Tải bản đầy đủ (.docx) (263 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ hiệp hội các quốc gia đông nam á vào các ngành dịch vụ tại việt nam trong bối cảnh triển khai cam kết hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 263 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỪ
HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á VÀO
CÁC NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TRIỂN KHAI CAM KẾT
HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

Ngành: Kinh tế quốc tế

NGUYỄN HỒNG HẠNH

Hà Nội – 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỪ
HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á VÀO
CÁC NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TRIỂN KHAI CAM KẾT
HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9310106

Nghiên cứu sinh: Nguyễn Hồng Hạnh


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS Trần Thị Ngọc Quyên
2. TS Nguyễn Thị Dung Huệ

Hà Nội – 2021


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được cơng bố
trong bất kỳ một cơng trình khoa học nào khác.
Tác giả luận án

Nguyễn Hồng Hạnh


ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS, TS Trần Thị Ngọc Quyên và TS Nguyễn Thị
Dung Huệ đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện cho tơi để tơi
có thể hồn thành luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học
Ngoại thương, Ban lãnh đạo Viện Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Khoa Sau đại học,
Bộ môn Kinh tế và Quản lý, cùng các thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè đã tạo điều kiện
thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ để tơi có thể hồn thành chương trình học tiến sĩ tại
trường. Tơi xin chân thành cảm ơn các chuyên gia từ các cơ quan quản lý Nhà nước,
các viện nghiên cứu và trường đại học đã hỗ trợ tơi nhiệt tình trong q trình nghiên
cứu, thu thập dữ liệu, trả lời phỏng vấn, cung cấp thơng tin và đưa ra những góp ý,

nhận xét rất hữu ích và q báu để tơi hồn thiện luận án của mình.

Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới bố mẹ hai bên gia đình, chồng và
con gái đã tin tưởng, động viên, khích lệ, tạo động lực để tơi phấn đấu hồn thành
chương trình học.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận án

Nguyễn Hồng Hạnh


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Qua hơn 50 năm hợp tác và không ngừng phát triển, Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) đã trở thành một liên minh chính trị, kinh tế, văn hố và xã
hội đóng vai trị quan trọng trong ổn định và phát triển khu vực châu Á – Thái Bình
Dương cũng như trên toàn thế giới. Bên cạnh những nỗ lực hợp tác về an ninh –
chính trị và văn hố – xã hội, tiến trình hội nhập kinh tế giữa các nước ASEAN
những năm gần đây được đánh dấu bằng sự hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC). AEC hướng tới mục tiêu tạo nền tảng để xây dựng một cơ sở sản xuất
ASEAN thống nhất, một khu vực kinh tế cạnh tranh và phát triển bình đẳng, hội
nhập thành cơng vào nền kinh tế tồn cầu. Với mục tiêu đó, các nước ASEAN cam
kết từng bước dỡ bỏ hàng rào thương mại, đẩy mạnh lưu chuyển hàng hoá và dịch
vụ, các nguồn lực về đầu tư và thể nhân giữa các quốc gia thành viên cũng như
trong khu vực (The ASEAN Secretariat, 2020).
Mở cửa ngành dịch vụ là một trong những yếu tố quan trọng để đạt được mục
tiêu hội nhập kinh tế ASEAN và hiện thực hoá AEC. Các nỗ lực hội nhập ngành dịch
vụ trong ASEAN chủ yếu được thực hiện trong khuôn khổ của Hiệp định khung

ASEAN về dịch vụ (ASEAN Framework Agreement on Services - AFAS) ký kết năm
1995 và tiếp tục được đàm phán nhằm đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ tại ASEAN sẽ
được hưởng những những ưu đãi trong quá trình tiếp cận thị trường dịch vụ mà không
gặp phải các rào cản hay bị phân biệt đối xử (The ASEAN Secretariat, 2021). Một
trong những mục tiêu quan trọng của hội nhập trong ngành dịch vụ của ASEAN là thúc
đẩy luồng đầu tư dịch vụ nội khối. Nhiều quốc gia ASEAN, trong đó có Việt Nam,
đang định hướng phát triển dịch vụ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn do đây là ngành
có giá trị gia tăng cao và thân thiện với môi trường. Muốn vậy, việc thu hút FDI cho sự
phát triển của các ngành dịch vụ là một yêu cầu cấp thiết.
Dịch vụ là ngành nhận FDI lớn nhất trong ASEAN với tỷ trọng trên tổng vốn
FDI trong khu vực tăng từ dưới 50% vào giữa những năm 1990 lên hơn 66% trong giai
đoạn 2014-2019 – tương đương với mức trung bình tồn cầu nhưng cao hơn nhiều so
với tỷ trọng dịch vụ trong tổng GDP của khu vực (50%), chủ yếu là do đầu tư trong các
lĩnh vực bất động sản, bán buôn – bán lẻ và dịch vụ tài chính ngày càng gia tăng (The
ASEAN Secretariat & UNCTAD, 2019). Trước bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ về thu
hút FDI của các quốc gia phát triển khác trên thế giới cũng như trong khu vực, AEC
cũng đã nỗ lực thực thi Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) nhằm hướng tới
xây dựng ASEAN thành một môi trường đầu tư thuận lợi và hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư nước ngoài, cũng như thúc đẩy hoạt động đầu tư nội khối nói


2
chung và vào các ngành dịch vụ nói riêng giữa các nước thành viên. Đáng chú ý,
đầu tư nội khối vẫn là nguồn FDI lớn nhất trong ASEAN, trong đó Việt Nam là
nước nhận đầu tư nội khối lớn thứ 2 trong khu vực (Cục Đầu tư nước ngoài, 2021).
Trên thực tế, ASEAN là nguồn cung FDI quan trọng và là đối tác kinh tế trọng điểm
của Việt Nam. FDI vào ngành dịch vụ của ASEAN là nguồn vốn quan trọng phát
triển khu vực dịch vụ và đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại.
Việc AEC chính thức được thành lập và sự kiện hồn thành ký kết 10 gói AFAS
vào năm 2015 được kỳ vọng là cơ hội cho Việt Nam thu hút FDI nói chung và FDI từ

ASEAN nói riêng vào các ngành dịch vụ. Thực hiện các cam kết trong AEC là động lực
thúc đẩy Việt Nam hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách nhằm cải thiện mơi trường
đầu tư và đẩy mạnh thu hút FDI. Mặc dù đã có nhiều thành tựu trong quá trình thu hút
đầu tư vào các ngành dịch vụ những năm vừa qua, kết quả đạt được vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng của Việt Nam và các thành viên ASEAN. Hoạt động này vẫn chưa
khai khác được hết lợi thế của các quốc gia trong khu vực, cũng như lợi thế thông qua
các hiệp định đầu tư, ưu đãi về thuế quan và những chính sách khuyến khích đầu tư
khác. Do vậy, đề tài nghiên cứu của luận án với tiêu đề: “Thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngồi từ Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á vào các ngành dịch vụ tại Việt
Nam trong bối cảnh triển khai cam kết hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN” sẽ góp
phần bổ sung tổng quan về đặc trưng FDI của các doanh nghiệp tại ASEAN vào các
ngành dịch vụ của Việt Nam, thực tiễn cam kết và thực thi các cam kết của Việt Nam và
các nước ASEAN liên quan đến đầu tư vào ngành dịch vụ nhằm tận dụng các lợi thế từ
AEC, nhấn mạnh các yếu tố tác động đến hoạt động thu hút FDI, từ đó đề xuất nhóm
giải pháp tăng cường thu hút FDI vào ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập khu vực ngày càng sâu rộng.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

a. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là đề xuất các giải pháp về mặt chính sách
tăng cường thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam đến năm
2025, định hướng đến năm 2030 trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực. Cụ thể,
luận án tập trung trả lời 3 câu hỏi nghiên cứu sau:
(1) Câu hỏi thứ nhất, thực tiễn tình hình thu hút từ FDI từ ASEAN vào các

ngành dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC như thế nào?
(2) Câu hỏi thứ hai, những yếu tố nào ảnh hưởng đến FDI từ ASEAN vào các

ngành dịch vụ Việt Nam?
(3) Câu hỏi thứ ba, những giải pháp nào cần thực hiện để tăng cường thu hút


FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam?


