Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

ĐỀ CƯƠNG LỊCH sử ĐẢNG 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.92 KB, 29 trang )

1

Họ và tên……………………………….….
Lớp………………………………………...
Đơn vị……………………………………...
NỘI DUNG THẢO LUẬN
Câu 1:
Chứng minh
ra đời Đảng
Cộng sản Việt
Nam là một tất
yếu lịch sử xã
hội Việt Nam
cuối thế kỷ
XIX – đầu thế
kỷ XX? Liên
hệ vai trò lãnh
đạo của Đảng
thời kỳ đổi
mới đất nước
hiện nay.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra là một bước ngoặt lớn, đáp ứng nhu cầu bức thiết, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng
đường lối sâu sắc, là nhân tố quyết định của mọi thắng lợi cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời,
cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt
Nam nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu lịch sử


a) Về lý luận
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải
có hệ thống lí luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản. Sự ra đời
của Chủ nghĩa Mác – Lênin và đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc dấu tranh của giai cấp cơng nhân
chống áp bức, bóc lột.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác -Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào công nhân
phát triển mạnh theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng
lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
b) Về thực tiễn
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh
tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, hình thành giai cấp địa chủ, giai


2

cấp nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tư sản Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam; xã hội Việt
Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu
nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Trước sự xâm luợc của thực dân Pháp, nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã nổ ra. Theo khuynh
hướng phong kiến tiêu biểu có phong trào Cần Vương (1885-1896); Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913). Theo
khuynh hướng tư sản tiêu biểu có Phong trào Đơng Du (1905 - 1908); Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907);
Khởi nghĩa Yên Bái (1929)… Tuy nhiên do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu
chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản
(công nhân và nông dân) nên cuối đều không thành công. Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phòng
trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất quan trọng, tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận
chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố
dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã chứng tỏ con

đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình
trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường
cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và
năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
2. Các nhân tố tác động đến sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Chủ nghĩa Mác Lênin, Phong trào công nhân
và phong trào yêu nước.
a) Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác Lênin - vũ lý luận tư tưởng của giai cấp công nhân chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra đời đảng
cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân chống áp bức, bóc lột, thiết lập chính
quyền cơng nơng và xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã lôi cuốn quần chúng nhân
dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản.


3

Là người truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin được vào Việt Nam. Bằng tài năng của mình, với lịng u nước vơ
bờ bến, Nguyễn Ái Quốc đã sớm tìm đường cứu nước và bắt gặp ánh sáng Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra ĐCS Việt Nam.
b) Phong trào công nhân
Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô Viết dựa trên nền tảng liên minh
công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bonsêvich Nga ra đời. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ
nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới “thời đại cách mạng chống
đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhân dân các nước. Nguyễn ái Quốc khẳng định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân
châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỉ nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành cơng thì
phải dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo
chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Ở Việt Nam mặc dù ra đời muộn, lực lượng còn tương đối khiêm tốn, nhưng sau khi được giác ngộ bởi Chủ

nghĩa Mác – Lênin, phong trào đấu tranh trong giai cấp công nhân đã phát triển mạnh mẽ, xứng đáng là lực lượng
đại diện lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
c) Phong trào yêu nước
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến, tư tưởng tư sản
Yêu nước làm một truyền thống vô cùng quý báu, được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng
phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Sự thất bại này chứng tỏ con
đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình
trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường
cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân có đủ uy tín và năng
lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến thành công.
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản:
+ Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam:


4

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tìm
hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đặc biệt quan tâm tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật” và bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc
tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của Người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn
“Muốn cứu nước phải giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”. Người đã
tích cực xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị
điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, 03 tổ chức cộng sản trong nước lần lượt
ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng; An Nam Cộng sản Đảng; Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Mặc dù giương
cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên

đây hoạt động phân tán, chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc
phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu khẩn thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp
bách trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam.
Và Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời chính là hệ quả tất yếu của những tác động đó. Đảng chính là kết tinh của
trí tuệ Việt, cho thấy sự sáng suốt của người anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh.
III. KẾT LUẬN – LIÊN HỆ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

Trên cơ sở xác định được vị trí cầm quyền, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã khẳng định được vai trò lãnh đạo
đối với đất nước và dân tộc. Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở những điểm sau:
Về tư tưởng chính trị: Trong bối cảnh phức tạp của tình hình trong nước và sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu, Đảng vẫn xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Nhờ xác định được hệ tư tưởng và đường lối đúng đắn, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng đã dẫn dắt đất nước và dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành được
những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Về kinh tế: Trong thời kỳ đổi mới, Đảng không ngừng đổi mới nhận thức và tư duy lý luận về kinh tế. Từ tư


5

duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm về mơ
hình kinh tế tổng qt trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là bước đột phá lý luận cơ bản và sáng tạo của Đảng, là thành quả lý luận quan trọng qua 20 năm
thực hiện Cương lĩnh năm 1991, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Về văn hóa – xã hội: Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng trong thời kỳ đổi mới là: gắn kinh tế với xã hội,
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt q trình phát triển. Bên cạnh đó, Đảng xác định phát
triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội; xây dựng văn hóa và con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc
sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là đầu tư cho phát triển. Xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về đối ngoại: Sự chuyển biến tư duy quan trọng trong lĩnh vực đối ngoại là quan điểm “thực hiện đa dạng hóa,
đa phương hóa quan hệ quốc tế”. Trước xu thế tồn cầu hóa kinh tế, Đảng chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác” theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường. Thơng điệp
ngoại giao là “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm của các tổ chức
quốc tế”, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn cầu, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển.
Về an ninh – quốc phòng: Trong bối cảnh mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vẫn được Đảng xác định là hai
nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, khái niệm và nội hàm “bảo vệ Tổ quốc” được xác
định đầy đủ hơn: Bảo vệ tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo
vệ chế độ xã gội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa
dân tộc, bảo vệ sự nghiệp đổi mới…; khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn
kết toàn dân với nền tảng là “thế trận lòng dân”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đổi mới hệ thống chính trị xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đổi mới, Đảng quan tâm chỉ đạo đổi mới hệ thống chính trị, chú trọng xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đảm bảo quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp. Mặt trận Tổ quốc Việt


