Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Sử dụng công cụ giá đất và định giá đất trong quản lý kinh tế đất theo cơ chế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.98 KB, 22 trang )

SỬ DỤNG CÔNG CỤ GIÁ ĐẤT VÀ ĐỊNH GIÁ ĐẤT TRONG
QUẢN LÝ KINH TẾ ĐẤT THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Bùi Ngọc Tuân
Nguyên CVCC, Bộ Tài nguyên và Môi trường

I - THỰC TRẠNG GIÁ ĐẤT, ĐỊNH GIÁ ĐẤT CỦA NHÀ NƯỚC VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA CHÚNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
Đất đai là một loại vật chất đặc biệt, xét về mặt tự nhiên và trong mối quan hệ với
đời sống, lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội của con người thì đất đai là một loại tài ngun
vơ giá khơng gì có thể thay thế được. Do đất đai vừa là tài nguyên đồng thời vừa là tài
sản nên khi nghiên cứu giá đất và định giá đất, cần có sự thống nhất trong cách đặt vấn
đề cũng như phạm vi, đối tượng nghiên cứu. Những vấn đề thuộc phạm trù phi tài sản
hay nói một cách khác, những vấn đề liên quan đến đất đai với tư cách là tài nguyên sẽ
không thuộc phạm vi, đối tượng nghiên cứu của chuyên đề này. Để làm rõ những vấn đề
về giá đất và định giá đất ở nước ta hiện nay, nội dung mục này sẽ trình bày 4 vấn đề chủ
yếu sau:
- Bản chất của giá đất do Nhà nước quy định;
- Khung pháp luật quy định về giá đất và định giá đất ở nước ta;
- Thực trạng triển khai giá đất, định giá đất từ 1//7/2014 đến nay;
- Tác động của giá đất và định giá đất đến quản lý nhà nước về đất đai.
1. Bản chất của giá đất do Nhà nước quy định
Đất đai là một loại tài sản - “hàng hoá” đặc biệt khác với các loại tài sản - “hàng
hố” thơng thường khác, sự khác nhau có tính bản chất được thể hiện ở chỗ:
- Khơng thể tính đúng, tính đủ, tính hết giá trị vốn có của đất. Về tổng quan và lâu
dài, giá đất thường bị cán cân quan hệ cung - cầu tác động với xu thế “cung” có hạn nhưng
“cầu” ln ln tăng do sức ép của sự gia tăng dân số, do bị chi phối bởi các mục đích sử
dụng và hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng đất, sự chi phối này thường là phụ thuộc vào
quy hoạch sử dụng đất của Nhà nước.
- Trong mối quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật đất đai nói riêng, giá
đất vừa giữ vai trò “cầu nối” giữa các yếu tố cấu thành của mối quan hệ, vừa thể hiện bản
chất kinh tế của mối quan hệ; chứa đựng những yếu tố xã hội, yếu tố pháp lý, đặc biệt là


trong lĩnh vực tạo ra nhu yếu phẩm để duy trì cuộc sống cho con người cũng như góp
phần tạo ra môi trường sinh thái.
Tất cả những đặc điểm của đất đai nêu trên đều có quan hệ đến “tính bản chất” của
giá đất nói chung và tất nhiên giá đất mà Nhà nước quy định hiện nay cũng không thể
79


khơng chứa đựng những yếu tố đó, có điều là tuỳ thuộc vào hồn cảnh - mơi trường xã
hội - nhận thức của người quản lý xã hội đương thời mà chính sách về giá đất có những
đặc trưng tại thời kỳ đó. Giá đất hiện nay mà Nhà nước quy định chủ yếu là nhằm:
- Điều chỉnh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và người sử dụng đất thông qua
cơ chế, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai; Nhà nước giao đất, thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất; cho phép người sử dụng đất
chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển quyền sử dụng đất.
- Giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và
nhà đầu tư thông qua cơ chế bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
để thực hiện các dự án, cơng trình trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Khung pháp luật quy định về giá đất và định giá đất ở nước ta
Tại Việt Nam, “giá đất” luôn là vấn đề nhạy cảm và được cả xã hội quan tâm. Cơ
chế xây dựng, thực hiện giá đất và định giá đất đang từng bước được thể chế hóa bởi Luật
đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 . Cụ thể:
2.1. Về giá đất
Theo quy định của Luật đất đai năm 2013 thì “Giá đất là giá trị của quyền sử dụng
đất tính trên một đơn vị diện tích đất” (khoản 19 Điều 3) và “Giá trị quyền sử dụng đất
là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời
gian sử dụng đất xác định” (khoản 20 Điều 3). Theo thẩm quyền ban hành và phạm vi áp
dụng thì giá đất được biểu hiện dưới 3 trạng thái sau:
Thứ nhất, giá đất trong khung giá đất do Chính phủ ban hành định kỳ 05 năm một
lần đối với từng loại đất, theo từng vùng. Giá đất trong khung giá đất được sử dụng làm

căn cứ để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất tại địa phương.
Thứ hai, giá đất trong bảng giá đất do UBND cấp tỉnh xây dựng căn cứ nguyên tắc,
phương pháp định giá đất, khung giá đất và được Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua
trước khi ban hành. Bảng giá đất được xây dựng định kỳ 05 năm một lần và công bố công
khai vào ngày 01/01 của năm đầu kỳ. Giá đất trong bảng giá đất chủ yếu được sử dụng
làm căn cứ để tính tiền thuế sử dụng đất, phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai.
Thứ ba, giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định. Giá đất cụ thể được sử dụng
làm căn cứ để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất như đã được quy định tại khoản 4 Điều 114 Luật đất đai.
Một trong các căn cứ để Nhà nước xây dựng, điều chỉnh giá đất trong khung giá
đất, bảng giá đất và giá đất cụ thể là giá đất phổ biến trên thị trường
2.2. Về các nguyên tắc định giá đất
Các nguyên tắc định giá đất được quy định tại Điều 112 của Luật đất đai, bao gồm:
theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá; theo thời hạn sử dụng đất;
80


phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã
chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền
sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất; cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề
nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự
như nhau thì có mức giá như nhau.
2.3. Về các phương pháp định giá đất
Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định 5 phương pháp định giá đất, cơng thức tính
tốn, điều kiện áp dụng và trình tự, thủ tục thực biện đối với từng phương pháp định giá
đất. Các phương pháp định giá đất gồm: Phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp
chiết trừ, phương pháp thặng dư, phương pháp thu nhập và phương pháp hệ số điều chỉnh
giá đất.
2.4. Về xây dựng và điều chỉnh khung giá đất, bảng giá đất và định giá đất cụ thể
2.4.1. Về xây dựng và điều chỉnh khung giá đất: Khung giá đất được xây dựng theo mức

giá tối thiểu và tối đa đối với các loại đất thuộc nhóm đất nơng nghiệp, nhóm đất phi nơng
nghiệp theo 7 vùng kinh tế và 6 loại đơ thị. Trong đó, khung giá đất nông nghiệp tại nông
thôn của mỗi vùng kinh tế được xác định theo 3 loại xã (đồng bằng, trung du, miền núi);
khung giá đất phi nông nghiệp tại đô thị được quy định theo vùng kinh tế và loại đơ thị.
Đối với đất sử dụng có thời hạn thì giá đất trong khung giá đất được tính tương ứng với
thời hạn sử dụng đất là 70 năm.
Viêc điều chỉnh khung giá đất được thực hiện khi giá đất phổ biến trên thị trường
tăng từ 20% trở lên so với mức giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với mức giá
đất tối thiểu trong khung giá đất trong khoảng thời gian từ 180 ngày trở lên.
2.4.2. Về xây dựng và điều chỉnh bảng giá đất: Bảng giá đất theo quy định gồm 11 bảng
ứng với 11 loại đất, giá mỗi loại đất được quy định trong một bảng giá. Về nguyên tắc,
giá loại đất nào trong bảng giá đất thì áp dụng khung giá đất của loại đất đó và phải phù
hợp với khung giá đất. Đối với đất sử dụng có thời hạn thì giá đất trong bảng giá đất được
tính tương ứng với thời hạn sử dụng đất là 70 năm. Đối với một số loại đất tại đơ thị có
khả năng sinh lợi cao, có lợi thế trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh,
thương mại và dịch vụ thì mức giá đất có thể cao hơn, nhưng không quá 30% so với mức
giá tối đa của cùng loại đất trong khung giá đất. Đất nông nghiệp trong khu dân cư thuộc
địa giới hành chính phường, mức giá đất có thể cao hơn nhưng khơng q 50% so với
mức giá tối đa của cùng loại đất trong khung giá đất. Để đảm bảo mức giá các loại đất
thuộc khu vực giáp ranh giữa các địa phương khơng có sự chênh lệch lớn, Nghị định số
44/2014/NĐ-CP quy định một số tiêu chí làm cơ sở để xác định khu vực đất giáp ranh.
Trong đó, đất tại khu vực giáp ranh có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu
nhập từ việc sử dụng đất tương tự nhau thì quy định mức giá như nhau; mức giá đất tại
khu vực giáp ranh có thể chênh lệch nhưng mức chênh lệch tối đa không quá 30%.
Việc điều chỉnh bảng giá đất được thực hiện khi khung giá đất điều chỉnh mà mức
giá đất điều chỉnh tăng từ 20% trở lên so với mức giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên
81


