xác định kết
quả bán hàng cung cấp, nhà nước nắm được tình hình kinh doanh và tình
hình tài chính của doanh nghịp. Qua đó nhà nước kiểm tra việc chấp hành
các chế độ tài chính kế toán, đồng thời thực hiện được các chức năng quản
lý vĩ mô nền kinh tế.
Ngoài ra thông qua số liệu kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng cung cấp, các đối tác biết được khả năng của doanh ngiệp trong việc
mua bán hàng hóa, từ đó ra các quyết định trong quan hệ hợp tác với doanh
nghiệp,như: Đầu tư, cho vay vốn hay bán chịu với khối lượng lớn...
I.1.2.2. Nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
Để quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sử dụng
nhiều công cụ quản lý khác nhau. Trong đó, kế toán được sử dung như một
công cụ không thể thiếu đôi với mỗi doanh nghiệp. Do vậy, để thực hiện tốt
vai trò của mình, kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng cần thực
hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Ghi chép đầy đủ, kịp thời khối lượng thành phẩm, hàng hoá dịch
vụ bán ra và tiêu thụ nội bộ, tính toán đúng đắn trị giá vốn của
hàng đã bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và các
khoản chi phí khác nhằm xác định đúng kết quả bán hàng.
- Kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện kế hoạch bán hàng, kế hoạch
lợi nhuận, phân phối lợi nhuận, kỷ luật thanh toán và làm nghĩa vụ
với nhà nước.
Trang
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
- Cung cấp thông tin chính xác, trung thực và đầy đủ về tình hình
bán hàng, xác định kết quả phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính
và quản lý doanh nghiệp.
Thực hiện những nhiệm vụ cơ bản trên, thông tin kế toán đã giúp
những người quản lý doanh nghiệp nắm vững tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, thiết lập được mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu
dùng, tìm ra và lựa chọn phương án bán hàng có hiệu quả nhất, từ đó định
hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Để phát huy được vai trò và thực hiện tốt các nhiệm vụ đã nêu trên,
đòi hỏi công tác kế toán phải được tổ chức rất khoa học, hợp lý, đồng thời
cán bộ kế toán phải nắm vững nội dung của việc tổ chức công tác kế toán
bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
I.2.LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÀN BÁN
HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG.
I.2.1.Các phương thức bán hàng.
Phương thức bán hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng các
tài khoản kế toán để phản ánh tình hình xuất kho thàn phẩm, hàng hoá.
đồng thời có tính chất quyết định đối với việc xác định thời điểm bán hàng,
hình thành doanh thu bán hàng và tiết kiệm chi phí bán hàng để tăng lợi
nhuận.
Hiện nay các doanh nghiệp thường vận dụng các phương thức bán
hàng sau đây:
I.2.1.1.Bán hàng theo phương thức giao hàng trực tiếp.
Theo phương thức này, bên khách hàng uỷ quyền cho cán bộ nghiệp
vụ đến nhận hàng tại kho của doanh ngiệp hoặc giao hàng tay ba tại địa
điểm của người bán. Người nhận sau khi ký vào chứng từ bán hàng của
doanh nghiệp bán thì hàng hoá được xác nhận là đã bán. Khi đó doanh
Trang
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
nghiệp nhận được tiền hoặc được quyền thu tiền. thời điểm xác nhận doanh
thu chính ngay tại thời điểm bán.
Phương thức bán hàng này còn bao gồm các phương thức bán hàng
cụ thể sau, như: Bán buôn, bán lẻ, bán hàng đổi hàng.
Đối với bán buôn có hai phương thức : Phương thức bán hàng qua
kho và phương thức bán hàng không qua kho.
*Phương thức bán hàng qua kho.
Theo phương thức này hàng hoá mua về được nhập kho , rồi từ kho
xuất bán ra. người mua có thể nhận hàng ngay tại kho của đơn vị bán hay
tại địa điểm do hai bên thỏa thuận, chi phí vận chuyển có thể do bên bán
hoặc bên mua chịu.
*Phương thức bán hàng không qua kho.
Theo phương thực này hàng hoá sẽ đợc vận chuyển thẳng từ đơn vị
cung cấp đến đơn vị mua mà không qua việc nhập xuất vào kho của doanh
nghiệp. Đối với hàng nhập khẩu, hàng hoá được giao ngay cho đơn vị mua
tại sân bay, bến cảng... hoặc chuyển ngay từ sân bay, bến cảng đén nơi
người mua yêu cầu.