6

Nam là Liên minh chính trị của đồn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các
dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội thông qua nhà
nước và thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, làm chủ thông qua hình thức tự quản và đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng.
Về công tác xây dựng Đảng: Nhận thức lý luận về công tác xây dựng Đảng được nâng lên một bước với việc
xác định đầy đủ hơn bản chất của Đảng và xác định rõ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng cũng như vai trò lãnh đạo
của Đảng. Bên cạnh đó, nội dung cơng tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước
pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế được nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng khẳng

định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt có ý nghĩa sống cịn trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng; thường xuyên
tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của
Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu lịch sử. Thực tiễn lịch sử 90 năm qua đã khẳng định, Đảng ra đời với
đường lối lãnh đạo đúng đắn là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt
Nam là lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đây là
bằng chứng sinh động và cơ sở khoa học khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là chính
đáng, hợp lịng dân và hợp pháp. Có thể nói, vị trí cầm quyền và lãnh đạo của Đảng là khơng “thiên tư, thiên vị”.
Câu 2:
Phân
tích
đường lối cách
mạng
giải
phóng dân tộc
của Đảng ta
thời kỳ 19301945? Liên hệ
những bài học
kinh nghiệm
thời kỳ đổi
mới đất nước

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngay khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào
cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Điều đó thể hiện tính
đúng đắn của Đường lối cách mạng thời kỳ này mà Đảng ta đã vạch ra.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng ta thời kỳ 1930-1945, có thể phân ra 03 giai đoạn cách

mạng cụ thể: GĐ 1930 – 1935; GĐ 1936 – 2939; GĐ 1939 – 1945.
1. Giai đoạn 1930 – 1935. Gắn với cương lĩnh chính trị 02/1930, Luận cương chính trị 10/1930 gắn liền với
cao trào cách mạng 1930 – 1931 và khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng.
a) Luận cương Chính trị T10/1930 (Gắn liền với Hội nghị T10/1930 của Đảng).


7

hiện nay?

- Nội dung Hội nghị:
+ Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương do Trần Phú soạn thảo.
+ Cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.
- Nội dung đường lối cách mạng (Luận Cương Chính trị T10/1930)
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: Lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có
“tính chất thổ địa và phản đế”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư
bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ cách mạng: Xố bỏ tàn tích phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng Dương
hồn tồn độc lập. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau. Trong đó “vấn đề thổ địa cách mạng là cái cốt
của cách mạng tư sản dân quyền”.
- Lực lượng cách mạng: Vô sản và nơng dân là lực lượng chính, trong đó vơ sản lãnh đạo cách mạng. Bỏ qua,
phủ nhận vai trò của tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và phú nơng.
- Vai trị của Đảng: “điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một
Đảng Cộng sản”. Đảng phải có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và được vũ trang bởi chủ nghĩa
Mác-Lênin.
- Phương pháp cách mạng: Võ trang bạo động, theo khuôn phép nhà binh.
- Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới vì thế giai cấp vơ sản Đơng
Dương phải gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp. Liên hệ với phong trào cách mạng ở các
nước thuộc địa, nửa thuộc địa.

* Luận cương đã vạch ra được nhiều vấn đề căn bản của cách mạng Việt Nam mà Chính cương vắn tắt và Sách
lược vắn tắt đã nêu ra, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế:
- Không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp.


8

- Khơng đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Chưa đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà cường điệu hoá những hạn
chế của họ.
b) Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng
Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động được một phong trào cách mạng
rộng lớn, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta
đã bị tổn thất lớn: nhiều cơ sở Đảng tan vỡ, nhiều cán bộ cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày. Phong
trào đấu tranh lắng xuống.
Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà quân thù khơng thể xố bỏ được là: Khẳng định
trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của giai cấp vơ sản, của Đảng; Hình thành một cách tự nhiên
khối liên minh công-nông trong đấu tranh cách mạng; Đem lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào cách
mạng.
Bị địch khủng bố nhưng một số nơi tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì: Hà Nội, Sơn Tây, Hải Phòng, Nghệ
Tĩnh…. Các đảng viên chưa bị bắt nỗ lực lần tìm lại cơ sở để lập lại tổ chức.
Công việc khôi phục Đảng phải kể đến vai trò to lớn của Quốc tế Cộng sản: Lựa chọn những thanh niên tốt
nghiệp tại Đại học Phương Đông, cử về Hồng Kông (Trung Quốc) thành lập Ban chỉ huy hải ngoại-hoạt động với tư
cách là Ban Chấp hành Lâm thời (thay cho Ban Chấp hành cũ đã tan vỡ): Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí
Kiên….Ban lãnh đạo hải ngoại do Lê Hồng Phong đứng đầu đã cơng bố Chương trình hoạt động của Đảng Cộng sản
Đơng Dương (tháng 6-1932).
Cuộc đấu tranh địi ân xá chính trị phạm đã dẫn tới năm 1934 tồn quyền Đơng Dương đã ký lệnh ân xá tù
chính trị ở Đông Dương. Đây là lần đầu tiên Pháp ký lệnh ân xá tù chính trị.
Như vậy, nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, đến cuối 1934 đầu
1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục và phong trào quần chúng dần được nhen nhóm lại.