so với mức giá đất tối thiểu trong bảng giá đất của loại đất tương tự hoặc khi giá đất phổ

biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với mức giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở
lên so với mức giá đất tối thiểu trong bảng giá đất trong khoảng thời gian từ 180 ngày trở
lên (khoản 1 Điều 14 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP).
Ngoài các nội dung chủ yếu nêu trên, khung pháp luật đất đai hiện hành còn quy
định hành lang pháp lý về hoạt động tư vấn xác định giá đất.
2.4.3. Về định giá đất cụ thể
Theo quy định, việc xác định giá đất cụ thể phải căn cứ kết quả tổng hợp, phân
tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường; đồng thời phải tuân thủ các nguyên tắc
và phương pháp định giá đất quy định tại Điều 112 Luật đất đai, Điều 4 Nghị định số
44/2014/NĐ-CP.
Nội dung, trình tự, thủ tục xây dựng giá đất và hồ sơ phương án giá đất được quy
định chi tiết tại Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014.
3. Thực trạng triển khai giá đất, định giá đất từ 1//7/2014 đến nay
3.1. Về xây dựng và ban hành khung giá đất
Ngày 15/5/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 104/2014/NĐ-CP quy định
khung giá đất. Theo đó, khung giá đất Chính phủ quy định gồm 11 loại đất (Phụ lục 1A đến
phụ lục 11A). Sau gần 5 năm thực hiện, đến nay khung giá đất vẫn chưa có sự điều chỉnh
so với khi ban hành.
3.2. Về xây dựng và ban hành bảng giá đất
Bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành bao gồm 11 bảng giá ứng với 11 loại đất
chủ yếu. Ngày 01/01/2015, toàn bộ 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc TW đã ban hành và
công bố công khai bảng giá đất kỳ đầu. (Phụ lục 1B đến phụ lục 11B)
3.3. Về định giá đất cụ thể
Sau 5 năm triển khai thực hiện, việc định giá đất cụ thể được thực hiện trong các
trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất phải thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; tính giá trị quyền sử dụng đất trong cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Riêng các trường hợp Nhà nước thu hồi đất thì việc
xác định giá đất để bồi thường cho người có đất bị thu hồi trên thực tế vẫn chủ yếu dựa
vào bảng giá đất để tính tiền bồi thường.
4. Tác động của giá đất và định giá đất đến quản lý nhà nước về đất đai:

4.1. Khung pháp luật quy định về giá đất và định giá đất
4.1.1. Mặt tích cực: Tuy chưa tồn diện và cịn nhiều hạn chế nhưng khung pháp luật quy
định về giá đất và định giá đất ở nước ta bước đầu đã có những tác động tích cực trong
hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. Có thể khái quát qua một số mặt chủ yếu sau:
82


Thứ nhất, đây là lần đầu tiên pháp luật về đất đai ở nước ta quy định các nguyên
tắc, phương pháp định giá đất theo cơ chế thị trường phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước
về đất đai và bắt buộc các cuộc định giá đất trên phạm vi cả nước thống nhất thực hiện.
Thứ hai, giá đất có thể biểu hiện ở các trạng thái khác nhau để phù hợp với yêu cầu
quản lý nhà nước, nhưng chúng có những điểm chung đó là đều được xây dựng, điều
chỉnh theo các nguyên tắc, phương pháp, quy trình định giá thống nhất trên phạm vi cả
nước. Trong đó, giá đất trong khung giá là giá đất định hướng (i) phục vụ các chính sách
vĩ mơ của Nhà nước TW (ii) là căn cứ để các địa phương xây dựng, ban hành bảng giá
đất áp dụng tại địa phương mình; giá đất trong bảng giá đất chủ yếu là để làm căn cứ tính
các loại thuế, phí và lệ phí liên quan đến các quá trình sử dụng đất; giá đất cụ thể chủ yếu
là để (i) điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với người được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
(ii) điều chỉnh mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước - người sử dụng đất - nhà đầu tư khi
Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng đất để giao cho nhà đầu tư thực hiện dự án,
cơng trình trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phân biệt các trạng
thái biểu hiện của giá đất không chỉ là cần thiết trong quản lý nhà nước về đất đai mà còn
là cơ sở để xây dựng chế độ định giá đất.
Thứ ba, lần đầu tiên khung pháp luật quy định giá đất có sự phân biệt về phạm vi áp
dụng giá đất trong bảng giá đất và giá đất cụ thể. Trong đó, giá đất trong bảng giá đất chủ yếu
là để sử dụng mục đích thu thuế, phí và lệ phí của Nhà nước; giá đất cụ thể chủ yếu là để xử
lý mối quan hệ về tài chính giữa Nhà nước với người được Nhà nước giao đất, cho th đất,
cơng nhận quyền sử dụng đất, chuyển muc đích sử dụng đất và thu hồi đất.
Thứ tư, tuy còn hạn chế trong phương pháp tính tốn nhưng đây là lần đầu tiên khung

pháp luật quy định về giá đất và định giá đất đã có sự phân biệt giữa đất có thời hạn sử dụng
ổn định lâu dài với đất sử dụng có thời hạn (70 năm). Trong đó, việc xác định giá đất là để áp
dụng trong trường hợp đất có thời hạn sử dụng ổn định lâu dài, còn việc xác định đơn giá
thuê đất là để áp dụng trong các trường hợp đất sử dụng có thời hạn.
4.1.2. Những hạn chế, bất cập
Sau 5 năm triển khai thực hiện, khung pháp luật quy định giá đất và định giá đất đã
bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Có thể khái quát những hạn chế, bất cập qua 4 vấn đề chủ
yếu sau:
Thứ nhất, về các nguyên tắc và phương pháp định giá đất: đây là các chế định rất
quan trọng liên quan trực tiếp đến chất lượng các q trình định giá đất, khơng phân biệt
giá đất đó là để Nhà nước sử dụng trong quản lý nhà nước hay giá đất tư vấn phục vụ
người dân, doanh nghiệp trước khi họ thực hiện các giao dịch trong thị trường quyền sử
dụng đất nói riêng, thị trường bất động sản nói chung. Tuy nhiên, các nguyên tắc định giá
đất quy định tại khoản 1 Điều 112 Luật đất đai còn thiếu những nguyên tắc cơ bản định
hướng các quá trình định giá đất trong khi đó lại có một số nội dung chồng lấn sang nội
dung của phương pháp định giá đất.
83


Việc bổ sung “phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất” vào các phương pháp định
giá đất mà pháp luật đất đai trước 01/7/2014 đã quy định đã làm chậm quá trình nước ta
hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực định giá đất; làm phức
tạp hóa chế độ định giá đất, đưa một phần đáng kể các hoạt động định giá đất trở lại những
năm đầu thập niên 1990 của Thế Kỷ trước, khi cả nước thực hiện việc định giá đất theo
Luật đất đai 1993. Tác động tiêu cực rõ nhất là trong định giá đất để bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất, đây là một trong các nguyên nhân chủ yếu làm dấy lên khiếu nại về giá
đất bồi thường tại nhiều dự án, cơng trình có thu hồi đất trong thời gian 5 năm qua.
Thứ hai, nội dung chế độ định giá đất chưa nhất quán với mục tiêu của Nhà nước
khi sử dụng giá đất như là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ về kinh tế giữa Nhà
nước với người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất,

chuyển mục đích sử dụng đất; giữa người sử dụng nhiều đất (một loại hoặc nhiều loại đất)
với người thiếu đất sử dụng hoặc khơng có đất sử dụng; để điều hịa mối quan hệ về lợi
ích giữa Nhà nước - người sử dụng đất - nhà đầu tư khi Nhà nước thu hồi đất của người
đang sử dụng đất để giao cho nhà đầu tư thực hiện dự án, công trình. Trong đó, giá đất
trong bảng giá đất là cơng cụ chính được sử dụng để điều chỉnh hoặc điều hòa các mối
quan hệ nêu trên (là căn cứ để tính thuế sử dụng đất, tính phí và lệ phí trong quản lý, sử
dụng đất đai; là một trong 2 chỉ số để xác định giá đất cụ thể - khoản 5 Điều 4 Nghị định
số 44/2014/NĐ-CP). Nhưng xét về bản chất thì bảng giá đất do cấp tỉnh quy định cũng là
một hệ thống “khung giá đất”, nó chỉ khác ở chỗ “khung giá đất” do tỉnh quy định có biên
độ giữa mức giá đất tối đa và mức giá đất tối thiểu “hẹp hơn” so với biên độ của loại đất
cùng loại trong khung giá đất Chính phủ quy định và luôn luôn nằm trong biên độ của
khung giá đất Chính phủ quy định, kể cả khi giá đất thị trường có biến động lớn về mức
giá nhưng khung giá đất Chính phủ quy định chưa kịp được điều chỉnh.
Sự lệ thuộc mang tính hệ thống nêu trên đã hạn chế rất lớn đến “tính thị trường”
của giá đất trong bảng giá đất và giá đất cụ thể và đó cũng là một trong các nguyên nhân
chủ yếu làm cho giá đất Nhà nước quy định đã chậm phản ánh giá đất thị trường nay lại
càng chậm hơn. Chức năng điều chỉnh bằng cơng cụ giá đất vì thế bị hạn chế.
Thứ ba, theo khung pháp luật hiện hành thì cơ quan quyết định giá đất cụ thể và cơ
quan áp dụng giá đất cụ thể (thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất) là UBND cấp tỉnh; cơ
quan xác định giá đất cụ thể và cơ quan thẩm định, quyết định giá đất cụ thể về thực chất
cũng là UBND cấp tỉnh. Những quy định nêu trên khơng chỉ làm triệt tiêu dần mặt khách
quan, tính thị trường của giá đất Nhà nước quy định mà còn tạo ra sự trùng chéo, thiếu
minh bạch trong xây dựng, thẩm định và sử dụng giá đất với tư cách là công cụ điều chỉnh
các mối quan hệ kinh tế của Nhà nước.
Thứ tư, thị trường bất động sản ở nước ta đang trong quá trình phát triển, các sản
phẩm và dịch vụ cung ra thị trường ngày càng phong phú, đa dạng, đan xen hỗn hợp với
chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngày một cao. Tuy nhiên, khung pháp luật về đất đai chỉ
quy định và áp dụng cơ chế “giá đất” để tính thu tiền sử dụng đất trong các dự án đầu tư
xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp với cho thuê (trừ trường hợp dự án đầu tư hạ
84



tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng); việc
áp dụng cơ chế “đơn giá thuê đất” chỉ thực hiện đối với các dự án đầu tư xây dựng nhà ở
để cho thuê và các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh khác. Cơ chế áp dụng “giá đất” và
“đơn giá thuê đất” trong thị trường sơ cấp nêu trên, chưa thật sự phù hợp với sự đa dạng,
đan xen hỗn hợp của thị trường bất động sản hiện nay, thậm chí còn tạo khe hở để bị lợi
dụng trục lợi, lừa gạt, vừa làm thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước, vừa gây thiệt
hại đối với người dân và nhà đầu tư khác. Mặt khác, việc quy định mục đích sử dụng đất
chính là mục đích sử dụng của loại đất theo hiện trạng có mức giá cao nhất trong bảng
giá đất trong trường hợp không xác định được ranh giới sử dụng giữa các mục đích sử
dụng đất chính (khoản 3 Điều 3 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP) chủ yếu để tạo điều kiện
cho người quản lý nhưng lại không tạo điều kiện cho người sử dụng đất ít nhất xét về góc
độ cơng bằng về mặt lợi ích.
Thứ năm, các phương pháp định giá đất được quy định trong Nghị định số
44/2014/NĐ-CP là các phương pháp định giá đất theo cơ chế thị trường và được áp dụng
trong nền kinh tế thị trường, trong đó đối tượng giao dịch trên thị trường là quyền sở hữu
đất đai (không phải quyền sử dụng đất). Do vậy, khi vận dụng trong điều kiện cụ thể ở
nước ta không thể không tránh khỏi những bất cập, hạn chế:
- Quyền sở hữu đất đai là vĩnh viễn, còn quyền sử dụng đất (trừ đất ở và đất có đầu
tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa) về cơ bản là có thời hạn. Vì vậy, khác với giá đất trong
mua bán quyền sở hữu đất đai, giá quyền sử dụng đất trong nhiều trường hợp (giao đất
thu tiền sử dụng đất đối với đất sử dụng có thời hạn trước 01/7/2014, đất thuê trả tiền thuê
đất một lần cho cả thời gian thuê) là giá mua quyền sử dụng đất có thời hạn. Cho đến nay
trên thế giới chưa có cơng thức định giá cho mơ hình mua bán này mà chỉ có thể “vận
dụng” công thức định giá đất trong thị trường đất đai để thực hiện việc định giá quyền sử
dụng đất trong thị trường quyền sử dụng đất.
- Cơ chế tài chính về đất đai nói chung và cơ chế giá đất và định giá đất nói riêng
được quy định trong khung pháp luật về đất đai hiện hành đang dần bộc lộ một số hạn
chế trong bối cảnh thị trường bất động sản ở nước ta hiện nay đang vận động theo đà phát

triển nhanh, năng động và đa dạng. Biểu hiện rõ nhất là cơ sở dữ liệu về giá đất thị trường
không được cập nhật thường xuyên, quy trình định giá đất áp dụng đối với từng phương
pháp định giá đất còn rất khái quát, chưa đáp ứng yêu cầu định giá đất đối với từng loại
thị trường bất động sản, đặc biệt là đối với thị trường bất động sản nhà ở đất ở.
4.2. Về thực hiện khung pháp luật quy định giá đất và định giá đất
4.2.1. Mặt tích cực
Thứ nhất, chỉ sau một thời gian ngắn (từ 01/7/2014 đến 01/01/2015) Chính phủ,
UBND cấp tỉnh đã điều tra, xây dựng và ban hành mới khung giá đất, bảng giá đất theo
đúng quy định của pháp luật. Sự ban hành kịp thời khung giá đất, bảng giá đất và việc
xác định giá đất cụ thể phù hợp hơn với giá đất phổ biến trên thị trường so với trước
85


01/01/2015 đã thúc đẩy việc thực hiện cơ chế tài chính đất đai trong giao đất, cho thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất, tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, việc điều chỉnh kỳ ban hành bảng giá đất từ hàng năm lên 5 năm đã giúp
cho công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thuận lợi hơn, tình trạng người
dân chờ giá đất năm sau cao hơn năm trước để hưởng mức giá bồi thường cao hơn mà cố
ý kéo dài thời gian thu hồi đất đã giảm hơn trước.
Thứ ba, việc quy định giá đất khu vực đất giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trong xây dựng bảng giá đất (Điều 13 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP)
đã giúp cho việc xác định giá đất bồi thường tại khu vực giáp ranh đối với các dự án, cơng
trình theo tuyến phải qua nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khắc phục được
tình trạng chênh lệch cao về mức giá đất giữa các địa phương giáp ranh. Do đó, việc người
dân so bì mức giá đất bồi thường tại các khu vực giáp ranh vì thế cũng giảm.
4.2.2. Mặt hạn chế
Thứ nhất, các thông tin về giá đất đầu vào làm cơ sở để xây dựng, điều chỉnh khung
giá đất, bảng giá đất và giá đất cụ thể trên thực tế không phải là các thông tin thực từ các
giao dịch đã thực hiện thành công trên thị trường mà đó là các thơng tin do bên chuyển
nhượng và bên nhận chuyển nhượng thống nhất “kê khai” trong hợp đồng giao dịch với

nhiều lý do, trong đó lý do chủ yếu nhằm mục đích để giảm các mức “thuế, phí và lệ phí”
phải nộp cho Nhà nước theo quy định của pháp luật. Một điều rất trớ trêu là ai cũng biết
giá đất “kê khai” nói trên là khơng đúng nhưng lại được chính phịng cơng chứng hoặc
UBND cấp xã và cơ quan thuế xác nhận và thừa nhận bằng các thủ tục pháp lý theo quy
định (có dấu và chữ ký của người có trách nhiệm hoặc người có thẩm quyền). Trong khi
đó, những thơng tin về giá đất thực của các giao dịch thực nhưng vì khơng được các cơ
quan có trách nhiệm hoặc cơ quan có thẩm quyền cơng chứng, chứng nhận và xác nhận
thì đều bị coi là thông tin không hợp pháp hoặc được gắn một cái tên mang tính nghiệp
vụ: “giá đất phi thị trường”. Hệ quả là, giá đất trong khung giá đất, bảng giá đất và giá
đất cụ thể được xây dựng, điều chỉnh không phải là giá đất thực, giá đất thị trường (!).
Thứ hai, theo nguyên tắc phân cơng, phân cấp trong quản lý nhà nước nói chung và
trong quản lý nhà nước về đất đai nói riêng thì “một việc chỉ giao cho một cơ quan nhà
nước tổ chức thực hiện” và “cơ quan tổ chức thực hiện và cơ quan kiểm tra cơ quan tổ
chức thực hiện phải là hai cơ quan khác nhau”. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai công
tác định giá đất, việc phân công, phân cấp giữa cơ quan tài nguyên môi trường và cơ quan
tài chính có lúc và tại nhiều nơi lại thiếu nhất qn, thậm chí có việc, sự phân cơng, phân
cấp trở nên phức tạp và khó hiểu, như trong việc xác định giá đất cụ thể là một ví dụ điển
hình: Bằng việc chia nhỏ phạm vi áp dụng giá đất cụ thể và thông qua việc áp dụng các
phương pháp định giá đất, hoạt động định giá đất cụ thể bị chia nhỏ thành nhiều phân
khúc, vai trị chủ trì, phối hợp giữa hai cơ quan tài ngun mơi trường và tài chính đối
với nhiều phân khúc bị hốn đổi vị trí cho nhau mà lý do của sự hốn đổi đó là điểm giới
hạn về giá trị của thửa đất, khu đất thực hiện dự án như quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị
định số 45/2014/NĐ-CP (đã được bổ sung, sửa đổi theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị
86


định số 135/2016/NĐ-CP và khoản 5 Điều 2 Nghị định số 123/2017/NĐ-CP). Hệ quả là,
trong nhiều trường hợp cơ quan không quản lý cơ sở dữ liệu đất đai phục vụ việc định giá
đất cụ thể là cơ quan chủ trì, cịn cơ quan quản lý cơ sở dự liệu phục vụ việc định giá đất
lại là cơ quan phối hợp.