Đối với bán lẻ: Người mua chủ yếu là những khách hàng mua với
mục đích tiêu dùng, không với mục đích kinh doanh. Người mua đến cửa
hàng, chi nhánh của công ty để mua, nhận hàng và thường thanh toán toàn
bộ số tiền của lô hàng đó.
Đối với bán hàng đổi hàng: Doanh ngihệp giao hàng cho khách hàng
và đổi lại khách hàng giao cho doanh nghiệp vật tư, hàng hoá với giá trị
tương ứng, phương thức này chia làm ba trường hợp:
- Trao đổi hàng lấy ngay
- Xuất hàng hoá trước, láy vật tư, hàng hoá về sau.
- Lấy vất tư, hàng hoá trước, xuất hàng trả sau.
I.2.1.2.Bán hàng theo phương thức gửi hàng.
Trang
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Theo phương thức này định kỳ doanh nghiệp gửi hàng cho khách
trên cơ sở thoả thuận trong hợp đồng mua bán giữa hai bên và giao hàng tại
địa điểm đã quy ước trong hợp đồng. Khi xuất kho gửi đi hàng vẫn thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp. Kế toán chỉ được ghi nhận doanh thu
trong những trường hợp sau:
-Doanh nghiệp nhận được số tiền do khách hàng thanh toán: tiền
mặt, giấy báo Có của ngân hàng,séc...
-Khách hàng đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán.
-Khách hàng đã ứng trước tiền hàng về số hàng đó.
-Hai bên thoả thuận thanh toán theo kế hoạch.
Trong phương thức này, bán hàng qua đại lý là chủ yếu, doanh thu
được xác định khi đại lý thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng.
I.2.2Doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng.
I.2.2.1.Doanh thu bán hàng, nguyên tắc xác định doanh thu bán hàng.
Sau khi giao hàng cho khách hàng, doanh nghiệp được khách hàng
trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán một khoản tiền tương ứng với giá trị
hàng hoá theo thoả thuận. Khoản tiền này được gọi là doanh thu bán hàng.
*Doanh thu bán hàng: Là tổng giá trị thực hiện cho hoạt động tiêu
thụ sản phẩm, hàng hoá,cung cấp lao vụ, dịch vụ cho khách hàng.
Doanh thu bán hàng thường được phân biệt cho từng loại hoạt động
bán hàng, như: Doanh thu bán hàng hoá, doanh thu bán sản phẩm, doanh
thu cung cấp dịch vụ. Cụ thể hơn, doanh thu bán hàng cũng có thể được
tính cho chi tiết từng loại hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ tiêu thụ. Ngoài ra,
ta cũng có thể phân biệt
doanh thu bán hàng theo phạm vi tiêu thụ, bao gồm: Doanh thu bán ra
ngoài và doanh thu bán hàng nội bộ.
Việc xác định doanh thu bán hàng tại các doanh nghiệp áp dụng tính
thuế Giá trị gia tăng theo các phương pháp khác nhau thì khác nhau:
Trang
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
+Đối với doanh nghiệp nộp thuế Giá trị gia tăng theo phương pháp
khấu trừ thì doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền bán hàng chưa có thuế
Giá trị gia tăng, gồm cả phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có).
+Đối với doanh nghiệp nộp thuế Giá trị gia tăng theo phương pháp
trực tiếp thì doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền hàng gồm cả phụ thu và
phí thu thêm ngoài giá bán( nếu có).
* Nguyên tắc xác định doanh thu bán hàng.
Việc tổ chức công tác kế toán phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định, việc hạch toán doanh thu cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định. Khi xác định doanh thu phải xác định đúng thời điểm ghi nhận doanh
thu. Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm doanh nghiệp giao hàng
cho khách hàng, được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Do đó, có thể xảy ra các trường hợp sau:
-Doanh thu được ghi nhận tại thời điểm giao hàng.
-Doanh thu được ghi nhận sau thời điểm giao hàng.