Khi hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục từ cơ sở tới Trung ương, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết


9

định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề
ra các nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng cả về lượng và chất; Đẩy mạnh cuộc vận động và thu phục
quần chúng; Tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc…
2. Giai đoạn 1936 – 1939: Chủ trương, nhận thức mới của Đảng
- Hội nghị T7/1936, xác định:
+ Mục tiêu chiến lược: Không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất- “cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và
điền địa - lập chính quyền cơng nơng bằng hình thức Xơ viết”, “để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ
nghĩa”.
+ Kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
+ Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc
địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hịa bình. Để thực hiện được nhiệm vụ này, BCH TƯ quyết định lập
Mặt trận nhân dân phản đế gồm các giai cấp, đảng phái các đoàn thể chính trị và các tơn giáo khác nhau, các dân tộc
xứ Đơng Dương để cũng đấu tranh địi những quyền dân chủ đơn sơ.
+ Về đoàn kết quốc tế: Đồn kết với giai cấp cơng nhân và Đảng Cộng sản Pháp, ủng hộ Mặt trận Nhân dân
Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để cùng chống kẻ thù chung là phát xít và phản động thuộc địa ở
Đơng Dương.
+ Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật khơng
hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. Mục đích mở
rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.
- Hội nghị T10/1936, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban Chấp hành Trung ương cũng đặt
ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng
Đông Dương: cách mạng giải phóng dân tộc khơng nhất thiết phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. “Nếu
phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà
giải quyết trước”. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu
khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.



10

- Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi khẳng định sự chuyển hướng chỉ
đạo cách mạng đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ ba (3-1937), lần thứ tư (9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ
năm (3-1938) đã đi sâu về công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và
hoạt động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít, địi tự
do, cơm áo, hịa bình.
- Tại Hội nghị tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích, nhằm rút kinh
nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của Đảng viên, hoạt động cơng khai trong cuộc vận động tranh cử ở Hội đồng
quản hạt Nam kỳ (4-1939). Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm
cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tác phẩm khơng
chỉ có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng
cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về công tác xây dựng
Đảng, vận động quần chúng.
Tóm lại, trong những năm 1936-1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát động được một cao trào cách
mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng với các hình thức đấu tranh phong phú và
linh hoạt. Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần
chúng, chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi tầng lớp nhân dân,
tổ chức Đảng được củng cố và mở rộng.
3. Giai đoạn 1939- 1945
a) Chuyển hướng chỉ đạo Cách mạng. Thể hiện qua HNTW6 (11-1939), 7 (11-1940) và 8 (5-1941). Cụ thể:
Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho
dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng
đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Ở Việt Nam, Trung ương Đảng
quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân
biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.



11

Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng
trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành
xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh
công tác vận động quần chúng.
b) Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần
Ngày 9/3/1945, Nhật nổ súng lật đổ Pháp trên tồn cõi Đơng Dương. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung
ương ra Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Nội dung:
- Nhật đảo chính Pháp sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực
sự chín muồi, tuy nhiên nó sẽ làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi.
- Xác định kẻ thù là Nhật, khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời chủ trương phát động cao trào kháng
Nhật cứu nước làm tiền đề cho khởi nghĩa.
- Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa
- Từ giữa tháng 3/1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sơi nổi, mạnh mẽ và phong phú về
nội dung, hình thức.
Đảng phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước
Chiến tranh thế giới II kết thúc, thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh khơng
điều kiện (9/5/1945), phát xít Nhật đi gần đến chỗ thất bại hồn tồn, chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang
mang cực độ. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện. Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn
bị vào Đông Dương tước vũ khí qn Nhật.
- Ngày 13/8/1945 Hội nghị tồn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào quyết định tổng khởi
nghĩa giành quyền. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của
Đảng Cộng sản Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ chí Minh làm Chủ tịch. Hồ Chí Minh gửi thư
kêu gọi đồng bào cả nước: “giờ quyết định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức



12

ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vũng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Từ
ngày 14/8: Giải phóng qn tiến cơng các đồn Nhật ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, YênKỳ;
Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ.
Ngày 19/8: Giành chính quyền ở Thủ đơ Hà Nội. Ngày 23/8: Khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế. Ngày 25-8:
Quân Nhật ở Sài Gòn thất thủ. Ngày 28/8: Ta giành chính quyền trong cả nước. Chỉ trong vịng 15 ngày (14-28/8)
cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành cơng trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2/9: Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng
bào: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
III. KẾT LUẬN - LIÊN HỆ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

Cách mạng Tháng Tám để lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm lịch sử quan trọng. Bài học đầu tiên đó
là kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là bài học giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định rõ mục tiêu chiến lược lâu dài, nhiệm vụ trọng yếu trong từng thời kỳ cách mạng;
bài học phát huy cao độ sức mạnh đại đồn kết dân tộc mà nịng cốt là cơng - nơng - trí thức; bài học về nhận rõ đối
tượng cách mạng, phân loại lực lượng đối địch, thực hiện triệt để phương châm “thêm bạn bớt thù”; bài học nghệ
thuật khởi nghĩa, nghệ thuật tạo thời cơ; bài học về xây dựng một đảng Mác - Lênin chân chính, trong sạch, vững
mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân, chiến đấu, hy sinh vì lợi ích của nhân dân và dân tộc. Để rồi, Việt Nam trở
thành một quốc gia độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Bài học về việc đánh giá thời cơ, tạo thời cơ và nghệ thuật
chớp thời cơ trong CMT8 đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Câu 3:

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nội dung cơ
Thời kỳ 1945 – 1975 là thời kỳ Đảng ta thực hiện đường lối trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
bản về đường lược; tiến hành đồng thời hi cuộc cách mạng, cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc, dân chủ Nhân
lối cách mạng dân ở miền Nam. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thể hiện đường lối

giải phóng dân cách mạng độc lập, tự chủ, tự lực tự cường vô cùng sáng suốt và đúng đắn của Đảng ta.
tộc của Đảng
ta thời kỳ


13

1945-1975?
Liên hệ quan
điểm của Đảng
ta hiện nay?

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Đường lối xây dựng và bảo vệ chính quyền và đường lối kháng chiến chống Pháp xâm lược (1946-1954 )
Từ tháng 11/1946, qn Pháp tấn cơng Hải Phịng, Lạng Sơn, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội và ngày 18/12/1946
ra tối hậu thư địi tước vũ khí tự vệ ở thủ đô. Ngày 18/12/1946, Thường vụ Trung ương Đảng do Hồ Chủ tịch chủ trì
họp phân tích khả năng hồ hỗn khơng cịn nữa và phát động kháng chiến toàn quốc.
- Nội dung cơ bản đường lối kháng chiến:
+ Mục đích kháng chiến: là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực dân Pháp xâm lược, hồn
thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
+ Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Vì vậy,
cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
+ Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hồ bình. Đồn kết chặt chẽ tồn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến ...phải tự
cấp, tự túc về mọi mặt".
+ Nhiệm vụ kháng chiến: Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân
tộc. Trong q trình kháng chiến khơng thể không thực hiện những cải cách dân chủ, tiến hành từng bước chính sách
ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối liên minh công nông, phân hố cơ lập kẻ thù. Khơng chỉ
đấu tranh cho ta mà cịn bảo vệ hồ bình thế giới.
+ Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân,

toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa
được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù
hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa
cuộc kháng chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
– Quá trình thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng:
+ Quân dân Hà Nội anh dũng chiến đấu kìm chân quân Pháp trong 60 ngày đêm, tạo điều kiện để Chính phủ và


14

nhân dân rút về Việt Bắc.
+ Ta mở và dành thắng lớn, từ thế phòng ngự chuyển sang cầm cự và phản cơng với các mốc chính: Chiến dịch
Việt Bắc 1947, chiến dịch biên giới Thu – Đông năm 1950. Chiến cuộc Đông- Xuân 1953 -1954, đỉnh cao là chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ (13/3/1954 - 07/5/1954).
+ Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ lập lại hồ bình lập lại trên tồn cõi Đơng Dương.
2. Đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)
a) Hoàn cảnh lịch sử
Sau năm 1954, miền Bắc nước ta được giải phóng, quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc
Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ âm mưu chia cắt lâu dài biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới phòng
tuyến chống chủ nghĩa cộng sản, căn cứ quân sự khống chế các nước trong vùng, lập chính quyền tay sai Ngơ Đình
Diệm, tăng cường khủng bố, đưa máy chém đi khắp miền Nam đàn áp dã man những người cách mạng.
b) Nội dung cơ bản đường lối kháng chiến của Đảng (1954 – 1975)
- Các văn kiện hình thành đường lối:
Các HNTW7 (3/1955), 15 (1/1959), khóa II đề ra đường lối khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và đường lối cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đại hội III của Đảng (9/1960) quyết định xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Băc, đấu tranh cho hồ bình, thống nhất nước nhà và bầu ông Lê Duẩn là Tổng Bí thư Đảng.
Các HNTW khóa III của Đảng (1960 – 1975) cụ thể hóa đường lối của Đại hội III về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Đường lối chung của cách mạng Việt Nam:

Tăng cường đoàn kết toàn dân, đồng thời đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân
tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chù
và giàu mạnh, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hồ bình ở Đơng Nam Á và thế giới.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng Việt
Nam và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng


15

miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.
Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, nhung tiến hành đồng thời,
có quan hệ mật thiết, thúc đẩy lẫn nhau nhàm giải quyết mâu thuẫn chung giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và tay
sai, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hồ bình thống nhất Tổ quốc.
- Đường lối đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đoàn kết toàn dân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình ở Đơng Nam Á
và thế giới.
Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản để thực hiện cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư
doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh.
Thực hiện cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội
chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.
Trong 10 năm đầu (1954 – 1964), thực hiện đường lối đó, trong điều kiện hịa bình, miền Bắc nước ta đã thay
đổi, tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới.
- Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:
Cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ tiến hành là cuộc chiến tranh phi nghĩa, thực hiện trong thế bị động,

chứa đựng đầy mâu thuẫn vẽ chiến lược. Chiến tranh sẽ gay go, ác liệt nhưng nhân dân Việt Nam có đủ điều kiện và
sức mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Mục tiêu chiến lược của toàn Đảng, toàn dân ta là “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” trong bất cứ tình
huống nào để bảo vệ miền Bắc giải phóng miền Nam, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, tiến tới hồ bình thống nhất đất nước.


