Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ trong thể ký thương nhớ mười hai của vũ bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.17 KB, 65 trang )

tr-ờng đại học vinh
khoa ngữ văn
====o0o ====

nguyễn thị thu huyền

đặc điểm ngôn ngữ trong thể ký Th-ơng
nhớ m-ời hai của Vũ bằng

tóm tắt khoá luận tốt nghiệp đại học

vinh 5. 2008.

1


Phần mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vũ Bằng (1913 - 1984) là nhà văn rất nặng lòng với nghiệp văn
ch-ơng. Ông hoạt động trên khá nhiều lĩnh vực: báo chí, sáng tác văn ch-ơng,
viết chân dung nhà văn, viết tiểu luận phê bình ở lĩnh vực nào, ông cũng đạt
đ-ợc những thành công nhất định. Riêng trong lĩnh vực văn ch-ơng, ông để lại
một khối l-ợng tác phẩm khá lớn, trong đó có nhiều tác phẩm có giá trị nh- :
Th-ơng nhớ m-ời hai, Miếng ngon Hà Nội, Bốn m-ơi năm nói láo, Miếng lạ
miền Nam Ông luôn có ý thức tìm tòi, sáng tạo để làm mới cho văn ch-ơng,
kiến tạo những nét độc đáo riêng, không lặp lại ngay cả trong một tác phẩm.
D-ờng nh- văn ch-ơng của ông luôn vận động, chuyển mình không ngừng. Có
thể nói, Vũ Bằng là nhà văn góp phần thúc đẩy sự đa dạng của văn xuôi Việt
Nam. Tuy nhiên, cuộc đời của ông lắm thăng trầm, bí ẩn, nên vị trí và những
đóng góp của Vũ Bằng chỉ mới đ-ợc khẳng định lại vào tháng 3 năm 2000, khi


Bộ Quốc phòng xác nhận sự thật về nhà văn. Đó cũng là lý do khiến cho tác
phẩm Vũ Bằng ch-a đến nhiều với độc giả.
1.2. Th-ơng nhớ m-ời hai đ-ợc Vũ Bằng sáng tác trong 12 năm (1960 1971), một quÃng thời gian khá dài. Khẳng định về giá trị của tác phẩm này,
Văn Giá cho rằng : Ngay cả ng-ời đọc khó tính nhất cũng phải thừa nhận
Th-ơng nhớ m-ời hai là một tác phẩm thật sự đặc sắc trong nền văn học Việt
Nam hiện đại [9, tr. 59]. Quả thật, Th-ơng nhớ m-ời hai là một tác phẩm đà để
lại ấn t-ợng khá sâu sắc ngay từ lần đầu tiếp xúc với đoạn trích Tháng ba - rét
nàng Bân trong ch-ơng trình chuyên ban Khoa học xà hội. ấn t-ợng đó càng
đ-ợc khẳng định khi chúng tôi đ-ợc tiếp xúc trọn vẹn tác phẩm.
Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trong Th-ơng nhớ m-ời hai, chúng tôi mong
muốn góp thêm một cách nhìn về đặc điểm ngôn ngữ của tác phẩm, đồng thời

2


nhận biết một vài nét đặc thù của ngôn ngữ của một thể loại văn học khá mới
mẻ: thể loại hồi ký trữ tình.
Th-ơng nhớ m-ời hai là tác phẩm thiên về tính tự biểu hiện. Đặt trong bối
cảnh cảnh văn hoá, Th-ơng nhớ m-ời hai có mối quan hệ gần gũi với nhiều tác
phẩm của các nhà văn tên tuổi nh- Thạch Lam, Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Băng
Sơn. Do vậy có thể lấy Th-ơng nhớ m-ời hai làm đối t-ợng so sánh với các tác
phẩm trên để thấy đ-ợc sự phong phú trong việc biểu hiện cảnh sắc và h-ơng vị
đất n-ớc của văn học Việt Nam hiện đại. Từ đó, để thấy rõ hơn sự chi phối, ảnh
h-ởng lớn của bản sắc văn hóa dân tộc tới sáng tác văn học. Đó cũng là một
trong những lý do chúng tôi chọn tìm hiểu tác phẩm này.
Đặc điểm ngôn ngữ trong Th-ơng nhớ m-ời hai của Vũ Bằng là đề tài có
ý nghĩa thiết thực. Nhìn từ góc độ ngôn ngữ, chúng tôi cố gắng hiểu sâu hơn
những tâm t-, hoài niệm tác giả. Khảo sát sâu hơn khía cạnh ngôn ngữ của tác
phẩm ở, góp một phần .
2.