Thời điểm ghi nhận doanh thu có thể phát sinh nguồn tiền hoặc
không phát sinh nguồn. Trường hợp bán hàng thu tiền ngay, nguồn tiền
phát sinh, doanh thu bán hàng chính là số tiền thu được. trường hợp bán
hàng chưa thu được tiền ngay, chưa phát sinh nguồn tiền, người mua chấp
nhận thanh toán, song đến cuối kỳ doanh nghiệp vẫn chưa thu được tiền,
khi đó doanh thu được tính cho kỳ này nhưng sang kỳ sau mới có tiền nhập
quỹ.
Trường hợp giữa khách hàng và doanh nghiệp có áp dụng phương
pháp thanh toán theo kế hoạch thì khi gửi sản phẩm, hàng hoá cho người
mua doanh thu coi như được xác định.
Trường hợp người mua trả trước hoặc trả tiền tương ứng với số hàng
cung cấp nhưng chưa đủ số hàng cần và chưa được chấp nhận thì doanh
nghiệp không được ghi nhận doanh thu.
Trang
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
I.2.2.2. Các khoản giảm trừ doanh thu.
Trong quá trình bán hàng, có thể phát sinh các khoản giảm trừ doanh
thu. Các khoản này bao gồm: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, giảm
giá hàng bán, hàng bán bị trả lại.
*Thuế tiêu thụ đặc biệt:
Là sắc thuế thuộc loại thuế tiêu dùng, đánh vào việc chi tiêu cho
hàng hoá dịch vụ đặc biệt do nhà nước quy định nhằm hướng dẫn tiêu
dùng, điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao và góp phần đảm
bảo nguồn thu cho nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
*Thuế xuất khẩu:
Là sắc thuế thuộc loại thuế tiêu dùng đánh vào các loại hàng hoá xuất
khẩu nhằm kiểm soát hoạt động trong và ngoài nước, định hướng đúng
đắn trong việc sản xuất kinh doanh, và đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà
nước.
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu được xác định căn cứ vào số
lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ, giá tính thuế và thuế suất của
từng mặt hàng do nhà nước quy định trong từng thời kỳ.
*Giảm giá hàng bán.
Giảm giá hàng bán là số tiền người bán giảm giá cho người mua trên
giá bán đã thoả thuận vì lý do hàng bán kém phẩm chất, không đúng quy
cách, thời hạn đã quy định trong hợp đồng hoặc do khách mua với số
lượng lớn. Giảm giá hàng bán có ba loại sau:
- Giảm giá.
- Bớt giá:Là khoản giảm trừ trên giá bán thông thường vì lý do mua
hàng với khối lượng lớn, khoản này được tính theo tỷ lệ trên giá bán,
người bán thực hiện bớt giá cho người mua ngay sau lần mua hàng.
- Hồi khấu: Là khoản giảm trừ tính trên tổng số các nghiệp vụ đã
thực hiện với một khách hàng trong một thời gian nhất định.
*Hàng bán bị trả lại.
Trang
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Trị giá hàng bán bị trả lại là số tiền doanh nghiệp phải trả cho khách
hàng trong trường hợp hàng xác định là đã bán nhưng do hàng kém phẩm
chất, sai quy cách , chủng loại, mẫu mã... khách hàng trả lại số hàng đó.
I.2.3.Giá vốn hàng bán
Trị giá vốn hàng xuất bán là trị giá vốn thành phẩm, hàng hoá, dịch
vụ xuất bán trong kỳ. Đối với doanh nghiệp thương mại, trị giá hàng xuất
kho để bán bao gồm giá mua thực tế và chi phí thu mua của số hàng đã
xuất kho.
Giá mua thực tế của hàng xuất bán là giá mua phải trả cho người bán.
Nếu hàng hoá là hàng nhập khẩu thì ngoài giá mua thực tế còn bao gồm
cả thuế nhập khẩu.
Chi phí thu mua của số hàng xuất bán bao gồm các chi phí liên quan
trực tiếp đến quá trình mua hàng như: Chi phí bảo hiểm hàng hoá, tiền
thuê kho, thuê bến bãi, chi phí vận chuyển, bảo quản, bốc xếp... đưa hàng
từ nơi mua về kho doanh nghiệp.
