Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tác động của tự do hóa thương mại khối ASEAN đến sự phát triển mạng sản xuất toàn cầu ở khu vực Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.11 KB, 9 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)

TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HÓA THƢƠNG MẠI KHỐI ASEAN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
MẠNG SẢN XUẤT TOÀN CẦU Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

IMPACT OF TRADE LIBERALIZATION IN ASEAN BLOCK ON THE
DEVELOPMENT OF ITS GLOBAL PRODUCTION NETWORK
TS. Nguyễn Trung Kiên
Khoa Thương Mại – Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
TĨM TẮT
Bài viết phân tích q trình tự do hóa thương mại khối ASEAN-một trong bốn trụ cột hình thành Cộng động kinh
tế ASEAN vào năm 2015- đã có tác động đến sự phát triển mạng sản xuất tồn cầu. Mặc dù ASEAN đã có nhiều nỗ
lực thúc đẩy thương mại nội bộ khối, nền kinh tế của các quốc gia ASEAN vẫn phụ thuộc khá lớn vào các đối tác
bên ngoài như Nhật, Hàn Quốc, EU và Mỹ. Sử dụng số liệu thống kê thương mại, bài viết chỉ rõ tỷ trọng đáng kể
nhập khẩu linh kiện và bộ phận vào thị trường ASEAN là bằng chứng cho sự hoạt động của mạng sản xuất toàn cầu
tại khu vực Đông Nam Á. Do vậy, nhằm phát huy lợi thế so sánh một cách hiệu quả trong quan hệ với các đối tác
bên ngoài, Việt Nam nên chú trọng tham gia vào mạng sản xuất tồn cầu thơng qua hoạt động thu hút FDI.
Từ khóa: tự do hóa thương mại, mạng sản xuất tồn cầu, máy móc và thiết bị, linh kiện và bộ phận và khối
ASEAN.

ASTRACT
The paper analyzes the process of trade liberalization in ASEAN one of the four pillars of formation of the ASEAN
Economic Community in 2015 that had an impact on the growth of global production networks. Although ASEAN has
made efforts to promote internal trade volumes, economies of ASEAN countries still depend much on external
partners such as Japan, Korea, EU and America. By using trade statistics, the article specifies significant proportion
of importing components and parts in ASEAN markets that is proof of the operations of the global production network
in Southeast Asia. Therefore, in order to promote comparative advantage effectively in relations with external
partners, Vietnam should focus on participation in global production networks through FDI.
Key words: trade liberalization, global production networks, machinery and equipment, parts and components
and ASEAN


1. Giới thiệu
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), bao gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thailand đƣợc thành lập từ năm 1967 với mục tiêu hợp tác tích cực các nƣớc trong khu vực
Đơng Nam Á hƣớng đến hồ bình, ổn định, tiến bộ và thịnh vƣợng. Rõ ràng, tận dụng lợi thế gần về địa
lý không tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác kinh tế vào những năm đầu tiên bởi vì các nƣớc này có sự
khác biệt hồn tồn về mặt phát triển kinh tế, nguồn lực sẵn có, văn hóa và tôn giáo. Bối cảnh lịch sử vào
thập niên 70 và 80 khiến cho các đề xuất về hợp tác kinh tế bị các thế lực chính trị che lấp. Tuy nhiên,
bƣớc vào thập niên 90 thái độ về hợp tác kinh tế của các quốc gia thành viên bắt đầu thay đổi. Năm 1992,
Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đƣợc thành lập thông qua một thỏa thuận đƣợc ký kết bởi sáu quốc
gia giàu có và lâu đời ASEAN. Các nền kinh tế Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (nền kinh tế
CLMV) gia nhập khối trong thời kỳ 1995-1999 nhƣng có trình độ phát triển thấp đã đƣợc cho phép thực
hiện một cam kết tự do hóa nhập khẩu với tiến độ chậm hơn sáu thành viên lâu đời. Kể từ đó, sự hợp tác
kinh tế khối ASEAN đƣợc định hƣớng một cách nhất quán với các chính sách của các nƣớc thành viên.
Tất cả các nƣớc thành viên ASEAN đều theo đuổi chiến lƣợc cơng nghiệp hố hƣớng về xuất khẩu dựa
vào thƣơng mại quốc tế và đầu tƣ quốc tế.
Nền kinh tế các quốc gia của khối ASEAN tƣơng đối nhỏ và nghèo khi thành lập. Nhờ vào việc
phát triển kinh tế nhanh trong các thập niên tiếp theo nên hiện nay ASEAN là một thị trƣờng quan trọng
cho hàng hóa và dịch vụ cho các quốc gia kinh tế phát triển. Tốc độ tăng trƣởng cao của ASEAN có lẽ là
55