3
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận án có những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
Phân tích tổng quan nghiên cứu liên quan đến thu hút FDI vào các ngành
dịch vụ trong bối cảnh hội nhập AEC;


Hệ thống hoá các cơ sở lý luận về thu hút FDI vào các ngành dịch vụ
trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực;


Phân tích thực trạng đầu tư của các nước ASEAN vào các ngành dịch vụ
Việt Nam và thực tiễn thực thi các cam kết trong AEC liên quan đến đầu tư vào
ngành dịch vụ của Việt Nam;


Phân tích các yếu tố tác động đến thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành
dịch vụ tại Việt Nam từ góc độ vĩ mơ;


Đề xuất định hướng và một số nhóm giải pháp về chính sách nhằm thu
hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh thực hiện
các cam kết của AEC.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



a. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý

luận và thực tiễn về thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Luận án nghiên cứu cụ thể trong các
ngành dịch vụ, tiếp cận từ góc độ các cơ quan quản lý của Nhà nước trong việc
hoạch định chính sách để tăng cường thu hút FDI. Theo đó, luận án tập trung
phân tích thực trạng FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam, thực
tiễn thực hiện các cam kết trong AEC liên quan đến đầu tư trong các ngành dịch
vụ theo hướng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam và các yếu tố
tác động đến dòng vốn FDI, từ đó đề xuất các giải pháp về mặt chính sách để
thúc đẩy thu hút dịng vốn FDI nội khối vào các ngành dịch vụ.


Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian: Luận án nghiên cứu thực trạng
thu hút FDI từ 9 nước ASEAN vào các ngành dịch vụ của Việt Nam. Đối với
phần phân tích định lượng, luận án sử dụng số liệu của 7 quốc gia ASEAN –
đây là nhóm các quốc gia có số lượng các dự án đầu tư đáng kể vào các ngành
dịch vụ của Việt Nam, đồng thời số liệu thống kê tương đối đầy đủ để sử dụng
cho mơ hình nghiên cứu.



4
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian: Luận án nghiên cứu từ năm 19882020, do năm 1988 là năm đánh dấu dự án FDI đầu tiên của ASEAN vào Việt
Nam, tập trung so sánh đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam trong giai



đoạn từ 2015 trở đi trong so sánh với FDI giai đoạn trước đó. Đối với phần phân
tích định lượng, luận án sử dụng số liệu từ năm 2004 đến 2019 từ các nguồn thống
kê chính thống. Đây là khoảng thời gian dài nhất từ các cơ sở dữ liệu mà luận án
có thể thu thập được với các biến được lựa chọn phù hợp với mơ hình kinh tế
lượng. Các giải pháp được đề xuất đến năm 2025, định hướng đến năm

2030.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.
Phương pháp nghiên cứu định tính (bao gồm mơ tả, so sánh, phân tích, tổng hợp)
được sử dụng trong phân tích tổng quan nghiên cứu; hệ thống hố cơ sở lý luận;
phân tích, tổng hợp và so sánh thực tiễn thực hiện các cam kết liên quan đến đầu tư
vào ngành dịch vụ trong khn khổ AEC của Việt Nam, phân tích tình hình thu hút
và các yếu tố tác động đến thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ của Việt
Nam trong bối cảnh liên kết kinh tế khu vực. Bên cạnh đó, luận án cũng thu thập số
liệu sơ cấp sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia nhằm lấy ý kiến đánh giá
của chuyên gia về thực tiễn cam kết và tình hình thực hiện cam kết liên quan đến
đầu tư vào ngành dịch vụ trong AEC, thực tiễn chính sách và kết quả thu hút FDI từ
ASEAN trong ngành dịch vụ của Việt Nam (Phụ lục 1 trình bày chi tiết cách thức,
kết quả phỏng vấn và danh sách chuyên gia phỏng vấn).
Số liệu sử dụng trong luận án là số liệu do Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cung cấp từ năm 1988 đến tháng 2/2021. Ngoài ra, NCS cập nhật
các số liệu của Tổng cục Thống kê và các số liệu quốc tế có uy tín khác, chủ yếu
được khai thác trên hệ thống cơ sở dữ liệu mở của Ngân hàng Thế giới (World
Bank). Tài liệu sử dụng trong luận án chủ yếu là tài liệu thứ cấp bao gồm cơ sở lý
thuyết liên quan, các nghiên cứu từ những nguồn có uy tín trong nước và quốc tế
đưa ra các quan điểm có liên quan trực tiếp đến vấn đề di chuyển vốn FDI vào
ngành dịch vụ; báo cáo về tình hình kinh tế xã hội, mơi trường đầu tư của Việt Nam,
cũng như các báo cáo đánh giá về tác động của AEC đến nền kinh tế ASEAN và nền
kinh tế các nước thành viên của các tổ chức có uy tín như Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

Tổng cục Thống kê, Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam, Ban Thư ký
ASEAN, Ngân hàng Phát triển Châu Á...
Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng trong phân tích các yếu
tố ảnh hưởng thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam. Với mục
đích lựa chọn phương pháp ước lượng khơng chệch, vững và hiệu quả, phương pháp


5
nghiên cứu được lựa chọn sử dụng là phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất
(Pooled OLS), mơ hình tác động ngẫu nhiên (RE) và mơ hình tác động cố định (FE)
để từ đó lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp.
5. Khung phân tích
Khung phân tích của luận án được mơ phỏng theo Hình 1.
Xác định
khoảng trống

Tổng quan

nghiên cứu

Lý luận chung về thu hút FDI vào các ngành dịch vụ và tổng quan về AEC

Thực tiễn thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam

Định
hướng và
giải pháp
đấy mạnh
thu hút
FDI từ

ASEAN
vào các
ngành dịch

vụ tại Việt
Nam

Các yếu tố tác động đến thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt
Nam trong bối cảnh AEC
Nhóm yếu tố khung

chính sách
Lạm phát (Ổn
định kinh tế)

Nhóm yếu tố kinh
tế
Quy mơ và tiềm
năng thị trường
Độ mở thương
mại

Tỷ giá hối đối

Phát triển tài
chính

Nguồn nhân lực
Cơ sở hạ tầng


Hội nhập AEC


N
h
ó
m


o

điều kiện thuận lợi
Chất lượng thể
chế-chính trị

y
ế
u
t

t

Hình 1: Khung phân tích nghiên cứu
(Nguồn: Tác giả tự mơ phỏng, 2021)


6
6. Những đóng góp của luận án

a. Về lý thuyết

Thứ nhất, luận án đã tổng hợp và phân tích tình hình nghiên cứu trên thế
giới và Việt Nam về AEC và quá trình hội nhập AEC của các quốc gia thành
viên nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thứ hai, luận án đã hệ thống hoá các yếu tố tác động đến thu hút FDI –
bao gồm các nghiên cứu về các yếu tố thu hút FDI nói chung và các yếu tố thu
hút FDI vào các ngành dịch vụ nói riêng.
b. Về thực tiễn
Thứ nhất, luận án đã phân tích tình hình đầu tư của ASEAN vào các
ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC và thực tiễn các cam
kết trong AEC của Việt Nam liên quan đến đầu tư trong các ngành dịch vụ.
Thứ hai, luận án đã phân tích các yếu tố vĩ mơ tác động đến thu hút FDI
từ ASEAN vào Việt Nam trong các ngành dịch vụ.
Thứ ba, luận án đề xuất và luận giải một số giải pháp về mặt chính sách
nhằm thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh
thực thi các cam kết của AEC.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Mục lục, Danh mục Bảng - Biểu, Danh mục các từ viết tắt, Lời mở đầu,
Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận án bao gồm 5
chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới thu hút FDI từ
ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC
Chương 2: Lý luận cơ bản về thu hút FDI vào các ngành dịch vụ trong bối
cảnh hội nhập kinh tế khu vực và Tổng quan về AEC
Chương 3: Thực tiễn thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam
trong bối cảnh triển khai cam kết hội nhập AEC
Chương 4: Phân tích các yếu tố tác động đến thu hút FDI từ ASEAN vào các
ngành dịch vụ tại Việt Nam
Chương 5: Định hướng và một số giải pháp thúc đẩy thu hút FDI từ ASEAN
vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC



7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI
THU HÚT FDI TỪ ASEAN VÀO CÁC NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP AEC
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nội dung quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu Việt Nam và trên thế giới. Các đề tài nghiên cứu liên quan đến FDI rất đa
dạng, trong đó phân tích thực trạng và các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào một
hoặc một nhóm các quốc gia và khu vực là nội dung được nhiều nhà nghiên cứu khai
thác. Bên cạnh những nghiên cứu đề cập đến thu hút FDI từ góc độ tiếp cận tổng thể
tồn bộ nền kinh tế, có rất nhiều cơng trình đã tập trung vào một ngành hoặc lĩnh vực
cụ thể. Liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, hiện nay trên thế giới và tại
Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về mặt lý thuyết cũng như thực nghiệm đánh giá quá
trình hội nhập của các quốc gia ASEAN trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), các
yếu tố thu hút FDI nói chung và FDI vào ngành dịch vụ nói riêng.
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến hội nhập của Việt Nam trong AEC

Hiện thực hoá AEC đã tạo ra một thị trường chung và kết nối nền kinh tế của
các quốc gia thành viên thành một khối sản xuất, thương mại và đầu tư thống nhất.
Vì tính cấp thiết cũng như vai trò to lớn của liên kết khu vực đối với sự phát triển và
hội nhập của các quốc gia thành viên, AEC là một trong những chủ đề được nhiều
nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và thực tiễn đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
trong và ngồi nước đề cập đến vấn đề này. Các nghiên cứu cơ bản tập trung vào
một số hướng sau đây:
1.1.1. Các nghiên cứu chung về tiến trình hình thành – hội nhập AEC
Nghiên cứu về tiến trình hình thành và hội nhập AEC tương đối phổ biến
trong thời điểm trước năm 2015 – mốc thời gian đánh dấu việc thành lập chính thức
của AEC. Các nghiên cứu này chủ yếu phân tích bối cảnh hình thành AEC và chỉ ra
những tiềm năng cũng như thách thức đối với quá trình hiện thực hố AEC.
Nhóm nội dung nghiên cứu thứ nhất tập trung mô tả các cam kết chung của
AEC trong tất cả các lĩnh vực; trình bày bối cảnh, lộ trình hình thành AEC và đánh

giá tác động của AEC đến các quốc gia thành viên.
Nội dung này được khai thác trong rất nhiều nghiên cứu, tiêu biểu là các báo cáo
của ASEAN, ADB và nghiên cứu của các tổ chức liên quan. Với cách tiếp cận vĩ mô,
bằng phương pháp chủ yếu là so sánh và tổng hợp, các báo cáo của ASEAN và The
ASEAN Secretariat đã cung cấp một cách chi tiết các thông tin cơ bản về AEC, sự tham
gia của các quốc gia thành viên, lộ trình thực hiện các cam kết và các thành tựu đã đạt
được (The ASEAN Secretariat & World Bank, 2013). Trong khi đó, tập


8
hợp các nghiên cứu của ADB, Viện nghiên cứu ASEAN và Đơng Á (ERIA) đã tổng
kết lại q trình hội nhập của ASEAN; cơ sở lý luận, tiến trình và những hạn chế
của AEC cũng như triển vọng sau năm 2015; đánh giá giữa kỳ việc thực hiện kế
hoạch chi tiết của AEC và tác động của việc thực hiện cam kết đến các quốc gia
thành viên (ADB, 2013; ERIA 2012). Petri và cộng sự (2012) đã phân tích tác động
của AEC đối với nền kinh tế của các nước tham gia thơng qua mơ hình Cân bằng
Tổng thể Khả toán (Computable General Equilibrium – CGE) với các viễn cảnh
khác nhau nhằm đánh giá tác động của các thành phần khác nhau trong AEC đến lợi
ích kinh tế tổng thể của mỗi quốc gia thành viên. Với các kịch bản khác nhau xem
xét các hình thức hội nhập kinh tế và thương mại của ASEAN với các quốc gia và
khu vực khác, nghiên cứu khẳng định mục tiêu quan trọng của AEC là làm cho khu
vực ASEAN trở thành một đối tác hấp dẫn, đồng thời khẳng định lợi ích này sẽ
được hiện thực hoá nếu như ASEAN thực hiện ký kết các FTA bổ sung.
Tại Việt Nam, nhiều tác giả cũng đã có nghiên cứu về AEC, trong đó hai
nghiên cứu tiêu biểu là nghiên cứu của Nguyễn Hồng Sơn (2009) và Nguyễn Hồng
Sơn và cộng sự (2015a) đã cung cấp cái nhìn tồn diện về q trình hình thành
AEC, đặc biệt là sự tham gia của Việt Nam vào AEC. Hai nghiên cứu cũng cụ thể
hoá mục tiêu, biện pháp và lộ trình thực hiện AEC, tác động của hội nhập kinh tế
khu vực tới tổng thể nền kinh tế ASEAN và từng nền kinh tế thành viên. Đồng thời,
các tác giả đã trình bày và phân tích chi tiết từ bối cảnh quốc tế đến lộ trình và nội

dung thực hiện các cam kết, cũng như thực tiễn kinh nghiệm hội nhập của một số
khu vực trên thế giới khác như EU, NAFTA, MERCOSUR...và chỉ ra những cơ hội
– thách thức mà AEC phải đối mặt trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động.
Nhóm nội dung nghiên cứu thứ hai tập trung tìm hiểu những thách thức của
q trình hình thành và hiện thực hố AEC trên phạm vi tổng thể, cũng như triển
vọng của AEC. Mặc dù, cách thức tiếp cận của các cơng trình này khác nhau, kết
quả của các nghiên cứu có nhiều điểm chung trong nhận định các thách thức chính
của quá trình hiện thực hố AEC, cụ thể là (i) sự chênh lệch phát triển giữa các nước
thành viên; (ii) thị trường bị chia cắt nghiêm trọng; (iii) tính tốn lợi ích quốc gia
khác nhau của các thành viên ASEAN gây khó khăn cho tiến trình hội nhập; (iv)
hạn chế về năng lực thực hiện các cam kết của các nước thành viên và (v) chủ nghĩa
bảo hộ của các quốc gia vẫn mạnh và có xu hướng gia tăng. Ngồi ra, các nghiên
cứu điển hình trong nhóm này cũng chỉ ra được một số kết quả nổi bật khác:
Tập hợp các nghiên cứu của ADB và Viện Nghiên cứu Đông Nam Á - Yusof
Ishak đã chỉ ra những thách thức trong việc hình thành AEC từ nhiều khía cạnh, bao
gồm các rào cản phi thuế quan, cạnh tranh và vấn đề sở hữu trí tuệ, mơi trường đầu


9
tư, vai trò của Nhà nước, vấn đề giải quyết tranh chấp. Các chuyên gia cho rằng,
triển vọng về AEC 2015 là rất khó thực hiện – tầm nhìn của ASEAN về việc tạo ra
một cộng đồng kinh tế được đánh dấu bằng dịng chảy tự do của hàng hố, dịch vụ,
vốn và lao động có kỹ năng là quá tham vọng và khó có thể áp dụng được do những
đối lập trong quan điểm chính trị và khác biệt thể chế của các quốc gia thành viên.
Vì vậy, để hiện thực hố AEC 2015, khơng chỉ Chính phủ các quốc gia ASEAN mà
các doanh nghiệp, các tổ chức phi lợi nhuận cần thực sự nghiêm túc với kế hoạch đã
đề ra (ADB & ISEAS-Yusof Ishak, 2013). Cũng cùng nhận định này, tác giả Hạ Thị
Thiều Dao và Nguyễn Thị Mai (2014) cho rằng AEC khó có thể thực hiện theo đúng
lộ trình. Thơng qua việc tiếp cận theo hướng đánh giá khả năng xây dựng AEC dựa
trên biểu đánh giá AEC (AEC scorecard), nhóm nghiên cứu nhận định nguyên nhân