Lịch sử vấn đề
Sáng tác đầu tiên của Vũ Bằng là truyện ngắn Con ngựa già đăng trên

mũc Bủt mỡi của báo Đông Tây năm 1930. Từ đó cho đến cuối đời, Vũ Bằng
cho ra mắt bạn đọc một khối l-ợng tác phẩm đồ sộ. Nh-ng đến nay, theo Văn
Giá, số l-ợng tác phẩm tìm đ-ợc của ông mới đ-ợc hơn một nửa. Do vậy, việc
nghiên cứu Vũ Bằng ch-a t-ơng xứng với giá trị tác phẩm của ông để lại. Theo
thống kê của Văn Giá, tính đến năm 2000 mới có 26 bài viết về Vũ Bằng và tác
phẩm của ông.
Ng-ời đầu tiên viết về Vũ Bằng là Vũ Ngọc Phan trong nhà văn hiện đại.
Vũ Ngọc Phan xếp Vũ Bằng vào hàng các tiểu thuyết gia tại ch-ơng tiểu thuyết
tả chân. Từ đó đến năm 1969 mới có thêm một bài giới thiệu về Vũ Bằng của
Th-ợng Sỹ. Đó là lời nói đầu cho cuốn 40 năm nói láo. Năm 1970 Tạ Tỵ cho ra
mắt cuốn M-ời khuôn mặt văn nghệ, trong đó, tác giả gọi Vũ Bằng là Ng-êi trë

3


về từ cõi đam mê. Vũ Bằng đ-ợc đánh giá là một trong m-ời khuôn mặt nổi bật
lúc bấy giờ.
Từ đó đến tr-ớc năm 2000, ch-a có một bài nào nghiên cứu về con ng-ời
và tác phẩm Vũ Bằng một cách hệ thống. Năm 1999 có nhiều bài viết đăng trên
các báo nh- Văn nghệ, Phụ nữ thành phố Hồ Chí MinhSong các bài viết này
cũng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số vấn đề trong tác phẩm của ông. Chỉ
đến công trình Vũ Bằng Bên trời th-ơng nhớ của Văn Giá, chúng ta mới có
đ-ợc cái nhìn t-ơng đối hệ thống và toàn diện về Vũ Bằng. Trong công trình
này, ngoài bài viết Thân phận và danh tiết giới thiệu khá kỹ về cuộc đời, tác
phẩm của Vũ Bằng, Văn Giá còn trích những bài viết có giá trị về Vũ Bằng và
Th-ơng nhớ m-ời hai. Sau đó là in các truyện ngắn của Vũ Bằng tr-ớc và sau

cách mạng. Số ít trong cuốn dành giới thiệu th- mục tác phẩm, th- mục nghiên
cứu Vũ Bằng. Song như Văn Gi đ nõi, đõ mỡi chì l nẽt phc tho bưỡc đầu
về Vũ Bằng. Trong một t-ơng lai gần, chắc chắn sẽ có những công trình nghiên
cứu toàn diện, đầy đủ và chi tiết hơn.
Về Th-ơng nhớ m-ời hai, đà có một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí
nh- : Vũ Bằng - Th-ơng nhớ m-ời hai (Tô Hoài, Tạp chí văn học số 1/1991),
Tháng ba - đi tìm thời gian đà mất (Đặng Anh Đào, Tiếng nói tri âm, tập hai
Nxb Trẻ TPHCM, 1996), Khúc nhạc hồn non n-ớc (Văn Giá - Vũ Bằng bên trời
th-ơng nhớ, Nxb Văn hoá Thông tin, 2000), Th-ơng nhớ m-ời hai và một cảnh
quan văn hoá độc đáo (V-ơng Trí Nhàn, Cánh b-ớm và hoa h-ớng d-ơng)
Năm 1989, khi cuốn Th-ơng nhớ m-ời hai đ-ợc tái bản, ra mắt bạn đọc
thì tên tuổi Vũ Bằng đ-ợc gắn liền với tác phẩm, và gắn liền với những lời ngợi
khen nồng nhiệt.
Giáo s- Hoàng Nh- Mai - ng-ời viết lời giới thiệu Th-ơng nhớ m-ời hai
có lẽ là ng-ời đầu tiên đà lên tiếng khẳng định ngợi ca sức hấp dẫn của tác
phẩm. Bằng năng lực cảm nhận văn ch-ơng tinh tế, ông đà chỉ ra hai yếu tố cơ
bn nhất to nên sửc cuỗn hủt cùa tc phẩm l¯ “tÊm lßng” v¯ “ngßi bđt t¯i hoa”
cïa t²c gi°: Dợ phi thích nghi với hoàn cảnh chính trị nh- thế nào đấy, cuốn