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
lý do quan trọng duy nhất khiến cho mối quan hệ giữa các nền kinh tế Đông Á nhƣ Nhật Bản, Trung
Quốc và Hàn Quốc với ASEAN ngày càng tăng. Một lý do quan trọng khác là khả năng duy trì lợi thế so
sánh mạnh hoặc khả năng của nền kinh tế ASEAN sản xuất hàng hóa và dịch vụ giá cạnh tranh so với chi
phí sản xuất cao ở nền kinh tế phát triển. Trong những năm gần đây, sự phát triển của mạng lƣới sản xuất
đƣợc hỗ trợ bởi khả năng phân chia quá trình sản xuất thành các công đoạn: thâm dụng tài nguyên, thâm
dụng lao động, thâm dụng vốn và thâm dụng kiến thức là một nhân tố khác giúp kết nối ASEAN với Nhật
Bản và các nền kinh tế trong khu vực (ví dụ Trung Quốc, Hong Kong, Hàn Quốc, và Đài Loan). Thể chế
liên kết ASEAN còn hỗ trợ các cuộc đối thoại kinh tế và chính trị ở Đơng Nam Á, điều này tạo nên các

chính sách kinh tế mở và hịa hợp trong nhiều thập niên, đây cũng là lý do quan trọng đóng góp vào tăng
trƣởng nhanh của khối ASEAN.
Mặc dù ASEAN đã có nhiều nỗ lực quan trọng nhằm thúc đẩy hội nhập kinh tế giữa các thành viên
và Cộng động kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community - AEC 2015) là dấu mốc hình thành một
thị trƣờng ASEAN duy nhất nhằm thực hiện mục tiêu hội nhập. Ở nhiều phƣơng diện, AEC 2015 là sự
nối tiếp tự nhiên của AFTA và hầu hết các đàm phán liên quan đến AEC đã tập trung vào việc gỡ bỏ hàng
rào phi thuế quan (Non-tariff barriers) và các biện pháp khác nhằm giảm chi phí giao dịch nội bộ
ASEAN. Tuy nhiên, các đàm phán này đã diễn ra tƣơng đối chậm và sự hình thành AEC 2015 gần nhƣ
khơng có thể tăng lợi ích ƣu đãi cho các giao dịch nội bộ khối. Do vậy, AEC 2015 có thể có ảnh hƣởng
tƣơng đối thấp đối với các giao dịch trong khối ASEAN, đặc biệt khi so sánh với các nỗ lực tƣơng tự
trong Liên minh Châu Âu hoặc Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA).
Bài viết này tập trung giải đáp câu hỏi duy nhất: sự hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm
2005 có tác động nhƣ thế nào đến mạng lƣới sản xuất đƣợc hình thành giữa các nƣớc trong khối ASEAN
và hàm ý của AEC 2015 đối với các sự phát triển ngành công nghiệp ở Việt Nam.
2. Các xu thế tự do hóa thƣơng mại của khối ASEAN trong những thập niên gần đây
ASEAN hiện tại gồm 6 nền thành viên lâu đời, có trình độ phát triển cao Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Singapore, và Thailand và 4 nền kinh tế CLMV tƣơng đối nghèo. Vào năm 1995,
nền kinh tế 10 quốc gia ASEAN có tổng GDP – thƣớc đo qui mô nền kinh tế - ngang bằng với 12% GDP
của Nhật Bản tính theo US$ hiện tại và bằng 2/3 GDP của Nhật Bản nếu tính theo ngang giá sức mua
(PPP) (Bảng 1). Thu nhập bình quân đầu ngƣời – thƣớc đo về mức sống – thấp hơn mức sống của Nhật
vào năm 1995 nếu tính theo US$ (ví dụ: Singapore ngang với 59% mức của Nhật Bản, Malaysia chỉ bằng
10% mức của Nhật Bản, Thái lan là 7%, mức sống ở Campuchia, Lào, và Việt Nam chỉ ngang với 1%
mức tƣơng ứng ở Nhật).
Sau mấy thập niên phát triển kinh tế cao, kinh tế của nhiều quốc gia ASEAN đã suy giảm sau cuộc
khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1998. Mức độ suy giảm lớn nhất ở Indonesia, Thailand và Malaysia,
với GDP thực tế tính theo đơn vị tiền tệ quốc gia giảm từ 13%, 11% và 7.4% tƣơng ứng. Các nền kinh tế
Brunei, Philippines và Singapore có tốc độ tăng âm. Khủng khoảng tài chính 2008 khiến cho các nền kinh
tế Brunei, Malaysia, Singapore và Thailand suy thoái vào năm 2009. Bên cạnh vấn đề chu kỳ suy thoái,
cơ cấu kinh tế cũng đƣợc cho rằng là nhân tố kìm hãm tốc độ tăng trong dài hạn ở nhiều nền kinh tế của
khu vực.