chủ yếu dẫn tới tình trạng này vẫn là do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các quốc gia về mức độ mở cửa thị trường, thu nhập bình quân, cơ cấu kinh tế và
một số yếu tố khác. Tác giả Hoàng Thị Thanh Nhàn và Võ Xuân Vinh (2013) cũng
nhận định q trình hình thành AEC cịn phải giải quyết nhiều khó khăn, đặc biệt là
do chênh lệch giữa thương mại và đầu tư ngoại khối so với nội khối. Đầu tư nội
khối ASEAN hiện đóng vai trò khiêm tốn hơn nhiều so với thương mại và đầu tư
với các đối tác bên ngoài. Sự phụ thuộc vào bên ngoài, theo các tác giả, dễ dẫn đến
chệch hướng hội nhập và các nguồn lực khó được huy động tập trung để giải quyết
đòi hỏi từ bên trong ASEAN. Vì vậy, để hiện thực hố AEC 2015 địi hỏi sự nghiêm
túc thực hiện của tất cả các quốc gia thành viên ASEAN.
Sau khi AEC chính thức được thành lập, một số nghiên cứu đã tóm lược các
hoạt động liên quan đến thực tiễn triển khai các cam kết trong AEC kể từ năm 2015.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hà (2017) cho thấy ASEAN đã thơng qua nhiều chính
sách và biện pháp mới, tiếp tục cắt giảm thuế quan (nhưng không nhiều), thực hiện các
sáng kiến như tự cấp chứng chỉ mẫu ATIGA điện tử, các giải pháp ASEAN với đầu tư –
dịch vụ - thương mại (ASSIST), triển khai hệ thống quá cảnh hải quan ASEAN
(ACTS), thông qua Hiệp định khung về Tạo thuận lợi cho hàng hoá quá cảnh
(AFAFGIT). Đối với việc triển khai ACIA, các nước thành viên tiếp tục cải cách thủ
tục đầu tư, nâng cao tính minh bạch và thực hiện tự do hố hơn nữa. Về ngành dịch vụ,
sau khi ký kết thực hiện gói cam kết thứ 9 của AFAS, ASEAN cũng đang hướng tới ký
kết gói thứ 10 để hồn tất AFAS. Tuy vậy, việc xây dựng AEC cũng gặp không ít những
thách thức trong việc hiện thực hoá các nội dung cam kết do sự mức độ chênh lệch về
phát triển và sự khác biệt giữa các quốc gia, nội dung chương trình vẫn nặng về lý
thuyết và khơng có kế hoạch hành động cụ thể, sự liên kết còn yếu kém. Nghiên cứu đi
tới khẳng định con đường đưa ASEAN trở thành một cộng đồng kinh


10
tế thực sự là một mục tiêu và nhiệm vụ còn nhiều thách thức. Cùng đánh giá các cơ hội
và thách thức cho AEC trong tương lại, chuỗi 10 bài nghiên cứu của ERIA (2017) đã

xem xét đa dạng các vấn đề có liên quan – từ tạo thuận lợi thương mại, đến các biện
pháp phi thuế quan, các ngành dịch vụ, sự kết nối, hội nhập tài chính, thực hành quản lý
tốt... và tác động của bối cảnh thế giới đến quá trình xây dựng AEC. Tập hợp nghiên
cứu khẳng định tất cả các vấn đề trong việc xây dựng AEC vẫn “đang trong quá trình
xử lý” và các quốc gia cần nỗ lực hơn nữa nếu muốn đạt được những mục tiêu đã đề ra
của AEC 2025, đồng thời đưa ra triển vọng và những khuyến nghị hỗ trợ các quốc gia
ASEAN đạt được khả năng này vào năm 2025 và 2035.

Nhóm nội dung nghiên cứu thứ ba, ngoài các nghiên cứu tổng quan, nhiều
tác giả đã tập trung vào các cam kết trong AEC với từng lĩnh vực cụ thể, trong đó,
ngành dịch vụ cũng như hoạt động đầu tư là những hướng nghiên cứu chuyên sâu.
Thực tế, các nghiên cứu trong nước liên quan đến nhóm nội dung trên còn tương đối
hạn chế và hầu hết là các nghiên cứu chi tiết về trường hợp của Việt Nam. Trong khi
đó, các nghiên cứu nước ngồi có tính tham khảo cao hơn, chủ yếu tập trung đánh
giá mức độ cam kết và thực tế triển khai các cam kết của các quốc gia thành viên
ASEAN trong ngành dịch vụ tới thời điểm nghiên cứu, chỉ ra các thành tựu và hạn
chế, đồng thời đề xuất các giải pháp thúc đẩy q trình mở cửa dịch vụ thơng qua
việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:
Báo cáo Hội nhập ngành dịch vụ của ASEAN là một nghiên cứu tổng thể
cung cấp cái nhìn tổng quan về lợi ích của mở cửa thị trường dịch vụ trong ASEAN,
các tiến trình thể chế trong ASEAN về hội nhập dịch vụ, thực trạng đàm phán mở
cửa ngành dịch vụ và các sáng kiến được thực hiện để tiến tới hội nhập dịch vụ tại
ASEAN. Báo cáo khẳng định, hội nhập dịch vụ trong ASEAN còn đang gặp rất
nhiều thách thức. Tuy nhiên, với tốc độ hội nhập nhanh chóng của các nền kinh tế
ASEAN vào hệ thống thương mại toàn cầu và tốc độ đàm phán các FTA ngày càng
mạnh mẽ, ASEAN hướng tới mức độ hội nhập và hợp tác cao hơn trong ngành dịch
vụ giữa các quốc gia thành viên. Để đạt được mục tiêu của AEC 2015 liên quan đến
hiện thực hoá hội nhập ASEAN trong ngành dịch vụ, hợp tác giữa tất cả các bên liên
quan đóng một vai trị rất quan trọng (The ASEAN Secretariat, 2009; The ASEAN
Secretariat, 2019).

Về mức độ cam kết của các quốc gia ASEAN trong ngành dịch vụ, sử dụng chỉ
số Hoekman, Ishido và Fukunaga (2012) đã đánh giá mức độ cam kết của các quốc gia
ASEAN trong gói AFAS 5 so với các FTA khác mà các nước thành viên đã ký kết và so
với GATS, từ đó chỉ ra 8 hạn chế của quá trình mở cửa ngành dịch vụ trong ASEAN,
như số lượng các nhà cung cấp dịch vụ, tổng giá trị các giao dịch dịch


11
vụ, số lượng thể nhân có thể được tuyển dụng trong một ngành dịch vụ cụ thể, giới
hạn tỷ lệ phần trăm tối đa tham gia đối với cổ phần nước ngồi... Dựa trên các phân
tích này, nghiên cứu đưa ra 4 gợi ý nhằm thúc đẩy quá trình mở cửa ngành dịch vụ
trong ASEAN như đặt mục tiêu cao hơn cho các gói AFAS tiếp theo và ưu tiên
những ngành dịch vụ đóng vai trị quan trọng trong việc liên kết Đơng Nam Á với
các chuỗi sản xuất tồn cầu. Cũng cùng mục tiêu đánh giá đã các cam kết đã đạt
được cho đến thời điểm năm 2012, nghiên cứu của Dee (2013) đã so sánh cam kết
của các quốc gia ASEAN trong AFAS với thực tiễn thực hiện, tập trung vào hai lĩnh
vực chủ chốt là dịch vụ tài chính và vận tải hàng khơng. Nghiên cứu đã cho thấy
việc thực hiện các cam kết trên thực tế đã đạt được nhiều kết quả đáng kể và chỉ ra
nguyên nhân của một số hạn chế như đặc điểm riêng của các ngành, đặc điểm của
khung đàm phán và các lỗ hổng trong môi trường pháp lý. Bên cạnh đó, hai nghiên
cứu nằm trong chuỗi bài thảo luận của ERIA cũng đã đánh giá mức độ và tình hình
cam kết của các thành viên ASEAN trong AFAS tính đến thời điểm ký kết AFAS 8.
Narjoko (2015) đã sử dụng phương pháp tính điểm trên thang 100 để đánh giá mức
độ mở cửa của từng phân ngành dịch vụ đối với 10 quốc gia thành viên, so sánh với
mục tiêu đặt ra trong AEC Blueprint và so sánh những tiến bộ mà AFAS 8 đạt được
so với AFAS 7. Tác giả nhận định các quốc gia ASEAN đã sử dụng quy tắc linh
hoạt trong AFAS để loại trừ một số phân ngành nhạy cảm khỏi phạm vi cam kết;
đồng thời, mức độ cam kết theo phương thức 3 trong AFAS 8 đã tăng lên đáng kể,
dẫn đến một số quốc gia không đạt được mức độ cam kết đưa ra theo gói này. Trong
khi đó, nghiên cứu của Dee (2015) đã sử dụng bảng hỏi dựa trên AEC Scorecard để