4


sách vẫn bày tỏ rất rõ tâm sự của một ng-ời con miền Bắc nhớ da diết quê h-ơng
bên kia giíi tun. ChÝnh tÊm lßng Êy cïng víi ngßi bót tài hoa của Vũ Bằng
làm nên giá trị văn ch-ơng của tác phẩm này. Nó hấp dẫn chúng ta từng dòng
túng trang. Ông nhấn mnh cuỗn sch còn cõ ỷ nghĩa như mốt nhịp cầu giao
lưu văn ho vệ nõ ®± giìi thiÕu “nhõng s°n vËt tóng th²ng ê miĐn Bắc nưỡc ta
gõp phần làm cho bạn bè năm châu hiểu biết thêm một khía cạnh đặc sắc của
nưỡc mệnh v¯ “l¯m cho chđng ta câ û thưc tr©n trãng hơn đỗi vỡi nhừng gi trị
cùa quê hương [8, tr.6]. Bng nhừng lội lẻ kh thận tróng v kín đo ông đ nêu

đ-ợc nét đẹp của áng văn ch-ơng và sức hấp dẫn nó là nỗi nhớ quê h-ơng da
diết.
Năm 1994, đoạn trích Tháng ba rét nàng Bân của tác phẩm đà đ-ợc đ-a
vào ch-ơng trình lớp 12 Ban khoa học xà hội, phần đọc thêm. Tạp chí Kiến thức
ngày nay đà mở cuộc thi bình văn trong đó đề thi chính là đoạn trích này. Điều
đó có nghĩa là Th-ơng nhớ m-ời hai đà đ-ợc thừa nhận và có một vị trí xứng
đáng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Cũng từ đó xuất hiện rất nhiều ý
kiến bình và đánh giá về tác phẩm.
Đọc đoạn văn Tháng ba rét nàng Bân, Nguyễn Thị Thanh Xuân đà khám
ph ra v đép trừ tệnh một nhân tình hào hoa, lịch lÃm, biết sống đẹp và cảm
ng-ời yêu của mình đến từng chân tơ kẽ tóc. Tc gi cũng chú ý đến nguồn
mch to nên ci đép cùa tc phẩm: Cái đẹp nh- đà thấy qua tháng ba rét nàng
Bân vốn có từ cuộc sống nh-ng cũng là phát hiện riêng của tâm hồn nhà văn,
chính ci kỳ diệu ấy đ làm nên tác phẩm văn ch-ơng để đời [24]. Đặng
Anh Đào lại ca ngợi hết lời về cảnh sắc thiên nhiên trong đoạn văn, coi đó là
cuỗn phim ảnh màu tuyệt đẹp vẹ những biến động tinh tế của cỏ cây non
nưỡc. Nhìn chung, có rất nhiều lời nhận xét về đoạn trích. Và các tác giả chỉ
dừng lại phân tích cái đẹp của thiên nhiên ở một ch-ơng mà ch-a bao quát hết
toàn bộ tác phẩm.
Ng-ời dành nhiều tâm huyết nhất khi đi hiểu về Vũ Bằng là Văn Giá. Về
tác phẩm Th-ơng nhớ m-ời hai, Văn Giá khẳng định Vũ Bằng là một nhà văn tài