Thứ ba, việc cập nhật giá đất thị trường vào hệ thống cơ sở dữ liệu giá đất từ địa
phương đến trung ương chưa có một cơ quan chuyên trách nào của Nhà nước được giao
trách nhiệm thực hiện, do đó cơ sở dữ liệu về giá đất trên thị trường được thiết lập khi
xây dựng khung giá đất, bảng giá đất không được bổ sung, hiệu chỉnh. Giá đất tại một số
địa phương mặc dù đã có sự biến động lớn, tăng vượt quá 20% giá tối đa, nhưng để điều
chỉnh khung giá đất, bảng giá đất thì cơ quan có trách nhiệm xây dựng phương án điều
chỉnh khung giá đất, bảng giá đất lại thiếu căn cứ thực tiễn để thực hiện.
II - GIÁ ĐẤT VÀ ĐỊNH GIÁ ĐẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀO QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
Để làm rõ những vấn đề về giá đất và định giá đất trong nền kinh tế thị trường, nội
dung mục này sẽ trình bày 3 vấn đề chủ yếu sau: Giá đất và định giá đất trong nền kinh
tế thị trường; các nguyên tắc và phương pháp định giá đất trong nền kinh tế thị trường;
các hình thức Nhà nước định giá đất.
1. Giá đất và định giá đất trong nền kinh tế thị trường
1.1. Giá đất trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, giá đất được hiểu đó là sự biểu hiện về mặt giá trị của
quyền sở hữu đối với đất đai. Xét trên phương diện tổng quát, giá đất là giá bán quyền sở
hữu đất; là mệnh giá của quyền sở hữu đối với một diện tích đất xác định, trong khơng
gian, thời gian xác định và trong điều kiện thị trường mở và cạnh tranh.
1.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất trong nền kinh tế thị trường:
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất trong nền kinh tế thị trường (sau đây gọi tắt là giá
đất thị trường) được chia theo 3 nhóm sau:
Nhóm thứ nhất, gồm các yếu tố về tự nhiên, kinh tế, pháp lý gắn với thửa đất ;
Nhóm thứ hai, gồm các yếu tố liên quan đến thị trường như cung, cầu về đất trên thị
trường, và tác động của quan hệ cung - cầu đất đai trên thị trường;
Nhóm thứ ba, gồm các yếu tố liên quan đến chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.2. Định giá đất trong nền kinh tế thị trường:
Khái niệm được giới học giả, các nhà kinh tế, các nhà định giá trên thế giới thường
dùng khi bàn về định giá bất động sản: Định giá bất động sản là một nghệ thuật hay khoa
học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một bất động sản cụ thể tại một thời

điểm xác định, có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm của tài sản cũng như xem xét tất cả
các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường, bao gồm các loại đầu tư lựa chọn.(19)

19

GS. Lim Lan Yuan- Khoa xây dựng và bất động sản, Đại học quốc gia Singapore

87


1.2.1. Nội dung định giá bất động sản trong nền kinh tế thị trường
a) Quy định chế độ định giá: Tại hầu hết nước trên thế gới, việc định giá bất động sản
được pháp luật quy định thành một hệ thống đồng bộ, thống nhất và được gọi là chế độ định
giá bất động sản. Chế độ định giá bất động sản thường đề cập 4 nội dung chủ yếu sau:
- Quy định các loại bất động sản thuộc đối tượng định giá, phạm vi cần định giá và
hình thức định giá;
- Quy định thời điểm định giá, ngày định giá, hồ sơ định giá bất động sản đối với
hình thức định giá hàng loạt;
- Quy định các nguyên tắc, phương pháp định giá bất động sản;
- Quy định trình tự, thủ tục định giá bất động sản: gồm các công đoạn, công việc
phải tiến hành cho mỗi cuộc định giá mà bất cứ định giá viên nào cũng đều phải thực hiện
trước khi có kết quả định giá (chứng thư định giá).
2. Nguyên tắc, phương pháp định giá bất động sản trong nền kinh tế thị trường
2.1. Các nguyên tắc định giá bất động sản trong nền kinh tế thị trường
a) Nguyên tắc sử dụng cao nhất và tốt nhất: Nội dung của nguyên tắc sử dụng
cao nhất và tốt nhất có thể khái qt qua 4 điểm chính sau:
- Về mặt vật chất, một bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt nhất
khi nó thoả mãn được nhiều sự lựa chọn sử dụng nhất.
- Về mặt pháp luật, một bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt
nhất khi mà việc sử dụng bất động sản đó phải hợp pháp, được Nhà nước thừa nhận và

bảo hộ.
- Về mặt sử dụng, một bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt nhất
khi mà bất động sản đó cho thu nhập rịng cao nhất hoặc cho giá trị hiện tại của các thu
nhập ròng trong tương lai là cao nhất.
- Về mặt thời gian, một bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt nhất
khi mà thời gian cho thu nhập ròng cao nhất và kéo dài nhất.
2.1.2. Nguyên tắc cung - cầu
- Các yếu tố xác định cầu bất động sản trên thị trường, gồm: Giá cả của bất động
sản, thu nhập của người tiêu dùng, giá của các mặt hàng có liên quan, những dự kiến của
khách hàng và sở thích, ưu tiên của người tiêu dùng
- Các yếu tố xác định cung bất động sản trên thị trường, gồm: Qui hoạch sử dụng
đất của Nhà nước; sự thay đổi giá cả bất động sản trên thị trường; khả năng vốn tự có của
nhà đầu tư và các chi phí về đất, lao động, quản lý; khả năng ứng dụng công nghệ mới
vào sản xuất.

88


2.1.3. Nguyên tắc cân đối: Trong định giá bất động sản, nội dung của nguyên tắc
cân đối mang ý nghĩa kép: Khi áp dụng định giá đối với một bất động sản riêng biệt,
nguyên tắc cân đối cho rằng, giá trị tối đa đối với một bất động sản riêng biệt đạt được
khi các yếu tố tạo ra bất động sản đó đạt tới trạng thái cân đối. Khi áp dụng vào một vùng
hay một khu vực có nhiều bất động sản, nguyên tắc cân đối chỉ ra rằng, giá tối đa của các
bất động sản chủ thể trong một vùng hoặc trong một khu vực có thể đạt được, khi việc sử
dụng quĩ đất trong vùng hoặc khu vực đó vào các mục đích đạt tới mức hợp lý nhất.
2.1.4. Nguyên tắc phù hợp: Nội dung của nguyên tắc phù hợp chỉ ra rằng, việc định
giá một bất động sản phải trên cơ sở một giá trị sử dụng duy nhất đối với tồn bộ bất động
sản đó. Trong thực tế một bất động sản có thể được sử dụng vào nhiều mục đích. Sẽ là
khơng đúng nếu định giá một tài sản dựa trên cơ sở của một giá trị sử dụng này đối với
đất đai và giá trị sử dụng khác đối với những tài sản khác gắn liền với đất. Sự nhất quán

thể hiện giữa mục đích sử dụng các cơng trình gắn liền đất với mục đích sử dụng đất,
trong đó, mục đích sử dụng đất là căn cứ mang tính pháp lý và giữ vai trị quyết định chi
phối mục đích sử dụng của tồn bất động sản. Vì vậy, khi định giá một bất động sản phải
căn cứ vào mục đích sử dụng chính của bất động sản để định giá, khơng được lẫn lộn với
các sử dụng khác và càng không được lẫn lộn với mục đích sử dụng tiềm năng.
2.1.5. Nguyên tắc cạnh tranh: Nội dung của nguyên tắc cạnh tranh cho rằng khi số
lượng một loại bất động sản cụ thể nào đó đủ lớn được rao bán trên thị trường, thì cạnh
tranh xuất hiện. Cạnh tranh sẽ làm giảm hoặc tăng giá mặt hàng cùng loại. Ngày nay, tính
chất và qui mô cạnh tranh diễn ra ngày càng sâu sắc, trên nhiều phương diện: Cạnh tranh
về vị trí, cạnh tranh về tính phù hợp thị hiếu; cạnh tranh trong nội bộ cung, cầu; giữa cung
và cầu; cạnh tranh nội bộ vùng, giữa các vùng trong khu vực và giữa các khu vực trong
cả nước. Vì vậy, trong định giá bất động sản, nguyên tắc cạnh tranh luôn được vận dụng
trong mọi lúc, mọi nơi và đối với tất cả các loại bất động sản. Nếu xa rời nguyên tắc này,
các kết quả định giá sẽ không phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh của thị trường bất
động sản và do đó tính thị trường của giá đất định giá sẽ thiếu tính khách quan và khơng
thuyết phục.
2.1.6. Ngun tắc tăng hoặc giảm phần sinh lợi: Nội dung của nguyên tắc này cho
rằng khi sự gia tăng liên tục của một yếu tố (X) trong sản xuất diễn ra bên cạnh các nhân
tố khác được cố định, thì thu nhập thực (thu nhập ròng) sẽ tăng lên tới một giới hạn nhất
định; sau giới hạn đó, sự gia tăng liên tục của yếu tố (X) sẽ làm giảm giá trị thu nhập thực
trong tương lai.
2.1.7. Nguyên tắc tăng hoặc giảm giá trị bất động sản do tác động bởi các bất
động sản khác: Nguyên tắc tăng hoặc giảm giá trị bất động sản do tác động bởi những
bất động sản khác có ý nghĩa kép:
- Nội dung của nguyên tắc tăng cho rằng, giá trị thị trường của một bất động sản
chủ thể có chiều hướng cao hơn giá trị thực của chính nó nhờ sự hội nhập với những bất
động sản khác trong vùng có cùng kiểu loại sử dụng nhưng có giá trị thực cao hơn nhiều
lần giá trị thực của bất động sản chủ thể.
89