đánh giá thực tế việc triển khai các cam kết theo AFAS trong các nhóm ngành ưu
tiên như y tế, sức khoẻ, du lịch, hàng hải, viễn thông và bảo hiểm. Từ đó, tác giả
cho thấy thực tế triển khai đang không đạt được mức cam kết mà các quốc gia đã ký
kết và đưa ra phương hướng phát triển cho tương lai, theo đó các cam kết trong
AFAS cần liên kết chặt chẽ hơn với q trình phát triển chính sách của các quốc gia
thành viên. Bên cạnh đó, thơng qua phương pháp tổng hợp và so sánh, nghiên cứu
của Neo và cộng sự (2019) đã mô tả khái quát hoạt động dịch vụ tại ASEAN và quá
trình mở cửa ngành dịch vụ trong ASEAN – tổng hợp nội dung các cam kết trong
AFAS, mức độ cam kết trong AFAS 9 và đánh giá mức cam kết đã đạt được – dựa
trên các nghiên cứu của nhiều tác giả về nội dung này. Nghiên cứu cũng đánh giá
quá trình mở cửa ngành dịch vụ của ASEAN theo các FTA khác đã ký và đưa ra gợi
ý cho AEC từ bài học hội nhập khu vực dịch vụ của EU.
Liên quan đến hoạt động đầu tư, một số nghiên cứu đã đánh giá mức độ và tác
động của các cam kết liên quan đến đầu tư trong AEC. Nghiên cứu của Thangavelu


12
và Lim (2011) và Thangavelu (2015) đã đánh giá chỉ số hạn chế FDI của ASEAN sau
khi các quốc gia ASEAN hoàn hành ký kết AFAS 8 và ACIA. Nghiên cứu chỉ ra một số
kết quả nổi bật, tiêu biểu như: FDI trong các ngành sản xuất được mở cửa nhiều hơn so
với các ngành dịch vụ; các nền kinh tế đang phát triển trong ASEAN như Việt Nam hay
Campuchia có chính sách cởi mở hơn đối với đầu tư nước ngoài so với các nền kinh tế
phát triển hơn như Thái Lan hay Malaysia nhằm duy trì động lực tự do hoá và hội nhập
kinh tế trong khu vực; và khẳng định các quốc gia cần tiếp tục mở cửa các ngành dịch
vụ vì đây là thành phần quan trọng sẽ đóng góp vào sự tăng trưởng của các quốc gia
ASEAN trong tương lai. Bên cạnh đó, Fauzi, A. & Swaramarinda (2013) cũng đã đánh
giá tác động của AEC đến hoạt động đầu tư thơng qua phân tích thực trạng FDI của một
số quốc gia ASEAN sau khi ACIA được triển khai. Nghiên cứu nhận định FDI vào các
quốc gia ASEAN có xu hướng tăng lên khi ACIA hình thành và dự đốn dịng vốn FDI
sẽ tiếp tục tăng lên khi AEC được hiện thực hoá.


1.1.2. Các nghiên cứu về quá trình hội nhập của Việt Nam trong AEC
Các nghiên cứu về Việt Nam và AEC chủ yếu tập trung phân tích các cam kết
của Việt Nam trong AEC nói chung và các cam kết cụ thể trong từng lĩnh vực, đồng
thời nhận định các cơ hội thách thức của Việt Nam khi thực hiện các cam kết của
AEC.
Thứ nhất, các nghiên cứu chung về sự tham gia của Việt Nam vào AEC tập
trung tìm hiểu những đóng góp của Việt Nam vào tiến trình hiện thực hố AEC hoặc
thực trạng việc thực thi các cam kết của Việt Nam tính đến thời điểm nghiên cứu.
Các nghiên cứu đã khẳng định thái độ chủ động và tích cực của Việt Nam trong
q trình xây dựng và hiện thực hố các cam kết trong AEC, đánh giá lộ trình, kế hoạch
hành động và cơ chế vận hành của AEC, đồng thời miêu tả kết quả thực hiện bước đầu,
tính khả thi và những vấn đề cơ bản nhằm hiện thực hố AEC (Nguyễn Văn Hà, 2013).
Ngồi việc giảm thuế và tham gia một cách toàn diện cùng các thành viên khác trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, Việt Nam còn thúc đẩy mạnh mẽ việc đưa vào hiệu lực nhiều
hiệp định quan trọng như ATIGA, CEPT/AFTA, AFAS và chủ động đưa ra sáng kiến
nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân ASEAN về AEC (Vũ
Huy Hoàng, 2010). Trong khi đó, Võ Minh Tập (2013) cũng đã phân tích rõ thực trạng
của Việt Nam khi tham gia vào AEC – về quyết tâm chính trị, tiềm lực quốc gia, năng
lực cạnh tranh, trình độ phát triển và tăng trưởng... nhằm chỉ ra những đối sách của Việt
Nam với q trình hiện thực hố AEC như cải cách thể chế kinh tế, đẩy mạnh năng lực
cạnh tranh, rút ngắn khoảng cách phát triển...
Thứ hai, các nghiên cứu về AEC trong một số lĩnh vực đặc thù lại tập trung cụ
thể hố các cam kết trong AEC và tình hình thực hiện các cam kết này của Việt


13
Nam trong các ngành chủ chốt, đặc biệt là thương mại hàng hố – dịch vụ và đầu tư.
Từ đó, các nghiên cứu chỉ ra những hạn chế trong tiến trình thực thi các cam kết của
Việt Nam và đưa ra các gợi ý. Đa số các nghiên cứu đều kết luận tiến trình thực hiện

các cam kết AEC của Việt Nam đang cịn nhiều khó khăn và chưa đạt được kết quả
như mong đợi. Cụ thể:
Về lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ, các nghiên cứu chú trọng vào
phân tích những tác động của AEC đến thương mại quốc tế của Việt Nam. Theo đó,
AEC sẽ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc gia tăng trao đổi hàng hoá và làm
thay đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng tích cực, nâng cao năng lực cạnh tranh cho
hàng xuất khẩu và hạ giá đầu vào của hàng nhập khẩu. Nghiên cứu cũng chỉ ra do
những cơ hội và ưu tiên mà AEC mang lại cho các thành viên ASEAN là đồng đều
nhau, Việt Nam sẽ phải đối mặt với cuộc cạnh tranh khốc liệt không chỉ ở những thị
trường nước ngồi mà cả ngay chính trên thị trường nội địa. Đặc biệt, trong các
ngành dịch vụ (như ngân hàng, tài chính, logistics...), hội nhập trong AEC sẽ là một
thách thức lớn cho các doanh nghiệp trong nước (Hà Văn Hội, 2013).
Một số nghiên cứu cũng đã sử dụng chỉ số Hoekman để xem xét, cập nhật tiến
trình hội nhập của ASEAN liên quan đến thương mại hàng hoá và dịch vụ hướng tới
AEC, đồng thời phân tích sự tham gia của Việt Nam vào tiến trình này. Về mở cửa
ngành dịch vụ, các nghiên cứu đã chỉ ra cam kết của Việt Nam trong 11 ngành dịch vụ
theo biểu cam kết AFAS 8 và thực trạng thực hiện các MRAs (Nguyễn Hồng Sơn và
cộng sự, 2015b). Sử dụng mơ hình trọng lực để phân tích tác động của các hoạt động
hội nhập trong AEC đến luồng thương mại hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam, nghiên
cứu của Nguyễn Anh Thu và cộng sự (2015) cho thấy hội nhập thương mại hàng hoá và
dịch vụ của Việt Nam đã có tác động tích cực tới cả xuất khẩu và nhập khẩu của Việt
Nam. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các hoạt động hợp tác, đồng
thời tận dụng những ưu đãi về thương mại trong AEC thông qua nâng cao chất lượng
và số lượng hàng hoá và dịch vụ cung cấp; hiểu được điểm mạnh và điểm yếu của mình
để cạnh tranh tốt hơn với các doanh nghiệp từ ASEAN. Tuy nhiên, kết quả hội nhập
ngành dịch vụ chưa đạt được kế hoạch đặt ra trong AEC Blueprint (Vũ Thanh Hương
và Trần Việt Dung, 2015). Theo đó, một số nước vẫn chưa đạt được lộ trình đã cam kết
trong việc bãi bỏ thuế quan; giữa các quốc gia vẫn còn tồn tại những khác biệt về tính
đồng bộ trong thủ tục hành chính, chỉ số hiện đại hố hải quan và việc triển khai các
MRAs. Nghiên cứu kết luận, trải qua một thời gian thực hiện mở cửa thương mại trong