Bảng 1. Qui mô kinh tế của ASEAN và các quốc gia thành viên

56


HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)

Nguồn: International Monetary Fund (2014)

Tuy vậy, đến năm 2015 nền kinh tế khu vực ASEAN theo dự đoán đã chiếm hơn 55% qui mơ kinh
tế của Nhật Bản nếu tính theo US$ hiện tại hoặc hơn một phần ba (38%) tính theo đơn vị PPP. Mặc dù tốc
độ tăng trƣởng đã chậm lại so với tốc độ tăng thời kỳ phát triển mạnh trƣớc khủng hoảng tài chính Châu
Á, nền kinh tế ASEAN đã phát triển nhanh hơn hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong giai đoạn 19952015. Hiện nay, ASEAN trở thành thị trƣờng lớn cho hàng hóa và dịch vụ của các đối tác lớn. Mặc dù
nền kinh tế ASEAN đối đầu với nhiều thách thức, thị trƣờng ASEAN chắc chắn là sẽ tiếp phát triển
nhanh trong nhiều năm sắp đến (Ramstetter & Kophaiboon, 2015)
Quá trình hội nhập kinh tế của khối ASEAN diễn ra rất chậm kể từ khi thành lập. Bƣớc tiến cơ bản
hƣớng đến việc hội nhập chính thức là thỏa thuận thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào
năm 1992. Đến năm 2010, hàng rào thuế quan cho hàng hóa nhập khẩu giữa các nƣớc ASEAN đƣợc gỡ
bỏ, tuy nhiên thị phần của thƣơng mại nội bộ khối ASEAN rất thấp chỉ chiếm khoảng ¼ tổng thƣơng mại
của ASEAN và tỷ trọng này không thay đổi nhiều từ năm 2005. Mặc dù quan sát bên ngồi có thể cho
rằng Khu mậu dịch tự do AFTA khơng có hiệu quả để phát triển thƣơng mại nội bộ khối, các phân tích kỹ
lƣỡng cho rằng AFTA đã đẩy nhanh thƣơng mại bội bộ khối ở một mức độ nhất định, mặc dù hiệu quả
của nó là tƣơng đối nhỏ (Elliot và Ikemoto 2004; Nguyen 2009). Quan trọng hơn, AFTA không làm suy
yếu lợi thế cạnh trạnh của ASEAN đối với các đối tác thƣơng mại quan trọng ngoài khối và củng cố mạng

57


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
lƣới sản xuất liên quan đến ASEAN. Giao dịch với các đối tác thƣơng mại bên ngoài vẫn chiếm tỷ trọng