Do hàng mua về nhập kho có thể có giá trị thực tế nhập kho khác
nhau ở những thời điểm khác nhau trong kỳ hạch toán. Doanh nghiệp phải
căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình, khả năng nghiệp vụ
của cán bộ kế toán... kế toán doanh nghiệp cần lựa chọn phương pháp xác
định giá vốn hàng xuất kho bán hợp lý nhất.
Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương pháp tinh giá
vốn hàng xuất kho sau:
*Phương pháp đơn giá bình quân.
Phương pháp đơn giá bình quân bao gồm hai phương pháp:
-Phương pháp bình quân gia quyền:
Theo phươngpháp này, hàng hoá xuất bán chưa ghi sổ giá vốn hàng
xuất. Cuối tháng, căn cứ vào số hàng tồn đầu kỳ và số hàng nhập trong kỳ
kế toán tính được giá bình quân của hàng hoá theo công thức:
Trang
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Giá thực tế Giá thực tế
Hàng tồn kho + hàng nhập
Đơn giá đầu kỳ
bình quân =
trong kỳ
gia quyền Số lượng hàng
tồn đầu kỳ
+ Số lượng hàng
nhập trong kỳ
Từ đó ta xác định được giá vốn hàng xuất kho:
Giá thực tế Số lượng Đơn giá thực tế
hàng hoá = hàng hoá X bình quân
xuất kho xuất kho gia quyền
Phương pháp này có ưu điểm tính toán đơn giản, dễ làm nhưng đến
cuối kỳ mới tính được giá vốn của hàng xuất bán. Do vậy phương pháp
này thường được sử dụng ở những doanh nghiệp mà số chủng loại hàng
hoá không lớn, hạch toán đơn giản.
-Phương pháp bình quân liên hoàn
Về cơ bản, phương pháp này giống phương pháp trên, nhưng đơn giá
bình quân được xác định trên cơ sở giá thực tế của hàng tồn đầu kỳ và đơn
giá của hàng nhập trong kỳ. Cứ sau mỗi lần nhập kho hàng hoá thì lại tính
lại giá thực tê bình quân sau lần nhập đó.
Giá thực tế Số lượng Đơn giá thực tế
của hàng = hàng X bình quân
xuất kho xuất kho trước khi xuất
Theo phương pháp này, ở bất kỳ thời điểm nào trong kỳ kế toán cũng
có thể xác định được giá thực tế của hàng xuất kho. Song khối lượng công
việc tính toán lại nhiều, nên phương pháp này thường được áp dụng ở
doanh nghiệp có ít chủng loại hàng hoá, số lần nhập ít.
*Phươngpháp thực tế đích danh:
Trang
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Theo phương pháp này hàng hoá nhập kho theo giá nào thì xuất kho
theo giá đó. trị giá vốn của hàng xuất bán được tính căn cứ vào số lượng
hàng xuất kho và đơn giá nhập của lô hàng đó.
Phương pháp này phản ánh chính xác giá của từng lô hàng xuất,
nhưng công việc rất phức tạp đòi hỏi thủ kho phải nắm chi tiét từng lô
hàng. Phương pháp này thường được áp dụng cho các loại hàng hoá có giá
trị cao, nhập theo lô và được bảo quản riêng theo từng lô của mỗi lần
nhập.
*Phương pháp nhập trước, xuất trước.
Phương pháp nàydựa trên giả định rằng hàng hoá nào nhập trước sẽ
được xuất trước và lấy đơn giá mua thực tế của lần nhập đó để tính giá
vốn hàng xuất kho. Trị giá của hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo số
lượng hàng tồn kho và đơn giá của những lần nhập sau cùng.
Phương pháp này thường được áp dụng cho những doanh nghiệp có
khả năng quản lý cao về điều kiện, thời gian bảo quản... Khi tính toán trị
giá vốn đòi hỏi phải có sự phân loại hàng hoá rõ ràng nen việc quản lý
hạch toán phức tạp.
Trang
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
*Ph ương pháp nhập sau, xuất trước.
Về cơ bản phương pháp này cũnh như phương pháp nhập trước xuất
trước. Song phươngpháp này dựa trên giả định rằng hàng nào nhập sau thì
xuất trước và trị giá hàng xuất kho được tính bằng cách căn cứ vào số
lượng hàng xuất kho, đơn giá của từng lô hàng nhập mới nhất hiện có
trong kho. Trị giá hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo số lượng hàng tồn
kho và đơn giá của nhưng lô hàng nhập cũ nhất và đơn giá của lô hàng
nhập sau khi xuất lần cuối tính đến thời điểm xác định số tồn kho.