16

Phương châm chỉ đạo chiến lược kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đẩy mạnh chiến tranh nhân dân chống
Mỹ ở miền Nam, đồng thời chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc. Thực hiện kháng chiến lâu dài dựa vào
sức mình là chính; cố gắng đến mức độ cao nhất, tập trung lực lượng ở cả hai miền, mở những cuộc tiến công lớn,
tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định ở chiến trường miền Nam.
Con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng, giữ vững và phát triển thế tiến
công, kiên quyết và liên tục tiến công. Kiên trì kết họp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba
mũi giáp cơng: chính trị, quân sự và binh vận, trong đó đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp, giữ vị trí
ngày càng quan trọng. Mở rộng đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, hỗ trạ cho đấu tranh chính trị
và quân sự của quân dân ta.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc là kịp thời chuyển hướng xây dụng kinh tế trong điều kiện có chiến tranh
phá hoại; xây dựng miền Bắc vững nạnh về kinh tế và quốc phòng; tiến hành chiến tranh nhân dân, kiên quyết đánh
trả chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện chiến trường.
Miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Quyết tâm của quân dân cả nước là ‘Tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Hễ còn một tên giặc Mỹ trên đất nước ta thì ta cịn phải chiến đấu quét sạch nó đi”
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, tinh thần cách mạng
tiến công, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của Đảng. Đường lối đó cũng
là ý chí, nguyện vọng của tồn Đảng, tồn qn dân ta vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là đường lối chiến
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên
sức mạnh của dân tộc, quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
+ Thắng lợi thực hiện đường lối:
Từ đầu năm 1960, phong trào Đồng khởi bùng nổ tồn miền Nam, giải phóng nhiều vùng đất đai. Ngày

20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập. Cách mạng miền Nam chuyển mạnh từ thế
giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công ngày càng mạnh mẽ.
Phong trào đấu tranh ở đô thị, sự nổi dậy phá vỡ hàng vạn ấp chiến lược của Mỹ – nguỵ cùng các chiến thắng
Bình Giã (Bà Rịa), Ba Gia (Qng Ngãi) và Đồng Xồi (Bình Phước)… đã làm phá sản “Chiến tranh đặc biệt”của
Mỹ – nguỵ.
Từ 1964 – 1968, quân dân miền Bắc tổ chức lại sản xuất, “tay cày tay súng”, “tay búa tay súng”, đánh trả máy


17

bay Mỹ với tinh thần “nhằm thằng quân thù mà bắn“ đã bắn rơi 3.243 máy bay, bắn chìm 143 tàu chiến và chi viện
chiến trường với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Quân dân miền Nam đẩy mạnh cao trào đánh Mỹ, diệt nguỵ, giành thắng lợi ở các trận Vạn Tường (8/1965),
các chiến dịch mùa khô 1965 – 1966, mùa khô 1966 – 1967. Thắng lợi của cuộcTổng cơng kích mùa Xn năm
1968 của quân dân miền Nam đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt không điều kiện ném bom miền
Bắc, chấp nhận rút quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam và ngồi đàm phán với ta tại Hội nghị Paris
(11/1968). Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ bị phá sản hoàn toàn.
Quân dân miền Nam đẩy mạnh chống “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của
Mỹ – nguỵ (3/1971), mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đánh vào Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.
Từ 18 đến 30/12/1972, quân dân Hà Nội lập chiến công trận “‘Điện Biên Phủ trên không”, bắn rơi 81 máy bay,
trong đó có 34 “pháo đài bay” B52 của đế quốc Mỹ; buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (27/1/1973) cơng nhận
độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân đội Mỹ và quân đồng minh của Mỹ ra
khỏi miền Nam nước ta.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” và Chỉ thị của Bộ Chính
trị, từ cuối năm 1974, quân dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xn năm 1975 với ba địn tiến cơng là
chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế – Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 10/3 đến 30/4/1975), giải phóng
hồn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
III. KẾT LUẬN- LIÊN HỆ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG HIỆN NAY: (Văn kiện ĐH Đảng lần XII): Xây dựng và

bảo vệ XHCN

Thứ nhất, cần bảo đảm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của nhiệm
vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia trong tình hình mới, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Thứ hai, cần quán triệt và nâng cao hơn nữa trong nhận thức và hành động thực tiễn về mục tiêu, nội dung, yêu
cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Thứ ba, cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc vấn đề phát huy sức mạnh tổng hợp cũng như phương châm, phương
pháp tiến hành bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Thứ tư, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập


18

trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; tích cực
xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng nòng cốt của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Thắng lợi mùa xuân năm 1975, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Một lần nữa khẳng định vai trò và sứ mệnh lịch sử của Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Câu 4:
Nội dung cơ
bản
trong
đường lối cách
mạng XHCN
của Đảng ta;
chứng minh
bằng
các
thành
quả
cách mạng nổi
bật thời kỳ

1954-1975 ở
miền Bắc, thời
kỳ đổi mới đất
nước từ năm
1986 đến nay?
Liên hệ thực
tiễn thành phố
Hồ Chí Minh.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ của CMVN: Làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Để thực hiện nhiệm vụ đó, ngay từ khi ra đời đảng đã lãnh đạo nhân
dân tiến hành đấu tranh giành độc lập, đề ra đường lối CMXHCN lãnh đạo nhân ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Vai trò của miền Bắc khi xây dựng CNXH (1954-1975)
a) Đặc điểm tình hình miền Bắc khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Do vậy, điểm xuất phát của miền Bắc rất thấp (nông nghiệp: làm ăn cá thể, nhỏ bé, manh mún, kỹ thuật lạc
hậu; công nghiệp mất cân đối,..). Trình độ dân trí thấp, cán bộ có trình độ Đại học và trung học chuyên nghiệp chưa
đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, cán bộ quản lý năng lực cong hạn chế...Tình hình xã hội miền
Bắc phức tạp (Các thế lực thù địch, chống phá, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào Nam...)
- Miền Bắc đi lên CNXH trong điều kiện quốc tế thuận lợi, nhưng cũng khơng ít khó khăn phức tạp. VIệt nâm
nhận được sự giúp đỡ từ các nước Liên Xô, Trung Quốc, giúp đào tạo cán bộ, giúp về vật tư, thiết bị máy móc để
xây dựng các cơng trình, giúp đỡ vốn ban đầu, đưa chuyên gia các lĩnh vực sang giúp Việt Nam, giúp về cơ chế,
cách thức quản lý.. Tuy nhiên, bản than các nước đó cũng đang ở trong q trình tìm tịi, khảo nghiệm mơ hình, giải
pháp cách thức đi lên CNXH cho phù hợp, nhiều vấn đề về CNXH và con đường đi lên CNXH chưa sáng tỏ. Miền