lớn.
Theo đánh giá gần đây của Ban thƣ ký ASEAN và Ngân hàng thế giới (2013), Singapore và Brunei
đã xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với thƣơng mại nội bộ khối ASEAN. Indonesia, Malaysia và
ở cấp độ thấp hơn Philippines và Thái Land đã xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng
nhập khẩu từ các quốc gia thành viên khác, ngoài trừ một vài hàng hóa khơng thuộc qui chế tự do hóa
theo Thỏa thuận hàng hóa ASEAN ký kết vào năm 2009. Do vậy, thuế suất trung bình cho thƣơng mại
nội bộ khối ASEAN áp dụng cho 6 nền kinh tế lâu đời chỉ ở mức 0.05% vào năm 2012, đây là mức thuế
quan khá ƣu đãi so với các liên minh hải quan và khu mậu dịch tự do. Các nền kinh tế CLMV đã tiến
hành cắt giảm nhiều dòng thuế áp dụng cho thƣơng mại nội bộ khối, mức thuế quan nội bộ giảm từ 7.3%
năm 2000 đến 2.1% vào năm 2010-2012.
Mặc dù hàng rào thuế quan đã giảm xuống mức thấp và giá trị của thƣơng mại nội bộ khối tăng
nhanh, tuy nhiên tỷ trọng của thƣơng mại nội bộ khối tƣơng đối thấp, khoảng 22-24% đối với hàng nhập
khẩu trong thời kỳ 2005-2013 (Bảng 2). Vài một nghiên cứu về cơ cấu và chiều hƣớng thƣơng mại của
ASEAN nhận định AFTA có đóng góp tƣơng đối nhỏ vào thƣơng mại nội bộ khối ASEAN (Nguyen
2009; và Okabe và Urata 2014). Một trong những lý do quan trọng cho lý do khiến cho tỷ trọng thấp của
thƣơng mại nội bộ khối là nền kinh tế ASEAN là đối tác cung cấp hàng nhập khẩu lớn cho các thị trƣờng
cho thu nhập cao nhƣ Châu Âu, Nhật Bản và Bắc Mỹ số lƣợng lớn các sản phẩm thâm dụng lao động và
tài nguyên nhƣ may mặc, da giày, sản phẩm cao su và linh kiện điện tử và các đối tác này là nguồn cung
cấp các sản phẩm hóa chất và thiết bị nhƣ thiết bị nhà máy, linh kiện lõi của sản phẩm điện tử, và phƣơng
tiện vận tải và động cơ. Tóm lại, ASEAN và các đối tác thƣơng mại bên ngoài khối khai thác đã khai thác
tốt lợi thế cạnh tranh tƣơng đối mạnh đối với nhau, dẫn đến tỷ trọng thấp của thƣơng mại nội bộ khối.
Thứ hai, gia tăng mức độ phụ thuộc với Trung Quốc nhƣ là nguồn nhập khẩu hàng hóa và thị
trƣờng xuất khẩu, mà nguyên nhân chính là do sự phát triển kinh tế nhanh của Trung Quốc. Bên cạnh đó
là sự bùng nổ của mạng sản xuất liên quan đến khối lƣợng thƣơng mại lớn về các sản phẩm linh kiện và
bộ phận trung gian giữa các nền kinh tế ASEAN và các nhà cung cấp ở Trung Quốc, theo đó các linh kiện
và bộ phận đƣợc sử dụng trong việc sản xuất các sản phẩm cuối cùng bán ở các thị trƣờng tiên tiến nhƣ
Châu Âu, Nhật Bản và Bắc Mỹ (Asia-Pacific Research and Training Network on Trade, 2011).
Thứ ba, các nhà kinh doanh của các nƣớc ASEAN ít quan tâm và khai thác chƣơng trình ƣu đãi
thuế quan. Trƣớc tiên là do thuế quan cho sản phẩm phi nông nghiệp của ASEAN đối với tất cả đối tác
(trong và ngồi khối) khá thấp. Ví dụ, năm 2014 và 2012, hơn 4/5 giá trị hàng nhập khẩu phi nông nghiệp

vào Indonesia, Malaysia, Phillipine và Singapore chịu mức thuế suất 5% hoặc thấp hơn. Thailan có mức
thuế suất MFN cao nhất trong số 5 quốc gia ban đầu của ASEAN nhƣng tỷ trọng nhập khẩu chịu mức
thuế suất thấp chỉ chiếm khoảng 3/4, cao hơn mức ở Trung Quốc và Việt Nam. Thuế suất ƣu đãi cận biên
cho thƣơng mại nội bộ khối là khá thấp và các nhà kinh doanh có ít động cơ để khai thác chƣơng trình ƣu
đãi thuế quan nội bộ khối (ASEAN Secretariat and the World Bank 2103).
Bảng 2. Tình hình nhập khẩu của khối ASEAN từ thế giới, Đông Á và ASEAN, tỷ USD

58


HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)

Nguồn: Tính tốn của tác giả từ cơ sở dữ liệu COMTRADE (2015)