AEC, các nước ASEAN đã đạt được những tiến bộ cơ bản trong việc bãi bỏ thuế quan
và hình thành hệ thống các cơ chế nhằm tạo thuận lợi cho thương mại nhưng vẫn còn
chưa đạt được như kế hoạch đề ra (Nguyễn Văn Hà


14
và Nguyễn Xuân Tùng, 2015). Đây là cơ sở để nghiên cứu đề xuất một số giải pháp
thúc đẩy Việt Nam và các nước ASEAN có những nỗ lực lớn hơn nhằm hồn thành
nốt các cơng việc cịn lại của q trình hiện thực hố AEC 2025 trong ngành dịch
vụ, tăng cường sự đóng góp của Việt Nam trong việc hiện thực hoá mục tiêu AEC
về hội nhập ngành dịch vụ.
Về lĩnh vực đầu tư, các nghiên cứu đã phân tích các cam kết và việc thực hiện
cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) và thực trạng
FDI của ASEAN vào Việt Nam. Theo đó, sự hình thành của ACIA sẽ thúc đẩy luồng
vốn FDI vào ASEAN, đồng thời thúc đẩy hình thành các chuỗi giá trị và cung ứng tích
hợp trong khu vực. Điều này mang lại cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị cũng như tăng
vốn đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua FDI cho Việt Nam. Phạm Thái Hà
(2017) và Trang Thị Tuyết (2017) đã tóm lược tình hình đầu tư từ ASEAN vào Việt
Nam sau khi AEC có hiệu lực. Theo đó, FDI nội khối ASEAN vào Việt Nam tăng đáng
kể, đặc biệt trong ngành sản xuất, với các nhà đầu tư chủ yếu đến từ Singapore, Thái
Lan và Malaysia. Các nghiên cứu cũng chỉ ra những cải cách trong chính sách đầu tư
của Việt Nam đứng dưới góc độ của Chính phủ nhằm thực thi các FTA nói chung và
hướng tới AEC nói riêng như thay đổi quy định về cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, thay đổi quy định về tư cách của nhà đầu tư nước ngoài, rút ngắn thời gian cấp
giấy chứng nhận đăng ký đầu tư... nhằm cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng
ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Tuy vậy, mặc dù FDI
từ ASEAN vào Việt Nam đã đạt được kết quả nhất định những vẫn còn khiêm tốn so
với tiềm năng của các nước trong khu vực do tác động của cạnh tranh giữa các nước
nội khối và ngoại khối, năng lực cạnh tranh của Việt Nam lại thấp hơn so với nhiều
nước trong khối, khả năng thực tế đầu tư từ các nước ASEAN vào Việt Nam còn khiêm

tốn và cấp độ liên kết AEC ở mức độ thấp, thiếu các điều kiện ràng buộc. Bên cạnh cơ
hội, thách thức mà AEC mang lại cũng không nhỏ khi cạnh tranh về thu hút FDI giữa
các nước trong ASEAN sẽ ngày càng gay gắt và Việt Nam cần xác định rõ mình sẽ
đứng ở đâu trong chuỗi giá trị để nỗ lực đạt được mục tiêu của mình (Nguyễn Thị Minh
Phương, 2014).

Ngồi ra, có nhiều nghiên cứu về sự tham gia của Việt Nam vào AEC trong
những lĩnh vực và vấn đề đặc thù như hợp tác tiền tệ (Nguyễn Tiến Dũng, 2012),
dịch vụ phân phối (Vu Thanh Huong, 2013,), logistics (Phạm Hùng Tiến, 2014)...
Như vậy đã có những nghiên cứu chung phân tích những tác động hội nhập
AEC đến Việt Nam trên các phương diện chung như thương mại quốc tế và đầu tư,
cũng như trên các lĩnh vực đặc thù. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân
tích trên phương diện thu hút FDI vào các ngành dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam


15
thực hiện các cam kết của AEC. Đối với hoạt động đầu tư, đa số các cơng trình
trong nhóm nội dung này mới chủ yếu dừng lại ở mô tả thực trạng đầu tư, kinh
nghiệm thu hút FDI từ một số nước ASEAN, các cơ hội thách thức từ AEC, từ đó
chỉ ra các giải pháp thúc đẩy nguồn FDI này.
1.2. Tổng quan nghiên cứu liên quan đến các yếu tố thu hút FDI
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm được thực
hiện liên quan đến các yếu tố thu hút FDI. Các công trình nghiên cứu lý thuyết đã
củng cố và xây dựng khung lý thuyết đối với yếu tố quyết định vị trí của dịng vốn
FDI. Trong khi đó, các cơng trình nghiên cứu thực nghiệm đã xác định các yếu tố cụ
thể thu hút hay cản trở dòng vốn này đến nhóm nước, khu vực hay tại một quốc gia.
Bên cạnh các yếu tố thu hút FDI ở phương diện chung, tổng quan nghiên cứu cũng
trình bày các yếu tố thu hút FDI trong bối cảnh liên kết kinh tế khu vực do đây là
trọng tâm nghiên cứu của luận án.
1.2.1. Ở phương diện chung

1.2.1.1. Các nghiên cứu lý thuyết
Đến nay đã có nhiều mơ hình lý thuyết giải thích các yếu tố thu hút FDI của
một quốc gia, hay nói cách khác là các yếu tố tác động đến địa điểm lựa chọn đầu tư
của các công ty đa quốc gia. Các nhà đầu tư nước ngồi tìm kiếm các vị trí dồi dào
tài nguyên thiên nhiên hoặc các nguồn lực khác như cơ sở hạ tầng tốt, môi trường
kinh doanh hấp dẫn, nguồn lao động dồi dào giá rẻ và có trình độ,…Việc lựa chọn
địa điểm đầu tư cũng bị ảnh hưởng từ động lực đầu tư của các cơng ty: tìm kiếm thị
trường, tìm kiếm hiệu quả hoặc tìm kiếm tài sản chiến lược. Lợi thế về vị trí được
coi là yếu tố cốt lõi của q trình ra quyết định đầu tư. Một số lý thuyết nổi bật giải
thích các yếu tố thu hút FDI có thể kể tới bao gồm: Mơ hình Heckscher-Ohlin do
Heckscher (1919) và Ohlin (1933) xây dựng dựa trên lý thuyết thương mại quốc tế;
Lý thuyết về lợi thế độc quyền của Hymer (1960); Lý thuyết vòng đời sản phẩm của
Hirsch (1965) và Vernon (1966); và Lý thuyết chiết trung của Dunning (1977, 1979,
1980, 1981, 1988, 1998, 2000, 2001). Trong đó, Lý thuyết chiết trung được xem là
một khn khổ tồn diện nhất để giải thích FDI và các yếu tố quyết định FDI.
Các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào thị trường nước ngồi với điều kiện thị trường
đó có nhiều điểm hấp dẫn hơn so với thị trường nội địa (Dunning, 1981). Đóng góp
chính của mơ hình chiết trung là tổng hợp các lý thuyết trước đây và xác định một tập
hợp các biến số (liên quan đến tìm kiếm thị trường, tìm kiếm hiệu quả, tìm kiếm tài
nguyên và tài sản chiến lược) có ảnh hưởng đến hoạt động của các MNEs (Dunning và
Lundan, 2008). Hầu hết các khung lý thuyết được phát triển sau này về cơ bản đã mở
rộng mơ hình của Dunning, bổ sung các yếu tố khác có thể thu hút các