- Nội dung của nguyên tắc giảm cho rằng, giá trị thị trường của một bất động sản
chủ thể có chiều hướng thấp hơn giá trị thực của chính nó do sự hội nhập với những bất
động sản khác trong vùng có cùng kiểu loại sử dụng nhưng có giá trị thực thấp hơn nhiều
lần giá trị thực của bất động sản chủ thể.
2.1.8. Nguyên tắc thay thế: Nội dung của nguyên tắc thay thế chỉ ra rằng, trên thị
trường bất động sản tại một khu vực xác định, nếu có sự xuất hiện cùng lúc nhiều bất
động sản có cùng kiểu loại, tương tự về vị trí thì giá thị trường của một bất động sản trong
số đó sẽ bị chi phối bởi giá thị trường của các bất động sản khác có cùng kiểu loại, tương
tự về vị trí trong khu vực đó với giả thiết khơng có sự chậm trễ trong việc thoả thuận giá
cả và thanh toán.
2.2. Các phương pháp định giá bất động sản trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, việc định giá bất động sản được thực hiện bởi các
phương pháp định giá chủ yếu, gồm: Phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp chi
phí, phương pháp thu nhập.
Trong số các phương pháp kể trên, có phương pháp được áp dụng phổ biến để định
giá cho nhiều loại bất động sản, nhưng cũng có phương pháp chỉ sử dụng trong phạm vi
hẹp để định giá một vài loại bất động sản đặc thù (sân bay, bến cảng, chùa, nhà thờ,…).
Mặt khác, trong hoạt động định giá, không phải mỗi phương pháp định giá chỉ sử dụng
riêng để xác định giá cho một hay một số loại bất động sản nhất định và ngược lại, không
phải một loại bất động sản chỉ có một phương pháp định giá duy nhất. Một phương pháp
được đánh giá là phù hợp khi các điều kiện để thực hiện phương pháp đó được đáp ứng
dễ dàng, đầy đủ, chính xác và kịp thời. Vì vậy, trong thực tế, để định giá một bất động
sản, cần có bước lựa chọn phương pháp định giá phù hợp. Trong mục này sẽ tập trung
giới thiệu các phương pháp định giá chủ yếu đang được sử dụng phổ biến trên thế giới
trong hoạt động định giá bất động sản nói chung và định giá đất nói riêng.
2.2.1.Phương pháp so sánh trực tiếp
Nội dung, cơng thức tính giá đất, đối tượng, phạm vi áp dụng và điều kiện áp dụng
phương pháp và những hạn chế của phương pháp về cơ bản đã được quy định trong Nghị
định số 44/2014/NĐ-CP.

2.2.2. Phương pháp chi phí
Là phương pháp dựa trên cơ sở lý thuyết cho rằng giá trị thị trường của một thửa
đất đã được đầu tư có thể ước tính bằng tổng giá trị đất và giá trị các tài sản gắn liền với
đất đã được khấu hao. Giá trị khấu hao nói ở đây chính là sự tổn thất về giá trị của các tài
sản được đầu tư, tôn tạo do tác động của tự nhiên hoặc do lạc hậu về chức năng sử dụng
hay những thay đổi khác về kinh tế, xã hội, môi trường trong vùng làm cho giá trị tài sản
bị giảm giá. Phương pháp chi phí được xem là phương pháp tổng hợp bởi 2 phương pháp:
Phương pháp so sánh trực tiếp được áp dụng để định giá đất và phương pháp chi phí được
áp dụng để xác định giá đối với các cơng trình gắn liền với đất. Khi sử dụng phương pháp
90


so sánh trực tiếp để định giá đất, thửa đất được coi là đất trống (đất chưa có cơng trình
kiến trúc hoặc cây lâu năm trên đó, để đơn giản trong trình bầy, sau đây chúng ta chỉ đề
cập đến loại cơng trình kiến trúc). Việc định giá sẽ trở nên đơn giản hơn bởi vì trên thực
tế có rất nhiều thửa đất tương tự đã được chuyển nhượng.
Khi sử dụng phương pháp chi phí để xác định giá đối với cơng trình gắn liền với
đất (nhà ở), khơng phải cơng trình nào cũng mới xây dựng và đưa vào sử dụng, mà phần
lớn chúng đã cũ. Vì vậy, người ta phải tìm những cơng trình xây mới, vừa đưa vào sử
dụng, có các đặc điểm tương tự như cơng trình chủ thể để thay thế cơng trình chủ thể. Chi
phí để xây mới tài sản thay thế được gọi là chi phí thay thế. Việc xác định giá tài sản chủ
thể sẽ trở nên đơn giản hơn bằng cách, căn cứ chi phí xây mới tài sản (cơng trình) so sánh
và thời gian tài sản (cơng trình) chủ thể đã từng tồn tại để xác định giá trị khấu hao (tức
phần giá trị đã tổn thất do nhiều nguyên nhân). Giá trị tài sản (cơng trình) chủ thể là hiệu
của chi phí thay thế với giá trị khấu hao; giá trị của bất động sản (đất và cơng trình) chính
là tổng giá trị đất và chi phí thay thế đã được khấu hao.
Phương pháp chi phí dựa theo “Nguyên tắc thay thế”: Khơng có bất động sản chủ
thể nào mà giá trị của nó lớn hơn chi phí thay thế của một bất động sản tương tự (bất động
sản so sánh) có cùng tính hữu dụng và vị trí thuận lợi như nhau và có thể mua bán được
ngay mà không cần phải chờ đợi. Nếu bất động sản thay thế ở thời điểm hiện tại là mới,

thì chi phí để tạo ra nó sẽ gần giống như giá thành xây dựng mới (vì có thể phải trừ một
khoản tiền cho việc sử dụng vốn trong thời gian cần thiết xây dựng cơng trình). Nếu bất
động sản thay thế ở thời điểm hiện tại là cũ thì khi khấu hao phần giá trị bị giảm sẽ phải
xác định phạm vi và mức độ khấu hao, trong trường hợp đó, bất động sản cũ cần được
xem nó khơng phải là một sự thay thế hoàn hảo cho bất động sản mới.
Từ những vấn đề nêu trên, người ta đưa ra cơng thức để tính giá thành bất động sản
như sau:
b) Cơng thức tính giá thành bất động sản:
- Cơng thức tính giá thành đơn giản:
Gbđs = Gđ + Pctr

(1)

- Cơng thức tính giá thành phức tạp: Áp dụng để định giá bất động sản có tài sản
gắn liền có thể thay thế được:

P1 = P - Gkh
Gđ = Gbđs - P1

(2)

- Áp dụng để định giá bất động sản có tài sản gắn liền phải tái tạo:
P’1 = P’ - G (kh)
GĐ = GBĐS’ - P’1
91

(3)


Trong đó: Gbđs là giá trị bất động sản; Gđ là giá trị đất; Pctr là tổng chi phí xây

dựng cơng trình; P là chi phí thay thế; P’ là chi phí tái tạo; P1 là chi phí thay thế đã khấu
hao; P’1 là chi phí tái tạo đã khấu hao; G (kh) là giá trị khấu hao cơng trình; Gbđs là giá
thị trường của bất động sản (1) hoặc bất động sản được thay thế (2); Gbđs’là giá thị trường
của bất động sản được tái tạo (3).
c) Đối tượng, phạm vi và yêu cầu của phương pháp :
- Đối tượng áp dụng phương pháp chi phí: được áp dụng để định giá cho tất cả các
loại bất động sản. Tuy nhiên, phương pháp này thường được áp dụng để định giá những
bất động sản đặc biệt, ít được giao dịch trên thị trường như các công sở, bệnh viện, trường
học, nhà thờ, chùa, thánh thất vv... nhằm xác định giá trị đền bù thiệt hại cơng trình do
phải dỡ bỏ chuyển đến nơi khác trong trường hợp Nhà nước trưng dụng đất hoặc thu hồi
đất để sử dụng vào các mục đích cơng cộng khác. Ngồi ra, phương pháp này còn được
sử dụng để xác định giá trị bất động sản phục vụ các mục đích bảo hiểm, thế chấp và để
kiểm tra các phương pháp định giá khác.
- Phạm vi áp dụng phương pháp chi phí: chỉ áp dụng trong các trường hợp xác định
được đầy đủ và tương đối chính xác chi phí thay thế hoặc chi phí tái tạo.
- Yêu cầu khi áp dụng phương pháp chi phí: Để đảm bảo việc tính tốn chi phí chính
xác cơng trình xây dựng, các khoản chi phí thay thế hoặc tái tạo ra cơng trình thay thế
hoặc cơng tình tái tạo phải được tính đủ, tính đúng.
d) Những hạn chế của phương pháp :
Phương pháp chi phí là sự kết hợp giữa phương pháp so sánh trực tiếp với phương
pháp giá thành. Vì vậy, những hạn chế của phương pháp chi phí cũng là những hạn chế
của phương pháp so sánh trực tiếp. Ngoài ra, để xác định giá trị cịn lại của cơng trình gắn
liền với đất đòi hỏi người định giá phải rất am hiểu kỹ thuật xây dựng, kinh tế xây dựng
cũng như về thị trường đầu tư xây dựng cơ bản.
2.2.3. Phương pháp thu nhập
Phương pháp thu nhập là phương pháp ước tính giá thị trường của một bất động
sản, dựa trên các thu nhập mà bất động sản đó sẽ đem lại hoặc có khả năng sẽ đem lại
trong tương lai. Giá trị bất động sản được ước tính bằng việc vốn hố giá trị các thu nhập
ước tính trong tương lai về mặt bằng giá trị thời điểm hiện tại.
a) Công thức tính giá bất động sản