Thứ tƣ, sự bội thực các qui định ở các nền kinh tế ASEAN đã liên tục đẩy chi phí giao dịch thƣơng
mại nội bộ khối và chi phí với bên ngồi tăng mạnh đối với nhiều loại hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn.
Nhiều chi phí giao dịch đồng thời tăng nhanh cơ sở hạ tầng và hỗ trợ logistics yếu kém và không đồng bộ.
Mặc dù cắt giảm đáng kể thuế quan nội bộ khối, bản báo cáo của Ban thƣ ký ASEAN và Ngân hàng thế
giới đồng thời cho rằng thuế quan nhập khẩu là một cơng cụ có hại ―đƣợc sử dụng nhiều nhất đến bây
giờ‖ và cơng cụ đƣợc các chính phủ các quốc gia ASEAN vận dụng khá phổ biến, trong khi các công cụ
phi thuế quan liên quan đến nhập khẩu là công cụ đƣợc sử dụng phổ biến thứ nhì. Đặc biệt, Thailan là
quốc gia duy nhất sử dụng nhiều công cụ phi thuế quan trong khi Indonesia giới thiệu 12 trong số 17 công
cụ phi thuế quan mới đƣợc WTO phê chuẩn vào tháng 11 năm 2011 (ASEAN Secretariat and World
Bank, 2013).
Đƣợc đề xuất đầu tiên vào năm 2002, chính thức thơng qua Kế hoạch hành động (Blueprint) năm
2007 và Lộ trình (Roadmap) vào năm 2009, AEC có 4 trụ cột. Trụ cột thứ nhất là xây dựng một thị
trƣờng và một cơ sở sản xuất chung nhằm hỗ trợ luồng hàng hóa, dịch vụ, lao động có tay nghề, đầu tƣ và
vốn trong nội bộ khối di chuyển tự do, và đồng thời hỗ trợ đẩy nhanh tự do hóa trong 12 khu vực ƣu tiên
hội nhập cũng nhƣ thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp.Trụ cột thứ hai của AEC liên quan và mục tiêu
59



TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
hƣớng đến giảm chi phí giao dịch bằng cách cải cách chính sách cạnh tranh, bảo vệ ngƣời tiêu dùng,
quyền sở hữu trí tuệ và cơ sở hạ tầng. Trụ cột thứ ba là đẩy mạnh phát triển kinh tế công bằng (ví dụ hỗ
trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ). Cuối cùng, trụ cột thứ tƣ là hôp nhập vào nền kinh tế tồn cầu (chủ yếu
thơng qua sự tham gia của ASEAN vào nhiều khu mậu dịch tự do khu vực).
3. Mạng lƣới sản xuất ở khu vực Đông Á
Mạng lƣới sản xuất quốc tế (international production networks), phân chia sản xuất toàn cầu
(global production sharing) và phân đoạn sản xuất (production fragmentation) là những quá trình để phân
chia chuổi các hoạt động sản xuất thành nhiều giai đoạn sao đó việc sản xuất có thể thực hiện ở nhiều địa
điểm hay các quốc gia khác nhau. Một khi quá trình sản xuất đƣợc bố trí ở nhiều quốc gia, đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài (FDI) phát triển (Abonyi 2006). Các công ty đa quốc gia (MNEs) giữ một vai trò quan
trọng trong việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngồi và việc phát triển các ngành cơng nghệ cao, ngành có
chuối giá trị dài nhƣ ơ tơ và các link kiện, thiết bị điện và điển tử.
Mạng lƣới sản xuất quốc tế ở Đơng Á đƣợc hình thành sau Hiệp ƣớc Plaza 1985 đã làm tăng giá
đồng yên Nhật, dẫn đến gia tăng chi phí sản xuất và tiền lƣơng ở Nhật Bản. Do vậy, các công ty đa quốc
gia Nhật Bản (MNEs) đã tìm cách thiết lập các cơ sở sản xuất ở các quốc gia nhƣ Malaysia, Singapore và
Thailand. Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vào năm 1997, các công ty ở Mỹ và Châu Âu đã tìm
đến Đơng Á để tạo dựng các cơ sở sản xuất.
Nghiên cứu của Athukorala (2010) đã chỉ ra các nhân tố giải thích tại sao Đơng Á có thể trở thành
một trung tâm của mạng lƣới sản xuất phân chia nhiều giai đoạn đối với các nhà đầu tƣ khu vực và toàn
cầu. Nhân tố này cũng giải thích xu thế đầu tƣ và thƣơng mại nội bộ ngành ở Đông Á.
Sự đa dạng về tiền lƣơng giữa các nƣớc trong khu vực Đông Á từ mức lƣơng cao ở nền kinh tế
phát triển nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc, mức lƣơng trung bình ở Malaysia và Thailand, và tiền lƣơng tƣơng
đối thấp ở Indonesia và Việt Nam. Chính điều này cho phép mở rộng cơ hội lựa chọn trong việc bố trí
một cơ sở sản xuất đến một vị trí cạnh tranh hơn. Tìm kiếm nguồn lực hiệu quả chính là động cơ đầu tƣ
của các MNEs
Chi phí giao dịch đã và đang giảm nhờ các các chính sách mềm nhƣ chế độ thƣơng mại và đầu tƣ,
các biện pháp hỗ trợ thƣơng mại và chính sách cứng nhƣ phát triển sân bay, cảng biển, hệ thống giao