16
MNEs thực hiện hoạt động FDI. Đặc biệt, trên cơ sở khung lý thuyết OLI của
Dunning, UNCTAD (1998a) đã đưa ra 3 nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến thu hút
FDI bao gồm (i) Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư, (ii) Các yếu tố của
môi trường kinh tế và (iii) Các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh. Dựa
trên ba nhóm yếu tố này, UNCTAD đã thực hiện các cuộc điều tra thường niên

nhằm đánh giá và xếp hạng cạnh tranh giữa các quốc gia trong thu hút FDI. Đây là
cơ sở quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả về cải thiện môi trường đầu tư nhằm
thu hút FDI ở cấp độ quốc gia. Nội dung chi tiết về 3 nhóm yếu tố này được trình
bày trong Chương 2 của luận án.
Lý thuyết OLI về các quyết tố quyết định vị trí FDI và khung 3 nhóm yếu tố
chính ảnh hưởng đến FDI của UNCTAD (1998a) sẽ được lựa chọn làm nền tảng xây
dựng mơ hình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào các ngành
dịch vụ tại Việt Nam trong Chương 4 của luận án.
1.2.1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm
Các nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu tiếp cận theo hai hướng. Một là các
nghiên cứu chứng minh nền tảng lý thuyết về các yếu tố quyết định vị trí FDI thơng
qua nghiên cứu sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế truyền thống hay các yếu tố
mới như tác động chính sách của Chính phủ, chất lượng thể chế, khoảng cách địa lý
và văn hoá…đến dòng chảy FDI. Hai là các nghiên cứu thực nghiệm xác định yếu
tố tác động đến thu hút hay cản trở đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một khu vực hay
một quốc gia cụ thể nhằm đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy những lợi thế và
hạn chế những tồn tại hướng tới tăng cường thu hút dòng vốn FDI. Do mục tiêu
nghiên cứu của luận án là nhằm xác định các yếu tố tác động đến thu hút FDI từ
ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập nên nội dung
tổng quan sẽ tập trung vào hướng nghiên cứu thứ hai.
a. Các nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố tác động đến thu hút FDI nói chung
Các nghiên cứu thực nghiệm đã tập trung vào nghiên cứu ở phương diện
chung, hoặc tập trung vào một hoặc một nhóm quốc gia thuộc một khu vực trên thế
giới. Ở phương diện chung, Bellak và cộng sự (2008) đã phân tích các yếu tố tác động
đến thu hút FDI dựa trên mẫu nghiên cứu của 11 quốc gia (bao gồm Hoa Kỳ, 6 nước
châu Âu và 4 nước Trung và Đông Âu) trong 10 ngành công nghiệp từ năm 1995 đến
2004. Nghiên cứu chỉ ra các yếu tố (i) quy mơ thị trường, (ii) trình độ công nghệ, (iii)
cơ sở hạ tầng, (iv) kết quả thu hút FDI năm trước có tác động tích cực trong thu hút
FDI. Trong khi đó, các yếu tố (i) chi phí lao động cao, (ii) thuế suất doanh nghiệp cao,
(iii) rào cản FDI lại có tác động tiêu cực đến dịng vốn FDI. Một số cơng trình lựa chọn

mẫu nghiên cứu theo tính chất của nền kinh tế như nghiên cứu của


17
Bevan và Estrind (2004), Carstensen và Toubal (2004) với các nền kinh tế đang
chuyển đổi; Shahmoradi và Baghbanyan (2011) với các nền kinh tế đang phát triển;
Vijayakumar và cộng sự (2010) với các nền kinh tế mới nổi…Một số công trình tập
trung nghiên cứu theo khu vực địa lý, trong đó châu Á là khu vực nhận được nhiều
sự quan tâm của nhà nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực nghiệm các yếu tố tác động
đến việc thu hút dòng vốn FDI. Tuy nhiên, số lượng các nghiên cứu cho khu vực
Đơng Nam Á cịn hạn chế, tiêu biểu là các nghiên cứu của Kang và Jiang (2012),
Hoang Hong Hiep (2012)… Bên cạnh đó, cịn có các nghiên cứu phân tích các yếu
tố tác động đến thu hút FDI của một quốc gia. Số lượng các nghiên cứu thuộc nhóm
này rất lớn, tuy nhiên do phạm vi nghiên cứu hạn chế ở các quốc gia ASEAN và
Việt Nam, luận án chỉ tìm hiểu các nghiên cứu thực nghiệm nhằm xác định yếu tố
tác động đến thu hút FDI tại các quốc gia Đơng Nam Á. Một số nghiên cứu điển
hình bao gồm nghiên cứu của Mah và Yoon (2010) phân tích các yếu tố tác động
đến dòng vốn FDI vào Singapore và Indonesia; nghiên cứu của Ang (2008), Nor
(2013) và Hamood và cộng sự (2018) xem xét các yếu tố quyết định đến thu hút
FDI của Malaysia; nghiên cứu của Khamphengvong và cộng sự (2018) đã chỉ ra các
yếu tố thu hút FDI vào Lào. Ngồi ra cịn một số các nghiên cứu được thực hiện cho
Campuchia (Cuyvers và cộng sự 2008), Thái Lan (Daly và Tosompark 2011)…
Phụ lục 2.1 tóm tắt các nhóm yếu tố, cách thức đo lường các biến số và tác động
của chúng đến thu hút FDI trong một số nghiên cứu điển hình. Có thể thấy, đa số các
nghiên cứu thực nghiệm được xây dựng dựa trên nền tảng lý thuyết OLI của Dunning,
sử dụng phân tích dữ liệu bảng với các phương pháp ước lượng chủ yếu là OLS, FEM,
REM hoặc GMM khi mơ hình tồn tại các vấn đề nội sinh. Về yếu tố tác động thu hút
FDI, hầu hết trong các nghiên cứu các tác giả sử dụng các biến đại diện và phương
pháp nghiên cứu khác nhau phù hợp với đặc điểm nghiên cứu và cơ sở dữ liệu thống
kê. Kết quả tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, các yếu tố tác động đến

thu hút dòng vốn đầu tư nước ngồi vào một nhóm quốc gia, khu vực hay một quốc gia
cụ thể tuy có sự khác biệt nhưng chủ yếu thuộc về các nhóm yếu tố phổ biến: nhóm yếu
tố thể hiện khung chính sách của Chính phủ (như lạm phát, rủi ro quốc gia, tỷ giá hối
đoái…), nhóm yếu tố kinh tế (như quy mơ thị trường, tăng trưởng kinh tế, mở cửa
thương mại…) và nhóm yếu tố hỗ trợ đầu tư (như chất lượng quy định pháp luật, tham
nhũng, ổn định chính trị…) (UNCTAD, 1998a).

b. Các nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố tác động đến thu hút FDI tại Việt Nam Các
nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố tác động đến thu hút FDI tại Việt Nam có thể chia
thành hai nhóm dựa theo nguồn dữ liệu sử dụng là sơ cấp hay thứ cấp. Do luận án
chủ yếu sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp, tác giả sẽ chỉ tập trung trình bày tổng


18
quan các nghiên cứu thuộc nhóm này. Cũng do phạm vi của luận án, tác giả cũng
chỉ tập trung vào các nghiên cứu liên quan đến thu hút FDI ở cấp độ quốc gia.
Sử dụng phương pháp hồi quy OLS đối với dữ liệu chuỗi thời gian theo quý giai
đoạn 1998-2005, nghiên cứu của Hoang Thi Thu (2006) cho thấy (i) quy mô thị trường,
(ii) khả năng tăng trưởng của thị trường, (iii) cơ sở hạ tầng, (iv) độ mở của nền kinh tế,
(v) tỷ giá hối đoái và (vi) khủng hoảng tài chính châu Á có ý nghĩa thống kê trong thu
hút FDI vào Việt Nam. Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực và tỷ lệ lạm phát lại
khơng có ý nghĩa thống kê trong mơ hình này. Kết quả này cũng phù hợp với các
nghiên cứu trước đây về trường hợp của Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu khơng có các
kiểm định với mơ hình OLS nên kết quả ước lượng có thể chưa hiệu quả và chính xác.
Cũng sử dụng phương pháp OLS với dữ liệu trong giai đoạn 1988-2010, nghiên cứu
của Hồ Nhật Quang (2010) cũng kiểm định các yếu tố thu hút FDI vào Việt Nam. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra các yếu tố (i) tổng sản phẩm quốc nội,
(ii) đầu tư Nhà nước vào công nghiệp và nông nghiệp, (iii) giá trị thương mại quốc

tế và (iv) tổng tiêu dùng trong nền kinh tế có tác động đáng kể đến thu hút vốn FDI