5


năng và xuất sắc trên nhiẹu phương diến: Ngòi bút của ông tựa nh- một con
dao pha sắc nưỡc vúa tho nghẹ vúa cần mẫn [22, tr.22]. V Bng đ tri gấm
hoa lên nhừng trang văn. V trang văn dnh đề nhỡ vẹ loi hoa sầu đâu xứ Bắc
phi nõi l tuyết bủt [22, tr.127]. Văn Gi li khàng định: Vỡi nhừng tc phẩm
hồi kí trữ tình này, ông đà có một vị trí chắc chắn trong nền văn xuôi Việt Nam

hiện đại. Lịch sử thể loại hồi kí nằm trong lịch sử văn học Việt Nam phải nhắc
đễn ông như mốt sữ đõng gõp quan tróng không thề thiễu đước [22, tr.85].
Nhìn lại những ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy những công trình, bài báo
nghiên cứu về Vũ Bằng và sáng tác của ông nhìn chung là ch-a t-ơng xứng với
sự nghiệp văn học ông để lại. Song các tác giả đều thống nhất trong việc đánh
giá Vũ Bằng là nhà văn lớn có nhiều cống hiến cho nền văn học n-ớc nhà.
Th-ơng nhớ m-ời hai là tác phẩm xuất sắc nhất của Vũ Bằng, là một trong
những tuỳ bút đặc sắc nhất của văn học Việt Nam. Nói nh- nhà văn Nguyễn
Minh Châu thì bây giờ sách văn học rất nhiều nh-ng tìm những quyển nhTh-ơng nhớ m-ời hai khó lắm bời sách hay đâu mà sẵn thế. Th-ơng nhớ
m-ời hai là cuốn sách có vẻ đẹp đặc biệt và có sức hấp dẫn với bạn đọc. Đặc biệt
ngôn ngữ của tác phẩm man mác chất thơ, nhẹ nhàng mà lắng đọng, ru lòng
ng-ời trở về với kí ức m-ời hai tháng thấm đẫm tinh hoa, linh hồn dân tộc.
Chính vì vậy Th-ơng nhớ m-ời hai không chỉ đẹp bởi những cảnh sắc thiên
nhiên của xứ Bắc đ-ợc miêu tả trong tác phẩm mà nổi bật trên đó chính là vẻ
đẹp của ngôn ngữ.
Trong luận văn này chúng tôi chỉ xin nêu một số nét đặc sắc, độc đáo của
ngôn ngữ tác phẩm - cái đẹp làm ph-ơng tiện biểu hiện của mọi cái đẹp. Cũng từ
đó có thể hiểu rõ hơn giá trị tác phẩm và vị trí của nhà văn.
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong Th-ơng nhớ m-ời hai
Là một tác phẩm kí với đặc tr-ng thể loại là phản ánh chân xác hiện
thực cuộc sống nh-ng Th-ơng nhớ m-ời hai lại đ-ợc viết bằng tình yêu và
nỗi nhớ, bằng cảm hứng lÃng mạn, bằng cảm xúc thơ. Và tất yếu lời văn
của tác phẩm cũng thấm đẫm chất thơ. Tuy nhiên lời văn giàu chất thơ

6


không phải là nét riêng biệt của Th-ơng nhớ m-ời hai mà đó là đặc điểm
chung của thể loại tuỳ bút. Cái đặc sắc của Vũ Bằng là ông đà tạo chất thơ
cho tác phẩm bằng những câu văn, những hình ảnh mang vẻ đẹp riêng độc