thông nội địa. Các nhân tố này góp phần làm giảm cơ cấu chi phí giao dịch. Do vậy, mục tiêu hiệu quả là
một trong nhân tố ảnh hƣởng đến quyết định lựa chọn địa điểm đầu tƣ.
―Lợi thế làn sóng đầu tƣ thứ hai‖ là một nhân tố quyết định sự phân đoạn và bố trí q trình sản
xuất. Làn sóng đầu tƣ đầu tiên tập trung vào các quốc gia Đông Nam Á nhƣ Indonesia, Malaysia và
Thailand nhờ vào sự chun mơn hóa quốc tế và các dự án đầu tƣ ban đầu này đã tạo nền tảng cho các
nhà đầu tƣ kế tiếp thông qua việc hƣởng lợi các ngành công nghiệp hỗ trợ và kinh nghiệm từ làn sóng đầu
tƣ đầu tiên. Thêm vào đó, các nhà đầu tƣ ở làn sóng thứ hai và đặc biệt là làn sóng thứ ba, đã đầu tƣ vào
Việt Nam, hƣởng lợi từ tăng trƣởng kinh tế cao của Đông Nam Á và lợi ích của hiệu quả thu nhập do tăng
trƣởng kinh tế.
Một vài nghiên cứu đã quan sát dịng vốn FDI của các cơng ty đa quốc gia (MNE) của Mỹ tại khu
vực Đông Á và phát hiện rằng chỉ có khoảng 40% khối lƣợng các sản phẩm cuối cùng đƣợc tiêu dùng
trong khu vực này. Tƣơng tự, hơn 50% sản phẩm của các công ty MNE của Nhật hoạt động tại khu vực
Đông Á đƣợc xuất khẩu sang các thị trƣờng khác (ADB 2007). Điều đó chứng tỏ các quốc gia Đơng Á
đóng vài trị quan trọng nhƣ là công xƣởng của các công ty MNEs. Trung Quốc ngày càng trở nên chiếm
một vị trí quan trọng nhƣ là một cơ sở sản xuất lắp ráp ở Đông Á. Trung Quốc nhập các linh kiện và bộ
phận từ các nƣớc Đông Á và xuất khẩu các sản phẩm cuối cùng cho các thị trƣờng ở ngoài khối.
60


HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)
Dựa vào số liệu thống kê thƣơng mại ngành hàng máy móc và thiết bị (SITC 7)- ngành hàng chủ
yếu liên quan đến mạng lƣới sản xuất toàn cầu, các quốc gia xuất khẩu máy móc và thiết bị ở Đông Á
nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore xu hƣớng gia tăng khối lƣợng máy móc thiết bị
sang thị trƣờng các nƣớc ASEAN (Bảng 3).
Bảng 3. Tình hình xuất khẩu nhóm hàng máy móc và thiết bị vào thị trường ASEAN

Nguồn: Tính tốn của tác giả từ cơ sở dữ liệu COMTRADE (2015)