Phương pháp này thường được áp dụng tại các doanh nghiệp kinh
doanh những mặt hàng mà giá cả biến động mạnh qua những lần nhập.
Nói chung hai phương pháp nhập trước xuất trước và nhập sau xuất
trước cung cấp giá trị phù hợp của hàng xuất kho trong nhiều trường hợp
linh động khác nhau nhưng lại gây khó khăn trong việc hạch toán chi tiết
hàng hoá tồn kho cũng như việc tổ chức kho. Do đó các phương pháp này
chỉ áp dụng trong các doanh nghiệp mà việc nhập, xuất kho theo lô lớn và
không thường xuyên.
*Phương pháp giá hạch toán.
Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp đặt ra, có thể là giá kế hoạch
hoặc giá cuối kỳ trước và được sử dụng thống nhất tong một kỳ hạch toán.
Giá thực tế Giá hạch toán Hệ số
Của hàng hoá = hàng hoá X giá của
Xuất kho trong kỳ xuất kho hàng hoá
Trong đó:
Giá thực tế + Giá thực tế
Hệ số hàng tồn đầu kỳ hàng nhập trong kỳ
giá của =
hàng hoá Giá hạch toán + Giá hạch toán
Trang
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
hàng tồn đầu kỳ hàng nhập trong kỳ
Giá hạch toán thường được sử dụng để đánh giá thành phẩm, hàng
hoá trong các doanh nghiệp có quy mô lớn, khối lượng hàng hoá nhiều,
tình hình nhập , xuất diễn ra thường xuyên, việc xác định giá thực tế khó
khăn.
Mỗi phương pháp tính giá đều có nội dung, ưu, nhược điểm khác
nhau. Doanh nghiệp khi lựa chọn phương pháp tính giá hàng xuất kho
phải đảm bảo nguyên tắc nhất quán trong các liên độ kế toán để đảm bảo
tính so sánh được của các báo cáo tài chính.
I.2.4.Chi phí bán hàng.
Trong quá trình bán hàng, doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi phí
cho khâu lưu thông hàng , như: vận chuyển, bao gói, giao dịch...Chi phí
bán hàng là các khoản chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thu các loại sản
phảm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ như chi phí nhân viên bán hàng, chi phí
thuê kho bãi, chi phí vận chuyển, bốc dỡ... Theo quy định hện hành, chi phí
bán hàng chia thành các loại sau:
-Chi phí nhân viên: Là các khoản trả cho nhân viên bán hàng, nhân
viên đóng gói sản phẩm, hàng hoá, bảo quản vận chuyển hàng hoá... bao
gồm tiền lương, tiền công, các loại phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, kinh phí công đoàn...
- Chi phí vật liệu, bao bì: Là khoản chi về vật liệu, bao bì bao gói sản
phẩm, hàng hoá dùng cho bảo quản và vận chuyển sản phẩm, hàng hoá.
- Chi phí dụng cụ, đồ dùng: Chi về công cụ, dụng cụ phục vụ cho công
tác bán hàng, như: Dụng cụ đo lường tính toán, phương tiện làm việc...
-Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là chi phí khấu hao các loại tài sản
cố định dùng trong khâu tiêu thụ hàng hoá, như : nhà kho, cửa hàng,
phương tiện vận chuyển, bốc dỡ...
Trang
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
- Chi phí bảo hành: Là khoản chi trả cho các chi phí phát sinh liên
quan đến hàng hoá được bảo hành của Công ty trong thời gian hàng hoá đó
được bảo hành, như: Chi phí sửa chữa, thay đổi phụ tùng, máy móc... của
hàng hoá được bảo hành.
-Chi phí dịch vụ mua ngoài như tiền thuê kho bãi, thuê bốc vác, vận
chuyển, hoa hồng cho đại lý bán hàng, hoa hồng cho đơn vị nhận uỷ thác
xuất khẩu.
-Chi phí bằng tiền khác: Chi phí tiếp khách, đàm phán, giao dịch, chi
phí giới thiệu sản phẩm, chào hàng.