đáo. Tr-ớc hết, chúng tôi nhận thấy câu văn trong Th-ơng nhớ m-ời hai
phần lớn là câu dài, nhiều thành phần mở rộng, nhịp nhàng cân đối. Nhiều
câu có cách diễn đạt, cách dùng hình ảnh rất giống với cấu tứ của ca dao.
Ví dụ: Ai bảo đ-ợc non đừng th-ơng n-ớc, b-ớm đừng th-ơng hoa, trăng
đừng th-ơng gió, ai cấm đ-ợc trai th-ơng gái, ai cấm đ-ợc mẹ yêu con, ai
cấm đ-ợc cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết đ-ợc ng-ời mê luyến mùa
xuân [13, tr.16]. Tác giả còn sử dụng những câu cảm thán, câu hỏi tu từ,
trực tiếp bộc lộ cảm xúc : Đẹp quá đi mùa xuân ơi []. Ngôn ngữ
Th-ơng nhớ m-ời hai không chỉ ở bó hẹp trong việc thể hiện các tr-ờng
cảm xúc, cảm giác mà còn giàu hình ảnh ở tr-ờng ẩm thực. Vũ Bằng đà so
sánh việc phối hợp gia vị trong các món ăn thật độc đáo món r-ơi mà
thiếu vỏ quýt thì sẽ như non thiếu nước, trăng thiếu hoa, gái thiếu trai.
Cách dùng từ ngữ, cách tạo lập câu văn, miêu tả hình ảnh đặc sắc ấy đÃ
mang đến cho ngôn ngữ của tác phẩm một vẻ đẹp tự nhiên, dung dị, với
chất trữ tình đằm thắm.
Với những đặc điểm trên, Vũ Bằng thực sự đà tạo cho mình một phong
cách nghệ thuật độc đáo và đặc sắc trong thể loại kí. Có thể thấy Vũ Bằng
là cây bút tài hoa.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Đề tài đ-ợc giải quyết d-ới góc độ ngôn ngữ. Trên cơ sở điểm lại những
đặc tr-ng của ngôn ngữ nghệ thuật, luận văn đi vào khảo sát nghiên cứu văn bản
tác phẩm, kết hợp các yếu tố nh- thân thế và hoàn cảnh cá nhân những yếu tố có
thể tác động tới ngòi bút, qua đó có cái nhìn bao quát về cách thức sử dụng ngôn
ngữ trong Th-ơng nhớ m-ời hai. Tìm hiểu về ngôn ngữ, luận văn không đi sâu
vào lý giải các đặc tr-ng ngôn ngữ mà chỉ nêu ra một số lý thuyết ngôn ngữ căn

7


bản liên quan trực tiếp đến đề tài. Đặc biệt, chúng tôi sẽ đi vào thể loại ký ở

ph-ơng diện khái niệm và đặc điểm ngôn ngữ thể kí sau khi đà tham khảo một
số ý kiến của các nhà nghiên cứu đi tr-ớc. Những quan niệm đó sẽ làm cơ sở
cho quá trình nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ trong tác phẩm Th-ơng nhớ
m-ời hai.
Tiếp cận tác phẩm Th-ơng nhớ M-ời hai chúng tôi đi sâu vào khai thác
đặc điểm từ ngữ, câu văn và các phép tu từ trong tác phẩm.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát của luận văn là tác phẩm Th-ơng nhớ m-ời hai của Vũ
Bằng.
5. Ph-ơng pháp nghiên cứu
Ph-ơng pháp nghiên cứu chủ yếu trong luận văn là: ph-ơng pháp phân tích,
ph-ơng pháp hệ thống, ph-ơng pháp thống kê, ph-ơng pháp so sánh đối chiếu.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm những ch-ơng sau:
Ch-ơng 1: Giới thuyết những vấn đề lên quan đến đề tài
Ch-ơng 2: Từ ngữ trong Th-ơng nhớ m-ời hai
Ch-ơng 3: Câu văn và các phép tu từ trong Th-ơng nhớ m-ời hai
Sau cùng là Tài liệu tham khảo

8


Ch-ơng 1
một số vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài

1.1. Đặc tr-ng ngôn ngữ nghệ thuật và vấn đề phong cách ngôn ngữ tác
giả
1.1.1. Đặc tr-ng của ngôn ngữ nghệ thuật
Mỗi một bộ môn nghệ thuật đều có chất liệu riêng. Đối với văn học, ngôn
từ đ-ợc xem là chất liệu xây dựng nên hình t-ợng nghệ thuật, cho nên văn học

đ-ợc xem là nghệ thuật ngôn từ. Chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ trong các
văn bản nghệ thuật đ-ợc thể hiện ở chỗ tín hiệu ngôn ngữ trở thành yếu tố tạo
nên hình t-ợng. Muốn thực hiện chức năng thẩm mỹ, ngôn ngữ nghệ thuật phải
có những đặc tr-ng chung: Tính cấu trúc, tính hình t-ợng, tính cá thể hoá, tính
cụ thể hoá.
1.1.1.1. Tính cấu trúc
Mỗi văn bản nghệ thuật tự thân nó là một cấu trúc. Các thành tố nh- nội
dung t- t-ởng, tình cảm, hình t-ợng và các thành tố hình thức diễn đạt không
những phụ thuộc lẫn nhau mà còn phụ thuộc vào hệ thống nói chung. Sự lựa
chọn, cấu tạo và tổ hợp những thành tố này bị quy định bởi chức năng thẩm mỹ
của các tác phẩm. Tính cấu trúc của tác phẩm là tính chất mà theo đó, các yếu tố
trong một tác phẩm phải gắn bó qua lại với nhau, giải thích cho nhau và hỗ trợ
cho nhau để đạt tới hiệu quả diễn đạt. Tất cả các yếu tố đó nằm trong một hệ
thống, làm cho văn bản có kết cấu chặt chẽ, lô gíc từ đó tác động đến ng-ời tiếp
xúc văn bản một cách mạnh mẽ. Chỉ cần bỏ đi một từ hay thay bằng một từ khác
là đủ làm hỏng cả một câu thơ, phá tan nhạc điệu của nó, từ đó làm cho câu văn
câu thơ lủng củng, khó hiểu và có sự mâu thuẫn với toàn văn bản.