19

Bắc đi lên CNXH cũng không tránh khỏi những tiêu cự của vấp váp sai lầm của các nước.
b) Đường lối CMXHCN ở Miền Bắc
- Đường lối CMXHCN ở miền Bắc được Đại hội III của Đảng đề ra với nội dung: “Đoàn kết toàn dân, phát
huy tinh thần yêu nước và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường
đoàn kết với các nước XHCN anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc
đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình ở
ĐNA và thế giới”.
- Để thực hiện được mục tiêu trên, Đại hội đã nêu lên những biện pháp cơ bản: “Sử dụng chính quyền dân chủ
nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh
tế quốc doanh, thực hiện cơng nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hóa và
kỹ thuật; biến nước ta thành một nước XHCN có cơng nghiệp và nơng nghiệphiện đại, vân hóa và khoa học tiên
tiến”. Cơng nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Đại hội thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) với nhiệm vụ: “lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội
làm trọng tâm, thực hiện một bước cơng nghiệp hóa XHCN, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của
CNXH, đồng thời hoàn thành cải tạo XHCN, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế
XHCN”.
c) Vai trò của miền Bắc đối với cuộc CM giái phóng dân tộc ở miền Nam
- Bước đầu chuẩn bị được những cơ sở cần thiết cho công cuộc xây dựng miền Bắc tiến lên CNXH. Cùng với
xây dựng chế độ chính trị, xã hội, miền Bắc đã nhanh chóng tiến hành khơi phục lại nền kinh tế bị sa sút do chiến
tranh, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phục hồi các cơ sở công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cần thiết phục vụ đời
sống nhân dân.... “Trong 15 năm qua Miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc.


20


Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới” (Hồ Chí Minh).
- Là hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho đại thắng Mùa Xuân 1975 giành thắng lợi. Xây dựng
Miền Bắc thành hậu phương lớn cho Miền Nam luôn là một nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, mà đỉnh cao là đại thắng Mùa Xuân 1975. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị quyết giải phóng
Miền Nam trong năm 1975, với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để chiến thắng”; với phương châm:
“thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, Miền Bắc đã tập trung nỗ lực cao nhất để chi viện cho Miền Nam một khối
lượng vật chất khổng lồ, gồm: 154.271 tấn vật chất sinh hoạt, 93.540 tấn xăng dầu, 103.455 tấn vũ khí, đã đưa các
qn đồn chủ lực và gần 20 lữ đoàn, trung đoàn xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ vào Miền Nam.
- Miền Bắc cũng trực tiếp làm nên thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ năm 1965 đến khi giải
phóng hồn tồn miền Nam, miền Bắc phải đương đầu và đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân của đế quốc Mỹ.
- Miền Bắc xã hội chủ nghĩa luôn là chiếc cầu nối giữa cách mạng nước ta và cách mạng thế giới, từ đó hồn
thành vai trị quốc tế trong sáng của mình. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ khơng chỉ là thắng lợi của q
trình phát triển chiến tranh cách mạng của dân tộc ta mà cịn là biểu hiện của sức mạnh đồn kết chiến đấu giữa 3
nước Đông Dương, sự giúp đỡ to lớn về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa và những lực lượng u
chuộng hồ bình trên thế giới. Trong đó, Miền Bắc xã hội chủ nghĩa ln xứng đáng với vai trị là chiếc cầu nối giữa
cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Thơng qua vai trị to lớn của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Miền
Bắc, chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ to lớn về mọi mặt của Liên Xô, Trung Quốc, Cu Ba và các nước trong phe
xã hội chủ nghĩa. Chính sự ủng hộ to lớn đó, đã được Miền Bắc tiếp nhận, phát huy và đã trở thành sức mạnh nội lực
to lớn để quân và dân ta làm nên đại thắng Mùa Xuân 1975 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
d) Liên hệ với việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của CM ngày nay:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (Cương lĩnh
1991) được bổ sung và phát triển năm 2011 ở Đại hội XI của Đảng thông qua xác định: “Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt


21


chẽ với nhau.”
Bài học xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương trong chiến tranh nói chung, hậu phương lớn miền
Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng cần được kế thừa và phát triển trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong thời kỳ mới. Chiến tranh BVTQ (nếu xảy ra) sẽ là cuộc chiến tranh địch sử dụng
vũ khí cơng nghệ cao, kết hợp tiến công hoả lực từ xa với tiến công đường bộ, đường biển; phối hợp lực lượng phản
động bên trong với lực lượng xâm lược từ ngồi, được tiến hành trong thời gian ngắn, khơng gian mở rộng... Sự thay
đổi phương thức tác chiến của đối tượng tác chiến, đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng nền QPTD nói chung, xây dựng
hậu phương nói riêng những yêu cầu và nội dung mới. Khái niệm hậu phương trong chiến tranh BVTQ ngày nay
không chỉ là vùng lãnh thổ nằm ngoài vùng chiến sự như trước đây, mà phải được xây dựng trên các địa bàn chiến
lược. Đất nước ta sau 40 năm độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng CNXH với hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và BVTQ, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, chúng ta thường xuyên chăm lo củng cố quốc phòng,
BVTQ. Đảng ta xác định: sức mạnh BVTQ ngày nay là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn
hố, quốc phịng, an ninh, đối ngoại, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng
cường tiềm lực quốc phịng, an ninh, khơng ngừng xây dựng thế trận QPTD, gắn với thế trận an ninh nhân dân, phù
hợp với hoàn cảnh mới. Đây là cơ sở, nền tảng để xây đựng nền QPTD, xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh,
phục vụ cho phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng- an ninh trong thời bình và sẵn sàng huy động phục vụ cho
nhu cầu chiến tranh BVTQ. Tuy nhiên, xây dựng hậu phương bảo đảm cho chiến tranh BVTQ phải được kết hợp giữa
hậu phương quốc gia với hậu phương tại chỗ trên từng địa bàn, địa phương mà hạt nhân là các căn cứ hậu phương, căn
cứ hậu cần của khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và phải được tiến hành từ trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội
gắn với củng cố quốc phòng- an ninh trên cả nước. Đó cũng là q trình xây dựng hậu cần nhân dân, hậu cần địa
phương và hậu cần quân đội trên phạm vi cả nước và trên từng dịa bàn, địa phương theo ý định chiến lược BVTQ, tạo
thành sức mạnh tổng hợp to lớn của hậu phương- nhân tố thường xuyên có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống.


22


2. Giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH với
những thuận lợi cơ bản cũng như khơng ít khó khăn, thách thức:
- Nước ta đi lên CNXH với điểm xuất phát rất thấp, hậu quả của 30 năm chiến tranh hết sức nặng nề, lại phải
tiến hành chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Trên thế giới các nước XHCN lâm
vào tình trang khó khăn, trì trệ, tình hình đó đặt ra cho Đảng và nhân dân ta phải tìm cách đi phù hợp với hồn cảnh
nước ta.
- Tại ĐH IV của đảng (12/1976) Đảng đã đề ra đường lối chung và đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN, đề
ra những chỉ tiêu cụ thể cho kế hoạch 5 năm (1976-1980). Tuy nhiên, những kết quả mang lại còn thấp so với yêu
cầu và chưa tương xứng với công sức bỏ ra, hầu như các chỉ tiêu của kế họach 5 năm đều không thực hiện được.
Nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng, trước thực tế đó, địi hỏi tồn đảng, tồn dân ta phải tìm ra con đường đổi
mới đất nước.
- Tháng 8/1979, Hội nghị khoá TW 6 khoá IV họp bàn những vấn đề cấp bách về kinh tế xã hội và vấn đề tiêu
dùng, Hội nghị khẳng định sự cần thiết phải tồn tại thị trường tự do, khuyến khích sản xuất, khắc phục những khuyết
điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo XHCN, đề ra chủ trương phù hợp để phát triển lực lượng sản xuất, Hội nghị
TW6 đánh dấu bước đột phá đầu tiên của q trình tìm tịi đường lối đổi mới của Đảng.
- Thực hiện chủ trương của Hội nghị TW6, Chính phủ đã có những quyết định kịp thời về việc bãi bỏ các trạm
kiểm sốt có tính chất ngăn sơng cấm chợ, cản trở lưu thơng hàng hố, khuyến khích tận dụng ruộng đất nơng
nghiệp vào sản xuất; mở rộng kinh doanh thương nghiệp XHCN, chính sách phân phối theo lao động, kích thích sản
xuất phát triển.
- Ngày 13/1/1981, Ban bí thư TW Đảng ra chỉ thị 100/CT-TW về khốn sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong hợp tác xã. Chỉ thị 100 đã tạo ra động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
- Trong cơng nghiệp, Chính phủ ban hành quyết định 25/CP và 26/CP ngày 21/1/1981 về chủ trương, biện pháp
cải tiến cơ chế quản lý trong kinh tế quốc doanh, điểm mới trong quản lý cơng nghiệp là làm giảm tình trạng trì trệ


23

trong sản xuất của các doanh nghiệp Nhà nước. Năm 1981 lần đầu tiên sau chiến tranh, sản xuất công nghiệp đạt kế
hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.