Toàn bộ chi phí bán hàng phát sinh trong kỳ đã tập hợp được, đến cuối
kỳ, kế toán thực hiện kết chuyển hoặc phân bổ để xác định kết quả kinh
doanh. Trường hợp doanh nghiệp có dự trữ hàng hoá, chi phí bán hàng phát
sinh trong kỳ có sự biến động lớn cần phân bổ một phần chi phí cho hàng
còn lại cuối kỳ.
Chi phí bán hàng Chi phí bán hàng
cần phân bổ + phát sinh trong kỳ
Chi phí bán hàng còn lại đầu kỳ Trị giá hàng
phân bổ cho hàng = x còn lại
còn lại cuối kỳ Trị giá hàng xuất + Trị giá hàng còn cuối kỳ
trong kỳ lại cuối kỳ
Từ đó xác định chi phí bán hàng cho hàng phân bổ đã bán trong kỳ:
Chi phí bán hàng CPBH CPBH CPBH phân bổ
phân bổ cho hàng = phân bổ cho hàng + hàng phát sinh - cho hàng còn
đã bán trong kỳ còn lại đầu kỳ trong kỳ lại cuối kỳ
I.2.5- Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí quản lý doanh nghiệp là những chi phí cho việc quản lý kinh
doanh, quản lý hành chính và phục vụ chung khác có liên quan đến hoạt
Trang
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
động của cả doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, chi phí quản lý doanh
nghiệp bao gồm các loại sau:
- Chi phí nhân viên quản lý: bao gồm chi phí về lương, phụ cấp, các
khoản trích theo lương của nhân viên quản lý, như: bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn...
- Chi phí vật liệu quản lý: giá trị nhiên, nguyên vật liệu xuất dùng
cho công tác quản lý.
- Chi phí đồ dùng văn phòng: giá trị công cụ đồ dùng văn phòng
dùng cho quản lý.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: chi phí khấu hao những tài sản cố
định dùng chung cho doanh nghiệp như: văn phòng, kho tàng, phương tiện
vận tải truyền dẫn, máy móc thiết bị nghiệp dùng cho văn phòng.
- Thuế, phí và lệ phí: các chi phí về thuế như thuế môn bài, thuế nhà
đất, thuế giá trị gia tăng..., các loại phí và lệ phí khác.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: chi phí về điện nước, điện thoại, thuê
nhà, thuê sửa chữa tài sản cố định dùng chung cho doanh nghiệp.
- Chi phí bằng tiền khác: các khoản chi phí phát sinh do nhu cầu
quản lý, ngoài các khoản chi trên như : chi hội nghị, công tác phí...
Cuối kỳ, kế toán thực hiện kết chuyển , phân bổ chi phí quản lý
doanh nghiệp để xác định kết quả kinh doanh. Trường hợp chi phí quản lý
doanh nghiệp cần phân bổ thì chi phí quản lý quản lý doanh nghiệp sẽ được
phân bổ theo cách chi phí bán hàng được phân bổ ở trên.
I.2.6- Kết quả bán hàng.
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là lợi nhuận, do vậy họ đặc
biệt quan tâm đến lỗ, lãi. Vì vậy, kế toán bán hàng luôn gắn liền với việc
xác định kết quả hoạt động kinh doanh- kết quả bán hàng. Kết quả hoạt
động kinh doanh lại là thành phần chính cấu thành nên kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Trang
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Kết quả hoạt động kinh doanh- kết quả bán hàng được xác định theo
công thức tính sau:
Kết quả Tổng Các khoản Giá vốn CPBH ,CPQLDN
= doanh thu - giảm trừ - - phân bổ cho hàng
bán hàng bán hàng DT bán bàng hàng bán bán ra
Kết quả kinh doanh là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh
doanh trong một thời kỳ nhất định của một doanh nghiệp, phản ánh hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp. Qua đó có thể đánh giá được sự tồn tại và
xu hướng phát triển của doanh nghiệp.