Xuất khẩu linh kiện và bộ phận thuộc nhóm ngành hàng máy móc và thiết bị (SITC 7) đang tăng
nhanh ở khu vực các nền kinh tế Đông Á và các nƣớc ASEAN. Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc là

các quốc gia chính xuất khẩu linh kiện và bộ phận. Nhật Bản và Hàn Quốc là quốc gia sản xuất chính
kiến tạo nên mạng lƣới sản xuất quốc gia ở các nƣớc Đông Á trong khi đó Trung Quốc là nhà máy chế
biến, chế tạo – cơ sở lắp ráp và sản xuất thiết bị và phụ tùng. Các nƣớc lớn trong khối ASEAN nhƣ
Malaysia, Singapore và Thailand đang giữ một vài trò ngày càng quan trọng –nhà xuất khẩu linh kiện và
bộ phận cho ngành hàng máy móc và thiết bị.
Số liệu thống kê cho thấy một tỷ trọng khá lớn linh kiện và bộ phận đƣợc trao đổi thƣơng mại trong
ngành hàng máy móc ở Đơng Á. Tỷ trọng có xu hƣớng giảm theo thời gian chứng tỏ đặc điểm của mạng
lƣới sản xuất thế giới với nhiều cơ sở lắp ráp ở nhiều quốc gia hơn so với một số lƣợng giới hạn các cơ sở
lắp ráp trong thời kỳ đầu tiên (Cheewatrakoolpong và cộng sự. 2013). Nhật Bản là quốc gia có tỷ trọng
61


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
linh kiện và bộ phận ít thay đổi bởi vì quốc gia này liên tục bố trí lại cơ sở sản xuất ở các quốc gia Đông
Á nhằm tận dụng lợi thế chí phí sản xuất thấp, bằng cách này cho phép Nhật Bản tập trung vào việc chế
tạo các linh kiện kỹ thuật cao.
Việt Nam đã và đang tham gia vào mạng lƣới sản xuất tồn cầu thơng qua hoạt động đầu tƣ của các
tập đoàn đa quốc gia MNEs từ các nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Năm 2006, tập
đoàn Intel đầu tƣ 1 tỷ USD xây dựng nhà máy lắp đặt và kiểm tra linh kiện bán dẫn ở Thành phố Hồ Chi
Minh nhƣ là một phần của kế hoạch mở rộng kế hoạch sản xuất toàn cầu. Và kế tiếp là các công ty MNEs
triển khai các dự án đầu tƣ gia công và lắp ráp trong ngành điện tử vào năm 2007. Ngành điện tử hiện tại
ở Việt Nam liên quan chủ yếu đến công việc lắp ráp sử dụng nhiều lao động và hoạt động đóng gói sản
phẩm. Trong thời kỳ 2000-09, ngành điện tử đạt tốc độ tăn trƣởng sản lƣợng khá cao trên 30%) – là nơi
tạo ra nhiều việc làm cho nền kinh tế (Nguyen, 2014)
Số liệu thống kê kim ngạch nhập khẩu các nhóm hàng máy móc và thiết bị văn phịng (SITC 75),
máy móc âm thanh và viễn thơng (SITC 76) và máy móc điện tử (SITC 77) của Việt Nam từ thế giới góp
phần làm sáng tỏ sự tham gia hoạt động nền kinh tế Việt Nam vào mạng lƣới sản xuất toàn cầu (Bảng 4).
Kim ngạch nhập khẩu các nhóm hàng đƣợc phân chia thành (a) linh kiện và bộ phận (parts and
components) (b) sản phẩm cuối cùng (final products). Ngoài các sản phẩm cuối cùng phục vụ thị trƣờng
ngƣời tiêu dùng cuối cùng, các doanh nghiệp của Việt Nam đã nhập khẩu một tỷ trọng khá lớn các linh

kiện và bộ phận phục vụ q trình lắp ráp và hồn chỉnh các sản phẩm máy móc.
Bảng 4. Kim ngạch nhập khẩu một số ngành hàng máy móc và thiết bị của Việt Nam

Nguồn: Tính tốn của tác giả từ cơ sở dữ liệu COMTRADE (2015)