9


Tính cấu trúc của ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật là một phạm trù
liên kết tất cả các ph-ơng tiện ngôn ngữ hết sức đa dạng trong tác phẩm thành
một chỉnh thể nghệ thuật. Cái phạm trù đó, theo viện sĩ V.V.Vinogơrađốp là
phm trợ hình t-ợng tác giả. Phạm trù hình t-ợng tác giả có thể hiểu là ng-ời
sáng tạo ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm, và là ng-ời đại diện bởi ý định
thẩm mỹ, bởi chủ đề t- t-ởng tác phẩm.
1.1.1.2. Tính hình t-ợng
Trong ngôn ngữ học, đặc biệt là trong phong cách học, tính hình t-ợng theo
nghĩa rộng nhất có thể xác định là thuộc tính của lời nói truyền đạt không chỉ

thông tin lôgíc mà còn cả thông tin đ-ợc tri giác một cách cảm tính nhờ hệ
thống những hình t-ợng ngôn từ. Còn bản thân hình t-ợng ngôn từ đầu tiên có
thể đ-ợc xác định nh- là mảnh đạn của lời nói, mang thông tin hình t-ợng
không t-ơng đ-ơng với ý nghĩa của những yếu tố đ-ợc lấy tách riêng ra của
mảnh đoạn đó cộng lại. Một từ trong tác phẩm nghệ thuật không thể đ-ợc coi
ngang bằng nh- từ của ngôn ngữ thực hành, vì trong văn bản nghệ thuật, từ có
hai bình diện có mối t-ơng quan đồng thời cả với những từ của ngôn ngữ văn
hoá nói chung, và những yếu tố của văn bản nghệ thuật nói riêng.
1.1.1.3. Tính cá thể hoá
Tính cá thể hoá của ngôn ngữ nghệ thuật ngôn từ đ-ợc hiểu là phong cách
tác giả trong ngôn ngữ nghệ thuật. Dấu ấn phong cách tác giả thuộc về đặc điểm
bản chất, thuộc về điều kiện bắt buộc của ngôn ngữ nghệ thuật. Nó không đ-ợc
đặt ra với ngôn ngữ phi nghệ thuật.
Dấu ấn phong cách tác giả chỉ có thể có trong tác phẩm nghệ thuật với tcách là một thể thống nhất của cấu trúc tu tõ häc, mét hƯ thèng tu tõ häc hoµn
chØnh đ-ợc liên kết lại bởi hình t-ợng tác giả, bởi ý định thẩm mỹ, bởi chủ đề tt-ởng tác phẩm.
Tính cá thể hoá của tác phẩm đ-ợc thể hiện ngay ở ngôn ngữ tác giả. Đó
là sự vận dụng sở tr-ờng, thị hiếu, tập quán, tâm lý, xà hội, cá tính mà hình
thành giọng nói riêng, cái của ngôn ngữ tác giả kể, dẫn chuyện hoặc nói về