Để tìm kiếm giá trị hiện tại của các nguồn thu nhập trong tương lai, lý thuyết định
giá sử dụng 2 phương pháp để tính giá bất động sản đó là phương pháp vốn hố sinh lợi
và phương pháp vốn hoá trực tiếp.
- Phương pháp vốn hoá sinh lợi: Phương pháp vốn hoá sinh lợi sử dụng cơng thức
tổng qt dịng tiền chiết khấu (def) phát sinh không đều giữa các năm hoặc giữa các giai
đoạn của cả quá trình kinh doanh như sau:
92


K0 

K3
Kn
K1
K2


 .... 
2
3
1  r (1  r )
(1  r )
(1  r ) n

(4)

Từ công thức (4) người ta đưa ra cơng thức tính giá trị hiện tại của những lợi nhuận
ròng thu được tại năm (n) của tương lai:
1


K 0  Kn

1  r 

(5)

n

Trong đó: K0 là giá trị hiện tại; Kn là giá trị dòng tiền hoặc thu nhập đến năm hoặc
giai đoạn thứ (n); (r) là lãi suất bình quân năm; (n) là số năm hoặc số các giai đoạn phát
sinh dòng tiền hoặc thu nhập.
Trong công thức (5): hệ số 1/(1+ r)ⁿ gọi là hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản
tiền từ giá trị ở mặt bằng thời gian tương lai về mặt bằng thời gian hiện tại. Để áp dụng
cơng thức (5), cần có một ước tính thu nhập cho từng năm hoặc từng giai đoạn. Đáp lại,
điều này địi hỏi phải ước tính cung và cầu đối với bất động sản trong từng năm hoặc từng
giai đoạn tương ứng và thu nhập của giai đoạn cuối cùng được tính gộp với giá bán bất
động sản. Giá bán bất động sản có thể hoặc là nhiều hơn hoặc ít hơn giá trị hiện tại.
Trường hợp dự tính bất động sản sẽ được lưu giữ trong toàn bộ tuổi đời kinh kế cịn lại
của nó (bất động sản mới đưa vào hoạt động) thì giá trị cịn lại của bất động sản sẽ cao
hơn giá trị hiện tại; trường hợp tuổi đời kinh tế bất động sản đã hết, thì giá trị cịn lại của
bất động sản có thể là giá trị âm nếu như dự kiến cần có chi phí cho việc phải rỡ bỏ các
cơng trình gắn liền với đất.
- Phương pháp vốn hoá trực tiếp: Là phương pháp ước tính giá trị bất động sản trên cơ
sở biết thu nhập năm đầu tiên từ bất động sản hoặc từ một giá trị vốn đầu tư ban đầu. Phương
pháp vốn hố trực tiếp có cơng thức tính đơn giản hơn so với phương pháp vốn hố sinh lợi.
Cơng thức tổng quát áp dụng trong phương pháp vốn hoá trực tiếp như sau:

Kn  K 0

1


 r

n

(6)

Trong đó: K0 là vốn đầu tư ban đầu; Kn là vốn đầu tư ban đầu và lợi nhuận từ vốn
được tính ở năm cuối hoặc giai đoạn cuối; (r) là lãi suất bình quân năm; (n) là số năm dự
kiến thuê hoặc kinh doanh.
Công thức (6) sử dụng dữ liệu thu nhập năm đầu tiên (giá trị hiện tại) dưới hình
thức là lợi tức ngân hàng (trường hợp vốn được gửi vào ngân hàng) hoặc dưới hình thức
thu nhập rịng (trường hợp vốn được sử dụng vào kinh doanh bất động sản). Để dự tính
tổng giá trị lợi nhuận rịng ở từng năm, từng giai đoạn trong tương lai, người ta phải dựa
vào tỷ lệ lãi suất ngân hàng (r) đang được áp dụng hoặc tỷ lệ lãi suất (r) rút ra từ hoạt
động kinh doanh những bất động sản tương tự. Điểm lưu ý là lãi suất được sử dụng để dự
kiến tổng giá trị lợi nhuận ròng trong từng năm, từng giai đoạn trong tương lai được tính
theo tỷ lệ lãi kép. Trong công thức (6) hệ số (1+r)ⁿ là hệ số lãi kép tính đến năm thứ (n).
93


Khi áp dụng phương pháp thu nhập trong định giá bất động sản, người ta ước tính
một tỉ lệ vốn hố thơng qua việc thu thập thơng tin từ thị trường về tỉ lệ lãi mà những chủ
đầu tư đang thu được từ những đầu tư có rủi ro tương tự.
c) Đối tượng, phạm vi áp dụng và yêu cầu của phương pháp:
- Đối tượng áp dụng: Phương pháp thu nhập là phương pháp thích hợp nhất cho
các loại bất động sản được mua bán thường xuyên trên thị trường hoặc được lưu giữ phục
vụ cho mục đích tạo ra lợi nhuận (thu nhập). Phương pháp này rất khó áp dụng cho những
bất động sản cơng nghiệp có qui mơ lớn ít khi rao bán hoặc cho thuê.
- Phạm vi áp dụng:Phương pháp thu nhập được áp dụng chủ yếu đối với các bất

động sản thương mại, dịch vụ, công nghiệp quy mô nhỏ, nông nghiệp, nhà ở đất ở là hàng
hố hoặc những bất động sản có khả năng sẽ cho thu nhập như đất trống. Phương pháp
thu nhập không sử dụng để xác định giá những bất động sản không cho thu nhập.
d) Những hạn chế của phương pháp:
Phương pháp thu nhập địi hỏi phải xác định chính xác tổng thu nhập từ bất động
sản trong từng năm và phải dự đốn thu nhập trong tồn bộ thời gian kinh tế còn lại của
bất động sản. Đây là một cơng việc rất khó khăn. Vì vậy, phương pháp này thường ít được
sử dụng trong định giá hàng loạt, mà thường được sử dụng để định giá những bất động
sản cá biệt.
3. Các hình thức Nhà nước định giá bất động sản trong nền kinh tế thị trường
3.1. Định giá hàng loạt
Định giá hàng loạt là mơ hình định giá hệ thống nhiều bất động sản của một hoặc
một số hoặc tồn bộ các loại bất động sản có trong một vùng, một địa phương hoặc trên
phạm vi cả nước tại một thời điểm nhất định bằng các thủ tục được tiêu chuẩn hoá và
bằng việc kiểm tra thống kê nhằm phục vụ việc thu thuế, phí và lệ phí và các mục đích
khác của Nhà nước đối với bất động sản nói chung và đối với đất đai nói riêng.
- Kết quả định giá hàng loạt sau một số năm nhất định thường được định giá lại.
Khoảng thời gian giữa 2 lần định giá gọi là kỳ định giá. Thông thường kỳ định giá hàng
loạt là do pháp luật của mỗi nước quy định dựa trên chế độ thu thuế của Nhà nước. Kỳ
định giá có thể là 01 năm (Úc, Singapore), 03 năm (Nhật Bản) hoặc 06 năm (Thụy Điển).
3.2. Các thành tố của hệ thống định giá hàng loạt
Một hệ thống định giá hàng loạt bằng máy tính hay thủ cơng đều có 4 tiểu hệ
thống: Hệ thống quản lý dữ liệu, hệ thống phân tích giá bán, hệ thống định giá, hệ
thống quản trị.
3.3. Chức năng của định giá hàng loạt
Hệ thống định giá hàng loạt có 3 chức năng chính: Định giá lại (hay định giá để
điều chỉnh), duy trì dữ liệu và cập nhật giá trị.
94