Xu thế thƣơng mại linh kiện và bộ phận này xuất phát từ việc hình thành mạng lƣới sản xuất ở các
quốc gia Đơng Á. Dịng vốn FDI từ các công ty MNEs ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ cũng với xu thế
xuất khẩu hàng hóa trung gian (intermediate goods) đã tăng nhanh trong các thập niên vừa qua. Các công
ty MNEs ở Nhật Bản, Hàn Quốc tập trung sản xuất các bộ phận thâm dụng công nghệ, hoặc linh kiện có
giá trị gia tăng cao và xuất khẩu các linh kiện và bộ phận sang các quốc gia có tiền lƣơng thấp hơn để lắp
ráp. Các quốc gia có tiền lƣơng thấp sản xuất các bộ phận thâm dụng lao động và lắp ráp sản phẩm để
xuất khẩu. Địa điểm đầu tƣ của các công ty MNEs đầu tiên là Hàn Quốc và Đài Loan. Gần đây, các công
ty này đã dịch chuyển dự án đầu tƣ sang các quốc gia Đông Nam Á nhằm tận dụng chi phí lao động thấp.
Dựa vào tính năng động của FDI, Trung Quốc và Việt Nam đã và đang là điểm đến các công ty MNEs
lựa chọn địa điểm đầu tƣ.
4. Kết luận
62


HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)
Nghiên cứu này sử dụng số liệu thống kê thƣơng mại làm rõ mơ hình thƣơng mại giữa các thành
viên của khối ASEAN. Kết quả cho thấy thƣơng mại với bên ngoài khối ASEAN đƣợc thúc đẩy bởi mạng
lƣới sản xuất quốc tế trong khu vực. Kết quả chỉ rõ xu hƣớng tăng lên của xuất khẩu linh kiện và bộ phận
trong nhóm ngành hàng máy móc và thiết bị trong khu vực ASEAN. Tỷ trọng linh kiện và bộ phận xuất
khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu cũng gia tăng. Số liệu nhập khẩu vào Việt Nam cho thấy bên cạnh
nhập khẩu các sản phẩm phục vụ thị trƣờng ngƣời tiêu dùng cuối cùng, các doanh nghiệp đã nhập khẩu
một số lƣợng đáng kể linh kiện và bộ phận để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Hoạt động đầu tƣ của các
cơng ty MNEs tại Việt Nam đóng góp đáng kể vào xu thế nhập khẩu các linh kiện này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Abonyi, G. 2006, ‗Linking Greater Mekong Subregion Enterprises to International Markets: The

Role of Global Value Chains, International Production Networks and Enterprise Clusters‘, Studies in
Trade and Investment No.59 United Nations Economic and Social Commission for Asia and the
Pacific.
[2] ADB. 2007, ‗Is Intra-Asian Trade Growth Driven by Independent Regional Demand‘, Asian
Development Outlook 2007, Asian Development Bank.
[3] ASEAN Secretariat and the World Bank 2013, ‗ASEAN Integration Monitoring Report‘, Jakarta:
ASEAN Secretariat and Washington, D.C.: World Bank.
[4] Athukorala, P.2009, Economic Transition and Export Performance in Vietnam, Asean Economic
Bulletin, Vol 26(1), 96-114,
[5] Athukorala, P. 2010, ‗Production Networks and Trade Patterns in East Asia: Regionalization or
Globalization?‘ ADB Regional Economic Integration Working Paper Series. No.56.
[6] Chewatrakoolpong, Sabhasri, and Bunditwattanawong 2013, ‗Impacts of the ASEAN Economic
Community on ASEAN Production Networks‘, ADBi Working Paper Series, ADB Institute.
[7] Elliot, Robert J.R and Kengo Ikemoto (2004), ‗AFTA and the Asian Crisis: Help or hindrance to
ASEAN intra-regional trade?‘, Asian Economic Journal, 18(1), 1-33.
[8] Nguyen, Trung Kien 2009, ‗Gravity Model by Panel Data Approach‘, ASEAN Economic Bulletin,
26(3), 266-277.
[9] Nguyen, Trung Kien 2014, ‗Economic reforms, manufacturing employment and wages in Vietnam‘,
PhD dissertation, ANU.
[10] Okabe, Misa and Shujiro Urata 2014, ‗The impact of AFTA on intra-AFTA trade‘, Journal of Asian
Economics, 35, 12-31.
[11] Ramstetter, D.Eric & Archanun Kophaiboon 2015, ‗The Effects of ASEAN Economic Community
2015 on Industries and Kitakyushu and Shimonoseki‘, Working Paper Series Vol. 2015-04.

63



×