10


mình. Đối với nhà văn, mỗi ng-ời có giọng điệu riêng nhằm khẳng định phong
cách. SêKhốp đà nhận định: Nếu tác giả nào không có cái riêng của mình thì
ng-ời đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả.
Tóm lại, tính cá thể là cái độc đáo, đặc sắc, không lặp lại, cái riêng của tất
cả các yếu tố trong sáng tác, lối nghĩ, lối cảm, lối thể hiện, những đặc điểm
trong cách sử dụng từ ngữ, ngữ pháp, kết cấu đoạn mạch trong biện pháp tu từ.
Ngôn ngữ riêng của một nhà văn, bút pháp riêng của một nhà văn không phải là
sự kiện rời rạc bao gồm một số l-ợng đổi mới ở các cấp độ. Nó là mét sù ®i

chÕch cïa mèt c²i to¯n thỊ câ hÕ thỗng so vỡi ci ton thề cùa ngôn ngừ
chung.
1.1.1.4. Tính cụ thể hoá
Ngôn ngữ nghệ thuật có một thuộc tính chung nhất là sự cụ thể hoá hình
t-ợng nghệ thuật. Sự cụ thể hoá hình t-ợng nghệ thuật là từ bình diện khái niệm
của ngôn ngữ sang bình diện hình t-ợng. Sự cụ thể hoá này có tính chất tổng
hợp, nó đ-ợc diễn đạt trong hệ thống hoàn chỉnh của ph-ơng tiện ngôn ngữ
thuộc các cấp độ khác nhau, vốn góp phần vào việc tác động đến trí t-ởng t-ợng
của ng-ời đọc, kích thích ng-ời đọc, làm hiện ra tr-ớc mắt ng-ời đọc bức tranh
phong phú, sinh động, các biến cố hiện lên trong từng giai đoạn từng vận động,
từng trạng thái, trong sự biến đổi liên tục.
Tính cụ thể hoá trong nghệ thuật là thuộc tính rộng lớn nhất cu¶ lêi nãi nghƯ
tht. Nã gi¶i thÝch b¶n chÊt sù tác động của từ ngữ nghệ thuật đến ng-ời đọc.
Chức năng của tính cụ thể hoá là giải thích đặc tr-ng của lời nói nghệ thuật nhlà đặc tr-ng của hoạt động sáng tạo, nhằm giải thích những bí mật của quy luật
sáng tạo nghệ thuật. Sự cụ thể hoá trong nghệ thuật đ-ợc thực hiện nhờ cách lựa
chọn và tổ chức các ph-ơng tiện ngôn ngữ sang bình diện hình t-ợng của tác
phẩm có thể ở tất cả các cấp độ ngôn ngữ.
Ngôn ngữ trong văn học phải có tính cô đọng, hàm súc, nói ít gợi nhiều, bản
thân tính chính xác nó quy định tính cô đọng hàm súc. Nhà văn khi sử dụng
ngôn ngữ trong tác phẩm phải chặt chẽ, khúc chiết mà cụ thể hơn là ngôn ngữ

11


văn hóc phi lời chặt, ý rộng l lời đà hết, ý không cùng đề li nhiều ấn
t-ợng trong tâm hồn ng-ời đọc.
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học đi sát với cuộc sống, nó có khả năng đề
cập và phản ánh những tính chất đa dạng của đời sống. Nhà văn Buskin đà nhận
định Sự chính xác gọn gàng là những phong cách đần tiên của tiểu thuyết,
truyến ngắn, kỷ. Điẹu đõ cõ nghĩa l ngôn ngừ trong tc phẩm văn xuôi là ngôn

ngữ gọn gàng, khúc chiết của t- duy.
1.1.2. Phong cách ngôn ngữ tác giả
Sáng tác văn học nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần, theo ph-ơng
thửc cá thể , không phải sản xuất theo dây chuyền, có quy trình công nghệ
nh- sản xuất công nghiệp. Hơn bất kỳ hình thức lao động nào khác, nó đòi hỏi
cá tính sáng tạo của ng-ời nghệ sĩ. Chính vì vậy mà nhà thơ Tố Hữu đà nói :
Mổi ngưội cõ cch lm cùa mệnh, cách sáng tạo của mình, không bắt ch-ớc ai
đước[10, tr 209]. Qu vậy, trong sng tc văn hóc mỗi nhà văn là một cá thể
riêng. Nhiều khi chỉ cần đọc một tập thơ, hay một truyện ngắn, ng-ời đọc cũng
có thể nhận diện đ-ợc chù nhân của tác phẩm đó. Bởi mỗi tác phẩm đều in
đậm dấu ấn phong cách tác giả. Nh văn Macxel Prut đ nõi: Đỗi vỡi nh văn,
nhà thơ, phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn. Đó là
sự khám phá ng-ời ta không thể làm một cách cố ý và trực tiếp, bởi đó là một
cách khám phá về chất, chỉ có đ-ợc trong cách cảm nhận về thế giới, trong cách
biều đt nối dung v trong cch sụ dũng ngôn ngừ .
Nh- vậy phong cách có đ-ợc là phải trải qua một quá trình sáng tác mà gắn
với thế giới quan, với phẩm chất và nhân cách nhà văn. Trong quá trình tìm hiểu
phong cách tác giả, chúng ta có thể thấy đ-ợc nét đặc thù, cái nhìn độc đáo riêng
biệt của ng-ời nghệ sĩ thể hiện ở sự thống nhất t-ơng đối ổn định của hệ thống
hình t-ợng, của các yếu tố ngôn ngữ, các ph-ơng tiện biểu hiện nghệ thuật trong
quá trình sáng tạo của tác giả. Tất cả dấu hiệu phong cách ấy đúc kết tác phẩm
hoàn chỉnh, có tính chỉnh thể, giọng điệu, và một phong thái thống nhất với đầy
đủ hình thøc nghƯ tht cđa nã.