vào Việt Nam. Tác giả đã thực hiện các kiểm định khác nhau như kiểm định đa cộng
tuyến, kiểm định phương sai thay đổi và kiểm định tự tương quan – tuy nhiên chưa
thực hiện kiểm định tính dừng cho dữ liệu chuỗi thời gian nên có thể ảnh hưởng đến
độ tin cậy của kết quả hồi quy.
Một số nghiên cứu sử dụng Mơ hình trọng lực (Gravity Model) để đánh giá
tác động của các yếu tố thu hút FDI vào Việt Nam. Tiêu biểu như:
Nghiên cứu của Nguyen Thanh Hoang (2011) là một nghiên cứu mang tính
tồn diện đối với chuỗi hoạt động của FDI về mặt lý thuyết Kết quả hồi quy cho
thấy, khoảng cách chênh lệch giữa (i) GDP, (ii) tiền lương của nước đầu tư và nước
sở tại và các yếu tố (iii) quy mô thị trường, (iv) chất lượng cơ sở hạ tầng, (v) nguồn
nhân lực, (vi) mở cửa nền kinh tế có ý nghĩa thống kê trong tác động đến FDI. Tuy
nhiên trong nghiên cứu này, độ tin cậy của kết quả ước lượng cịn hạn chế do tác giả
khơng tiến hành kiểm định các vi phạm của mơ hình.
Để đánh giá tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động thương mại
và đầu tư vào Việt Nam, nghiên cứu của Pham Thi Hong Hanh (2011) sử dụng
phương pháp ước lượng OLS và tác động ngẫu nhiên REM với số liệu đầu tư của 17
quốc gia vào Việt Nam từ năm 1990 đến 2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu
tố liên quan đến quy mô nền kinh tế (đo bằng GDP), tỷ giá hối đoái, việc ký kết các
FTA và tham gia vào WTO có tác động đến dịng vốn FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên,
nghiên cứu cũng chỉ ra việc gia nhập WTO có thể làm Việt Nam dễ bị ảnh hưởng sâu
rộng hơn bởi khủng hoảng tài chính và suy thối tồn cầu trong tương lai. Nghiên


19
cứu của Hồng Chí Cương và cộng sự (2013) sử dụng dữ liệu bảng giai đoạn 19952011 từ 18 đối tác đầu tư nước ngoài lớn của Việt Nam với phương pháp ước lượng
Hausman-Taylor cũng khẳng định tác động của WTO đến dòng vốn FDI chảy vào
Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu khơng tìm thấy mối liên hệ giữa các hiệp định
thương mại mà Việt Nam ký kết gần đây với việc thúc đẩy dòng vốn FDI.
Gần đây nhất, nghiên cứu của Phan Thị Quốc Hương (2014) cũng đã thực hiện
kiểm định theo phương pháp ước lượng OLS và GMM sai phân với số liệu về kết quả

thu hút FDI tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2012 của 24 nước đang phát triển thuộc
khu vực Châu Á. Theo đó, dịng chảy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bị ảnh hưởng bởi
(i) tỷ giá hối đoái, (ii) vốn viện trợ phát triển chính thức, (iii) tổng sản phẩm quốc nội,
(iv) kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và (v) tài ngyên khai thác. Với phương pháp kiểm
định GMM sai phân, kết quả ước lượng có sự hiệu quả và chính xác cao hơn, tuy nhiên
cách tiếp cận dữ liệu của tác giả không nghiên cứu trực tiếp với trường hợp của Việt
Nam nên độ tin cậy của kết quả nghiên cứu bị ảnh hưởng.

Như vậy, các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các yếu tố tác động đến thu
hút FDI vào Việt Nam vẫn thuộc các nhóm yếu tố chính, tuy nhiên kết quả chưa có
sự thống nhất. Nhiều yếu tố được tìm thấy có ảnh hưởng trong nghiên cứu này
nhưng khơng có ý nghĩa thống kê trong các nghiên cứu khác.
FDI từ ASEAN vào Việt Nam
Liên quan đến nội dung thu hút FDI từ ASEAN vào Việt Nam, đa số các
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở phân tích thực trạng đầu tư. Trong khi đó, các nghiên
cứu tìm hiểu những yếu tố thu hút FDI từ ASEAN vào Việt Nam rất hạn chế và chủ
yếu là các nghiên cứu định tính.
Nghiên cứu của Suvakunta (2017) tổng hợp số lượng vốn và dự án, các
ngành trọng điểm FDI của Thái Lan vào Việt Nam, các công ty tiêu biểu của Thái
Lan tại Việt Nam và các yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư này bao gồm yếu tố
địa lý, chính trị và kinh tế dựa trên thống kê mô tả. Nghiên cứu cho thấy số lượng
FDI từ Thái Lan vào Việt Nam có xu hướng tăng liên tục ở đa dạng các ngành nghề.
Yếu tố tác động đến quyết định của các nhà đầu tư Thái Lan khi đầu tư vào thị
trường này bao gồm vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở vật chất tại các thành phố và tỉnh
thành lớn của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, dân số trẻ chiếm tỷ lệ rất cao,
nhiều ưu đãi về thuế, cùng với chất lượng lao động tương đối tốt. Tuy nhiên hạn chế
của nghiên cứu đó là mới chỉ phân tích mà chưa chỉ ra được cơ sở cho các nhận
định về các yếu tố tác động nói trên.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Lim (2017) đã tiến hành phỏng vấn chuyên sâu với
56 doanh nghiệp Malaysia có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt Nam để tìm ra động



20
lực đầu tư của các doanh nghiệp nước này tại thị trường Việt Nam. Kết quả cho thấy, đa
số các doanh nghiệp Malaysia lựa chọn đầu tư tại Việt Nam nhằm tận dụng yếu tố quy
mô thị trường lớn và tăng trưởng nhanh với dân số trẻ và nguồn tài nguyên dồi dào –
như lao động giá rẻ, nguyên liệu thơ sẵn có và việc cho phép th đất dài hạn
– các yếu tố này giúp cho các doanh nghiệp giảm được giá thành sản phẩm. Ngoài ra,
hơn 1/3 số doanh nghiệp Malaysia được phỏng vấn tìm kiếm những tài sản chiến lược

– chủ yếu là cách thức đối phó với những thủ tục giấy tờ còn nhiều quan liêu của
chính quyền thơng qua các liên doanh với doanh nghiệp nội địa. Điều này cho thấy
mơi trường chính trị ở Việt Nam cũng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của
các doanh nghiệp Malaysia. Tuy nhiên, động lực tìm kiếm hiệu quả của các doanh
nghiệp rất ít (chỉ chiếm 9%) – nghĩa là các cơng ty này cịn rất hạn chế trong việc
tận dụng các lợi thế so sánh của Việt Nam – trong đó có các lợi thế từ quá trình hội
nhập. Từ các kết quả này, tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách cho Việt Nam –
trong đó tập trung vào các chính sách nhằm thu hút FDI từ cả các nước đang phát
triển như Malaysia do những triển vọng mà nhóm các nước này mang lại là rất lớn.
Napa và cộng sự (2018) đã so sánh các ưu đãi đầu tư về tài chính nổi bật của
các quốc gia thành viên ASEAN nhằm mục đích xây dựng các cải cách chính sách
hợp lý. Bảng so sánh được xây dựng với 11 loại hình ưu đãi của từng quốc gia thành
viên – là cơ sở quan trọng giúp đối chiếu chính sách về thuế của các nước trong khu
vực và đưa ra gợi ý cho Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng nhận định mặc dù
nhiều quốc gia có chính sách ưu đãi thuế hấp dẫn hơn nhưng lại thu hút được ít FDI
hơn (ví dụ như trường hợp của Việt Nam và Philippines) – điều này cho thấy các
yếu tố thuộc môi trường đầu tư khác như cơ sở hạ tầng, quy định về kinh doanh,
chất lượng quản trị cũng rất quan trọng. Bên cạnh hạn chế đó, cách so sánh trực tiếp
1-1 cũng khó có thể đưa ra kết luận chính xác đâu là ưu đãi hợp lý và hiệu quả do
mỗi quốc gia có sự khác biệt về mức độ phát triển của nền kinh tế, quan điểm và

định hướng phát triển trong thu hút FDI.
Như vậy, các nghiên cứu thực nghiệm tìm hiểu các yếu tố thu hút FDI từ
ASEAN vào Việt Nam còn rất hạn chế. Đây là một khoảng trống lớn mà luận án có
thể khai thác để bổ sung vào tổng quan nghiên cứu.
1.2.2. Thu hút FDI nội khối trong bối cảnh hội nhập khu vực
Sự tham gia của một quốc gia vào quá trình hội nhập khu vực là yếu tố giúp
nâng cao lợi thế về vị trí của quốc gia sở tại. Việc loại bỏ các rào cản nội khối với hàng
hoá, dịch vụ và vốn sẽ giảm đáng kể chi phí giao dịch và kích thích dịng vốn FDI vào
nước sở tại – cả từ bên ngoài và bên trong khu vực hội nhập (Dunning, 2004). Xác định
các yếu tố tác động đến thu hút FDI trong bối cảnh hội nhập khu vực hay


×