-Tại ĐH V của đảng họp tại Hà Nội từ ngày 27-31/3/1982, chủ trương tiếp tục tìm tịi cơ chế quản lý mới cho
thích hợp, xố bỏ cơ chế cũ, điều chỉnh lại cơ cấu, quy mô, tốc độ và các bước đi của cơng nghiệp hóa. Đại hội đã
phân chia thời kỳ quá độ thành nhiều chặng và xác định chúng ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Nhiệm vụ chặng đường đầu tiên tạo tiền đề cơ sở vật chất chuyển sang Công nghiệp hoá.
- Việc thực hiện nghị quyết Đại hội V, tình hình kinh tế XH có những chuyển biến nhất định. Tuy nhiên trên
lĩnh vực lưu thơng phân phối cịn nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước cải cách
giá lương-tiền lần thứ 1 năm 1981 và năm 1982 nhưng đã làm cho lạm phát trầm trong thêm, trước tình hình đó
tháng 6/1985, Hội nghị TW8 họp chuyên bàn về giá-lương-tiền, quyết định phải dứt khoát xoá bỏ tập trung quan
liêu bao cấp, thực hiện chế độ tập trung dân chủ, hoạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Hội nghị TW8 cho thấy
Đảng đã có sự đổi mới tư duy trên lĩnh vực phân phối lưu thông một cách cơ bản, đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và
những quy luật của sản xuất hàng hoá. Hội nghị TW8 đánh dấu bước đột phá thứ 2 trong quá trình đổi mới tư duy
của Đảng.
- Ngày 10/7/1986, Tổng bí thư Lê Duẫn qua đời. Tại phiên họp đặc biệt của TW Đảng ngày 14/7/1986, đồng
chí Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư, ngày 20/9/1986, Bộ Chính trị đã có những kết luận về một số vấn đề
thuộc quan điểm kinh tế.
+ Về cơ cấu kinh tế, cần bố trí đúng cơ cấu các ngành kinh tế, cơ cấu sản xuất và đầu tư; đặc trưng cần nắm
vững là nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần.
+ Về cơ chế quản lý: xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
công tác quản lý và sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thị trường trong cơ chế kế hoạch hoá. Trong điều chỉnh lớn
phương án bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư phải thực sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu.
Những kết luận này là bước đột phá thứ 3 trong quá trình tìm đường đổi mới.
- Tại ĐH VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước một cách triệt để, sâu sắc, mang ý nghĩa


24

như một cuộc cách mạng. Trong đổi mới toàn diện, Đảng bắt đầu tự đổi mới tư duy về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Viêt Nam. Trên nền tảng các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin và nhất là kinh nghiệm thực
tiễn ở Việt Nam. Trong đổi mới tư duy, Đại hội VI chọn khâu đột phá là đổi mới tư duy kinh tế:
+ Thừa nhận kinh tế nhiều thành phần.

+ Chuyển nền kinh tế từ tập trung bao cấp, kế hoạch hoá cao độ sang hoạch toán kinh doanh XHCN.
+ Mở của nền kinh tế Việt Nam với khu vực và trên thế giới.
+ Tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn: sản xuất lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản
xuất hàng xuất khẩu.
+ Đổi mới toàn diện triệt để sâu sắc nhưng có nguyên tắc, lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm hàng đầu trên cơ sở
giữ vững ổn định chính trị. Để giữ vững ổn định chính trị phải đảm bảo các nguyên tắc sau: Kiên trì độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH; Đổi mới trên quan điểm lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, giữ vũng vai trò lãnh đạo của đảng
ta, bản chất Nhà nước cách mạng của ta, kết hợp sức mạnh của dân tộc và của thời đại trong điều kiện mới.
- Tại ĐH VII (6/1991) của đảng tiếp tục bổ sung đường lối đổi mới của đảng ta.
+ Đề ra và thông qua Cương lĩnh thứ 4 của đảng ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
XHCN. Trong cương lĩnh này lần đầu tiên trong lịch sử của đảng ta đã đưa ra mơ hình và con đường đi lên CNXH
riêng cho Việt Nam với 6 đặc trưng cơ bản và 7 phương hướng cơ bản. Cương lĩnh năm 1991 đã tạo ra cơ sở lý luận
và nền tảng lý luận cho đổi mới.
+ Tại ĐH VI lần đầu tiên của đảng ta đưa ra khái niệm tư tưởng HCM.
+ Lần đầu tiên đảng ta xây dựng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội từ năn 1991 – 2000 với mục tiêu:
Đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội. Đây là chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá độ của đảng ta.
+ ĐH đánh dấu sự coi trọng của đảng với công tác xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng.
+ Tại ĐH VI đã cũng cố niềm tin, khơi dậy các nguồn lực trong đảng, trong nhân dân. Kiên trì CNXH khi


25

Đông Âu đã tan rã và Liên Xô sắp sụp đỗ.
- Tại ĐH VIII (28/6 đến 1/7/1996) của đảng đã tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới và thực hiện
nghị quyết của ĐH VII , quyết định mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện CNH-HĐH đất nước đến năm
2010 và 2020, bổ sung sửa đổi điều lệ đảng.
+ Nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy còn một số chưa vững chắc, thế và lực được tăng cường
cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Đại hội đã đưa ra mục tiêu:
+ Đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp cơ bản phát triển theo hướng hiện đại.
+ ĐH VIII đã chỉ ra mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.

+ ĐH VIII tổng kết phương châm: phát triển kinh tế là trọng tâm; xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng là nhiệm vụ
then chốt ( tập trung phát triển lực lượng sản xuất từng bước hình thành quan hệ sản xuất phù hợp).
+ ĐH VIII đã bổ sung thêm cho đường lối đổi mới là chiến lược CNH-HĐH đất nước.
- Đại hội IX (4/2001).
+ ĐH đã tổng kết cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, rút ra 3 thành tựu to lớn mang ý nghĩa lịch sử, thắng
lợi CMT8/1945; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai; thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới đi lên CNXH ở nước ta.
+ ĐH đã dự báo về thời cuộc và thời đại, những đòi hỏi của cách mạng Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
XXI. Đề ra quan điểm kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới
trên cơ sở phát huy nội lực là chính, tranh thủ ngoại lực, chủ động tích cực hơi nhập kinh tế quốc tế.
+ ĐH đã đưa ra thuật ngữ kinh tế thị trường định hướng XHCN và coi đây là mơ hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong suốt quá trình quá độ lên CNXH.
+ Đưa mục tiêu dân chủ vào mục tiêu chung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ ĐH đã đề ra chiến lước phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng nước


×