I.2.7- Thuế giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu thụ đánh vào các loại hàng hoá,
dịch vụ tiêu dùng. Nó được tính căn cứ vào giá tính thuế và thuế suất áp
dụng cho loại hàng đó. Thuế gia trị gia tăng đầu ra chính là phần thuế
người tiêu dùng phải chịu nhưng người bán nộp thay.Tuỳ từng loại hình
doanh nghiệp mà các doanh nghiệp có thể nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ hay phương pháp trực tiếp. ở các doanh nghiệp nộp thuế giá trị gia tăng
theo phương pháp khấu trừ thì số thuế giá trị gia tăng phải nộp sẽ là số thuế
giá trị gia tăng đầu ra trừ đi số thuế giá trị gia tăng đầu vào. ở các doanh
nghiệp nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp, thuế giá trị gia
tăng sẽ được tính vào chi phí quản lý doanh nghiệp , phần thuế, lệ phí, để
trừ vào kết quả hoạt động kinh doanh.
I.3- TỔ CHỨC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ
BÁN HÀNG.
I.3.1- Chứng từ kế toán sử dụng.
Trang
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
Chứng từ kế toán là một phương thức kiểm tra và giám đốc các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh của doanh nghiệp. Khi phát sinh các nghiệp vụ
bán hàng, kế toán phải lập, thu thập đầy các chứng từ phù hợp theo đúng
nội dung, quy định của nhà nước, nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý để ghi sổ kế
toán.
Các chứng từ kế toán chủ yếu dùng trong kế toán bán hàng:
- Hoá đơn bán hàng(thường là hoá đơn GTGT)
- Phiếu xuất kho(mẫu 02-VT)
- Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho(mẫu 02-BH)
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ(mẫu 03-VT)
- Phiếu thu
- Giấy báo có của ngân hàng....
Trường hợp doanh nghiệp là doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn sử
dụng một số chứng từ:
- Hoá đơn thương mại
- Vận đơn
- Tờ khai hải quan
- Phiếu đóng gói
- Giấy chứng nhận kiểm định
- Bảng kê chi tiết hàng xuất nhập khẩu...
Người lập chứng từ phải chịu trách nhiệm về tính hợp lý, hợp pháp
của các chứng từ về các nghiệp vụ kinh tế - tài chính phát sinh. Mọi chứng
từ kế toán phải được tổ chức luân chuyển theo trình tự và thời gian hợp lý
do kế toán trưởng quy định, phục vụ cho việc ghi chép, phản ánh tổng hợp
kịp thời của các bộ phận, các phòng ban có liên quan.
I.3.2- Tài khoản kế toán sử dụng.
Để phản ánh quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng doanh
nghiệp, kế toán sử dụng hệ thống tài khoản sau:
Trang
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phạm Trung Hiếu
-TK 156 “Hàng hoá”: Là tài khoản phản ánh số hiện có và tình hình
tăng giảm hàng hoá trong các doanh nghiệp thương maị, dịch vụ và những
cơ sở sản xuất có tổ chức hoạt động kinh doanh hàng hoá.
TK 156 gồm 2 TK cấp hai:
+TK 1561: trị giá mua hàng hoá.
+TK 1562: Chi phí mua hàng hoá.
-TK 611”Mua hàng”: Tài khoản này phản ánh trị giá vốn của hàng
luân chuyển trong kỳ. TK được sử dụng trong trường hợp doanh nghiệp
hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
- TK 151 “Hàng mua đang đi đường”: TK phản ánh trị giá hàng hoá
doanh nghiệp đã mua, đã thanh toán hoặc đã chấp nhận thanh toán nhưng
chưa về nhập kho doanh nghiệp
- TK 157 “Hàng gửi đi bán”: Tài khoản phản ánh số hiện có và tình
hình biến động của trị giá vốn hàng hoá gửi đi bán.
-TK511 “Doanh thu bán hàng”: TK dùng để phản ánh doanh thu bán
hàng thực tế phát sinh tại doanh nghiệp.
TK 511 không có số dư cuối kỳ và có 4 tài khoản cấp hai:
+TK 5111: Doanh thu bán hàng hoá.
+TK 5112: Doanh thu bán thành phẩm.
+TK 5113: Doanh thu cung cấp dịch vụ.
+TK 5114: Doanh thu trợ cấp, trợ giá.
-TK512 “Doanh thu bán hàng nội bộ”: Dùng để phản ánh tình hình
bán hàng trong nội bộ một doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập.
TK 512 không có số dư cuối kỳ và có ba TK cấp hai:
+TK 5121: Doanh thu bán hàng hoá.
+TK 5122: Doanh thu bán sản phẩm.
+ TK5123: Doanh thu cung cấp dịch vụ.
Trang
25