a) Định giá lại: gồm các hoạt động theo thứ tự cần thực hiện sau: Phân tích việc
thực hiện, quyết định định giá lại, phân tích các nguồn lực, lập kế hoạch và tổ chức
thực hiện.
b) Duy trì dữ liệu: Duy trì dữ liệu là quá trình thu thập và đánh giá các cơng trình
xây dựng mới và những thay đổi của bất động sản ban đầu. Chương trình duy trì dữ liệu
hiệu quả có hai thành tố: thứ nhất gồm giấy phép xây dựng và sơ đồ chia thửa hoặc gộp
thửa đất. thứ hai là kiểm tra định kỳ tất cả bất động sản có trong khu vực định giá.
c) Cập nhật giá trị định giá: là việc làm mà hàng năm trong khoảng thời gian giữa
2 kỳ định giá, các giá trị định giá bất động sản trong cơ sở dữ liệu của định giá hàng loạt
cần được điều chỉnh cho phù hợp với giá thị trường thông qua quy trình định giá lại.
3.4. Vùng giá trị trong định giá hàng loạt
Trong định giá hàng loạt, người ta phân chia khu vực định giá thành các vùng giá
trị để tiến hành các hoạt động chun mơn nhằm tìm kiếm, thiết lập một mức giá đất tiệm
cận với giá đất thị trường, làm cơ sở xây dựng giá đất cho các thửa đất còn lại trong vùng.
Mức giá đất này thường là mức giá trung bình và người ta gọi đó là giá chuẩn của vùng
giá trị. Đường ranh vùng giá trị được xác lập theo các tiêu chuẩn của định giá, nó có thể
trùng hoặc khơng trùng với đường ranh giới hành chính.
3.5. Nguyên tắc định giá hàng loạt: Định giá hàng loạt được thực hiện theo các ngun
tắc sau:
a) Các quyết định trong q trình phân tích, đánh giá đều phải dựa trên cơ sở dữ
liệu giá thị trường.
b) Dữ liệu thị trường bất động sản (gồm dữ liệu đầu vào và đầu ra) phải phản ánh
được trạng thái cung, cầu về bất động sản trên diện rộng.
c) Dữ liệu về bất động sản đã chuyển nhượng trên thị trường phải được phân bố
đều, đủ lớn và phải bảo đảm rằng đó khơng phải là giá phi thị trường.
3.6. Yêu cầu trong định giá hàng loạt
Do kết quả định giá hàng loạt phải thoả mãn mọi đối tượng nộp thuế về sự công
bằng của kết quả định giá và thoả mãn các cơ quan thuế về sự hợp pháp của kết quả định
giá, cho nên trong định giá hàng loạt địi hỏi phải có kỹ năng cả về định giá hàng loạt và
định giá cá biệt: Kỹ năng định giá hàng loạt nhằm tạo ra giá trị ban đầu để tái định giá

cho các kỳ định giá sau; kỹ năng định giá cá biệt là để bảo vệ giá trị của định giá hàng
loạt và để định giá những bất động sản với mục đích đặc biệt mà không thể sử dụng kỹ
thuật định giá hàng loạt để định giá.
3.2. Định giá cá biệt
Định giá cá biệt là hình thức định giá phát sinh thường xuyên theo yêu cầu của thị
trường, của người sở hữu bất động sản và trong nhiều trường hợp, định giá cá biệt cịn
phát sinh theo u cầu của Nhà nước. Dưới góc độ chuyên môn: Định giá cá biệt là sự
95


ước tính giá đối với một bất động sản cụ thể, tại một vị trí, thời điểm xác định với các
quyền, nghĩa vụ nhất định gắn với bất động sản đó, nhằm phục vụ cho một mục đích cụ
thể đã được xác định trước. Do định giá cá biệt tập trung vào một bất động sản nhất định
và tại một thời điểm cụ thể nên độ chính xác và tin cậy của kết quả định giá là yêu cầu số
một của mọi cuộc định giá cá biệt.
3.2.2. Nguyên tắc, phương pháp định giá cá biệt
Định giá cá biệt luôn tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp định giá bất động sản
trong nền kinh tế thị trường như đã nêu ở điểm 2 Mục này.
3.2.3. Mối quan hệ giữa định giá hàng loạt với định giá cá biệt
Trong nền kinh tế thị trường, định giá cá biệt có mối quan hệ nhân quả với định giá
hàng loạt. Kết quả định giá hàng loạt là tiền đề để thực hiện định giá cá biệt và kết quả
định giá cá biệt là nguồn dữ liệu làm căn cứ để thực hiện định giá hàng loạt, điều chỉnh
giá hàng loạt. Để xây dựng, điều chỉnh kết quả định giá hàng loạt, cần phải căn cứ vào
hai nguồn dữ liệu chủ yếu: giá bất động sản từ các giao dịch mua bán, chuyển nhượng,
cho thuê, thế chấp bất động sản của một loại hoặc toàn bộ các loại bất động sản có trong
vùng định giá trong điều kiện thị trường mở và cạnh tranh; giá bất động sản được định
giá lại giữa 2 kỳ định giá trong các trường hợp giá bất động sản trong vùng định giá chênh
lệch với giá bất động sản trên thị trường tới mức phải định giá lại theo quy định.
Mặt khác các kết quả đã được điều tra, khảo sát trong quá trình xây dựng, điều chỉnh
định giá hàng loạt giữa 2 kỳ định giá là căn cứ và là nguồn định giá cá biệt đối với từng

bất động sản. Vì vậy, giữa định giá hàng loạt và định giá cá biệt có mối quan hệ hữu cơ,
là nhân quả của nhau, thiếu một trong hai hoạt động định giá sẽ làm giảm chất lượng,
tăng chi phí cho các cuộc định giá.
3.2.4. Kết quả định giá hàng loạt và kết quả định giá cá biệt hợp thành mặt bằng giá
khép kín vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về bất động sản vừa đảm bảo cho thị
trường bất động sản phát triển lành mạnh, minh bạch
Kết quả định giá bất động sản hàng loạt sẽ làm cơ cở cho việc thu thuế và các khoản
thu tài chính khác của Nhà nước đảm bảo thu đúng, thu đủ. Giá bất động sản trong định
giá hàng loạt phù hợp với thị trường sẽ tạo điều kiện và còn là bảo đảm thực hiện bình
đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ tài chính giữa người sở hữu bất động sản với
Nhà nước và ngược lại. Giá bất động sản cá biệt một mặt giúp cho việc thu ngân sách nhà
nước không bị thất thu, tạo nguồn để đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng; nhưng
mặt khác - mặt chủ yếu - giá bất động sản cá biệt giúp thỏa nhu cầu của thị trường bất
động sản, đặc biệt trong thực hiện các giao dịch liên quan đến mua bán, chuyển nhượng,
cho thuê bất động sản.
4. Đánh giá về tính thích nghi trong điều kiện cụ thể của Việt Nam
Đối với nước ta, đất đai thuộc sở hữu tồn dân, Nhà nước với vai trị vừa là người
đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, vừa là người thực hiện chức năng quản lý nhà
96


nước về đất đai; các quan hệ kinh tế đất đai diễn ra trong thị trường quyền sử dụng đất
liên quan tới giá đất được biểu hiện chủ yếu thông qua giá quyền sử dụng đất, việc triển
khai, áp dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức định giá bất động sản và cơ chế áp
dụng giá bất động sản trong nền kinh tế thị trường về cơ bản có thể áp dụng được trong
thị trường quyền sử dụng đất như ở nước ta nếu đảm bảo một số điều kiện chủ yếu sau:
- Thông tin đầu vào các cuộc định giá đất dù là hình thức định giá hàng loạt hay
định giá cá biệt, đều phải là các thông tin thị trường (đã loại trừ các yếu tố phi thị trường)
và là kết quả của các giao dịch hợp pháp. Giao dịch hợp pháp được nói đến ở đây khơng
phải là hình thức hay cách thức giao dịch mà được hiểu đó là các giao dịch mà chủ thể và

khách thể tham gia giao dịch đều phải là hợp pháp.
- Cơ quan định giá đất chỉ tuân thủ pháp luật và các tiêu chuẩn chuyên môn trong
định giá mà không bị chi phối bởi bất cứ ý đồ nào trái với các quy định của pháp luật và
chuẩn mực chun mơn đó. Ngồi hệ thống cơ quan định giá đất của Nhà nước, cần xã
hội hóa hoạt động định giá đất, đồng thời xây dựng bộ chế tài đủ để răn đe các hành vi
trục lợi phát sinh trong hoạt động định giá đất.
- Mục đích định giá đất phải rõ ràng và nhất quán, các điều kiện để thực hiện
phương pháp định giá đất cũng như cơ sở dữ liệu phục vụ định giá đất cần đảm bảo
ở mức tối thiểu.
III - GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊNH GIÁ ĐẤT VÀ ĐỊNH GIÁ ĐẤT THEO CƠ
CHẾ THỊ TRƯỜNG
Từ những những mặt tích cực và hạn chế rút ra sau 5 năm thực hiện khung pháp
luật quy định về giá đất và định giá đất trên phạm vi cả nước, có thể khái quát một số giải
pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện giá đất và định giá đất theo cơ chế thị trường sau đây:
1. Quan điểm chung
Việc hoàn thiện giá đất và định giá đất theo cơ chế thị trường phải trên cơ sở xây
dựng, phát triển chế độ định giá đất và áp dụng giá đât phù hợp với thị trường quyền sử
dụng đất; khắc phục những điểm tối trong thực hiện cơ chế, chính sách tài chính về đất
đai, góp phần thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển lành
mạnh; thúc đẩy quá trình hội nhập trong lĩnh vực định giá đất nói riêng, định giá bất động
sản nói chung ở nước ta theo xu hướng chung các nước trong khu vực và trên thế giới.
2. Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện giá đất và định giá đất theo cơ chế thị
trường ở nước ta
2.1. Về khung pháp luật quy định giá đất và định giá đất:
2.1.1. Thực hiện rà soát nội dung các nguyên tắc định giá đất hiện hành để loại bỏ
những nội dung không thuộc nguyên tắc định giá, đồng thời bổ sung những nguyên tắc
cơ bản có vai trị định hướng các q trình định giá đất như đã giới thiệu trong Mục 2 của
báo cáo này.
97



2.1.2. Cần loại bỏ “phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất” trong khung pháp luật
hiện hành, đồng thời bổ sung, hồn chỉnh 4 phương pháp định giá đất cịn lại theo các
chuẩn mực định giá thị trường mà không bị chi phối bởi các quy định đơn thuần mang
tính hành chính làm tổn hại tới tính khách quan của kết quả định giá.
2.1.3. Nên gộp khung giá đất và bảng giá đất trong một hệ thống giá đất thống nhất
phản ánh đầy đủ giá của toàn bộ các thửa đất hiện hữu trên thực địa và trong hồ sơ địa
chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm phục vụ mục đích thu thuế, phí và lệ
phí của Nhà nước. Việc xây dựng hệ thống giá đất nêu trên được thực hiện thông qua cơ
chế định giá đất hàng loạt với kỳ định giá là 3 hoặc 5 năm; mỗi năm định giá toàn bộ các
thửa đất của 1 hoặc 2 loại đất nhất định, tùy theo năng lực, yêu cầu của Nhà nước trong
từng giai đoạn. Bãi bỏ các quy định về khu vực đất giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; xây dựng các vùng giá trị đất phủ kín các khu vực, các địa phương
trong cả nước.
Từng bước xây dựng và phát triển hệ thống định giá hàng loạt với sự trợ giúp của
máy tính gồm: Hệ thống quản lý dữ liệu, hệ thống phân tích giá bán, hệ thống định giá và
hệ thống quản trị.
Bổ sung, hoàn thiện cơ chế định giá đất cụ thể cùng các tiêu chuẩn định giá đất
theo cơ chế thị trường; hồn thiện quy trình định giá đất áp dụng đối với từng phương
pháp định giá đất; sửa đổi, bổ sung phạm vi áp dụng giá đất cụ thể trong cơ chế tài chính
đất đai trên cơ sở nhất quán với mục đích định giá nhằm sử dụng hiệu quả chức năng điều
chỉnh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất và quan hệ về lợi ích giữa
Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư trong thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt
bằng thông qua công cụ giá đất.
2.1.4. Xây dựng hệ thống cơ quan định giá đất độc lập với cơ quan có thẩm quyền
giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Từng bước kiện tồn và
nâng cao năng lực cơ quan định giá đất độc lập theo hướng tự chủ về mặt tài chính.
2.1.5. Làm rõ cơ chế thực hiện “giá đất” khi Nhà nước “giao đất có thu tiền sử dụng
đất” để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở chung cư sử dụng hỗn hợp, đan xen các

mục đích thương mại, dịch vụ, văn phòng cho thuê gắn với thời hạn sử dụng đất đối với
từng mục đích sử dụng trong sử dụng hỗn hợp và đối với thời hạn sử dụng đất thực hiện
dự án đầu tư; xây dựng nhà ở “để bán kết hợp với cho thuê” gắn với thời hạn sử dụng đất
đối với từng lựa chọn và với thời hạn sử dụng đất thực hiện dự án đầu tư. Đồng thời quy
định nguyên tắc phân chia trách nhiệm thực hiện “giá tiền sử dụng đất” trong các trường
hợp nêu trên và các trường hợp tương tự khác trong đó bao gồm cả trường hợp thửa đất
có nhiều mục đích sử dụng mà khơng xác được ranh giới sử dụng của từng mục đích.
2.1.6. Nghiên cứu xây dựng mơ hình định giá đất cho các mục đích sử dụng đất có
thời hạn sử dụng đất để áp dụng tính giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với các
trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trước ngày 01/7/2014, đất
98


thuê trong các trường hợp thời hạn sử dụng đất khác nhau, đảm bảo sự công bằng giữa
những người sử dụng đất giao có thu tiền sử dụng đất trước và sau ngày 01/7/2014 với
nhau và với người sử dụng đất thuê; giữa những người sử dụng đất thuê có thời hạn sử
dụng đất khác nhau.
2.2. Về thực hiện khung pháp luật quy định giá đất và định giá đất
2.2.1. Cho phép sử dụng giá đất chuyển nhượng thành công trên thị trường làm dữ
liệu đầu vào cho các cuộc định giá đất gắn với trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng
giao dịch, của cơ quan công chứng mà khơng địi hỏi các thủ tục pháp lý khác (chứng
nhận của chính quyền địa phương, cơ quan thuế). Đồng thời xây dựng các chế tài có mức
răn đe tương ứng với các hành vi vi phạm trong các trường hợp khai man, công chứng,
chứng nhận sai sự thật hoặc trong trường hợp làm sai lệch hồ sơ giao dịch. Trong đó, cần
bổ sung quy định về quyền tiên mãi của Nhà nước trong các trường hợp kê khai giá đất
chuyển nhượng quá thấp ( dưới 70%) so với giá đất phổ biến trên thị trường.
2.2.2. Song song với cơ chế cơ quan định giá đất và cơ quan có thẩm quyền giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là hai cơ quan độc lập, cần xây
dựng cơ chế cơ quan định giá đất và cơ quan thẩm định giá đất cũng là hai cơ quan độc
lập; đồng thời từng bước hoàn thiện cơ chế tài phán để giải quyết những vấn đề phát sinh

trong quá trình thực hiện các cơ chế nêu trên.
2.2.3. Bãi bỏ cơ chế hiện hành về điều chỉnh giá đất trong khung giá đất, bảng giá
đất. Cùng với việc tổ chức cơ quan định giá đất độc lập, cần tăng cường chức năng theo
dõi, đánh giá biến động giá đất thị trường, xây dựng hồ sơ giá đất cho từng vùng giá trị
đất và đến từng thửa đất, cập nhật giá đất thị trường vào cơ sở dữ liệu giá đất quốc gia
trong khoảng thời gian giữa 2 kỳ định giá đất.
IV - MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT ĐẤT ĐAI
Từ những giải pháp nêu tại mục III của báo cáo này, xin đề xuất một số nội dung
sửa đổi, bổ sung Luật đất đai như sau:
1. Tách Điều 112 thành 3 điều:
Điều 1: Quy định giá đất thị trường và việc sử dụng giá đất thị trường trong định
giá đất.
Điều 2: Quy định các nguyên tắc định giá đất (gồm các nguyên tắc như đã nêu tại
mục II của báo cáo), trong mỗi nguyên tắc cần quy định rõ nội dung, phạm vi áp dụng và
có các ví dụ để minh họa.
Điều 3: Quy định các phương pháp định giá đất, gồm: phương pháp so sánh trực
tiếp, phương pháp chi phí và phương pháp thu nhập). Trong mỗi phương pháp định giá
cần quy định rõ nội dung phương pháp, mơ hình tính tốn và sai số cho phép; điều kiện
và các trường hợp được áp dụng phương pháp, quy trình thực hiện phương pháp.

99


2. Thay thế Điều 113 và Điều 114 bằng các điều mới với các nội dung của từng
điều như sau:
Điều 1: Quy định về hai hình thức định giá đất: định giá đất hàng loạt và định giá
đất cá biệt; phạm vi áp dụng giá đất của mỗi hình thức định giá.
Điều 2: Quy định cơ chế định giá đất hàng loạt (nội dung định giá, ngày định giá,
kỳ định giá; phạm vi và đối tượng định giá; quy trình định giá và định giá lại, thẩm quyền
phê duyệt kết quả định giá hàng loạt).

Điều 3: Quy định cơ chế định giá đất cá biệt (nội dung định giá, mục đích định giá,
phạm vi và đối tượng định giá; quy trình định giá cá biệt và thẩm quyền quyết định giá
đất cá biệt.
Điều 4: Quy định vùng giá trị đất, quy trình và phương pháp xây dựng giá chuẩn
của vùng giá trị đất.
Điều 5: Quy định về theo dõi, đánh giá biến động giá đất thị trường (nội dung,
phương pháp, hồ sơ theo dõi, đánh giá và việc cập nhật kết quả theo dõi, đánh giá biến
động giá đất thị trường vào hồ sơ theo dõi, đánh giá).
Điều 6: Quy định tổ chức cơ quan định giá đất (chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
và trách nhiệm).
Điều 8: Quy định cơ chế thẩm định giá đất cụ thể, phê duyệt kết quả định giá đất
hàng loạt.
Điều 9: Quy định cơ chế tài phán trong hoạt động định giá đất.
3. Sửa đổi, bổ sung Điều 49 về những nội dung sau:
- Thời hạn sử dụng đất đối với các mục đích sử dụng là văn phòng, cơ sở thương
mại, dịch vụ thuộc dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê mà
nhà ở là nhà chung cư có mục đích sở dụng hỗn hợp.
- Cơ chế nộp tiền sử dụng đất trong trường hợp thời hạn sử dụng đất không quá 50
năm đối với các mục đích sử dụng là văn phịng, cơ sở thương mại, dịch vụ hoặc trong
trường hợp sử dụng ổn định lâu dài như mục đích sử dụng căn hộ nhà chung cư.
- Thời hạn sử dụng đất đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán kết hợp với cho
thuê trong trường hợp chủ đầu tư không bán mà chỉ cho thuê.
4. Bổ sung quy định về những hành vi vi phạm trong hoạt động định giá đất và áp
dụng giá đất tại Điều 207 (Nghị định số 101/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 theo đó bổ
sung các hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực giá đất, định giá đất)./.

100




×