12


Phong cách tác giả có tính độc đáo bền vững nh-ng cũng có sự phát triển
đổi mới. Chẳng hạn nh- nhà thơ Huy Cận với ngòi bút hiện thực độc đáo sau
cách mạng khác hẳn với Huy Cận phảng phất lÃng mạn tr-ớc cách mạng. Hay

Nguyễn Tuân với thể tuỳ bút sau cách mạng đầy cá tính khác với Nguyên Tuân
tr-ớc cách mạng. Trong rất nhiều yếu tố biểu hiện phong cách tác giả, ngôn ngữ
đóng một vai trò nổi bật. Nó thể hiện qua cách sử dụng từ ngữ, câu, kết cấu
đoạn, những biện pháp tu từ trong tác phẩm của một nhà văn.
Trong cái chung rộng lớn lại có cái riêng cá thể cũng nh- ngôn ngữ là của
chung mỗi cộng đồng dân tộc, nh-ng vận dụng ngôn ngữ là cái riêng của từng
ng-ời do sở tr-ờng, cá tính, thị hiếu, tập quán, sở thích, tâm lý do quá trình rèn
luyện của tác giả cũng nh- cách diễn đạt khác nhau của từng tác phẩm. Đối với
mỗi nhà văn nhà thơ, giọng văn riêng quyết định phong cách. Một nhà nghiên
cửu văn hóc Nga đ nhận định rng: Nễu tc gi no không cõ cch diển đt
riêng, không có ngôn ngữ của mình thì ng-ời đó sẽ không bao giờ thành nhà
văn, nh thơ c. Chính vì vậy, mỗi nhà văn đều phải tạo cho mình cách nói
riêng, giọng văn riêng, không lặp lại ng-ời đi tr-ớc.
1.2. Thể loại ký và một số đặc điểm của ngôn ngữ ký
1.2.1. Thể loại ký
Ký là một thể loại văn học đồng đẳng với tự sự, kịch, trữ tình. Ký đà góp
phần xửng đng vo sữ pht triền chung cùa văn hóc. Cõ thề thấy kỷ l v khí
nhẹ, cơ động và hiệu lực, có thể xông xáo trên tất cả các mặt trận của chiến
trưộng [20, tr.187]. Những tác phẩm ký nh- ë mÜ cđa Gorki, M-êi ngµy rung
chun thÕ giới của Giôn Rít, Viết d-ới giá treo cổ của Phuxích đà v-ợt qua biên
giới của đất n-ớc, chiếm đ-ợc cảm tình của đông đảo bạn đọc thế giới. Trong
văn học Việt Nam, chỉ tính riêng từ cách mạng tháng Tám đến nay cũng có rất
nhiều tác phẩm ký đ-ợc xếp vào hàng ngũ tác phẩm xuất sắc phản ánh những
nét đẹp của con ng-ời Việt Nam, những nét đẹp trong đời sống tinh thần phong
phú và đời sống lịch sử sôi động của dân tộc. Chúng ta có thể kĨ ®Õn TrËn phè

13


Ràng của Trần Đăng, ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy T-ởng, Tuỳ bút kháng

chiến và Sông Đà của Nguyễn Tuân, Sống nh- anh của Trần Đình Vân, Ng-ời
mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên, Họ sống
và chiến đấu, Tháng ba Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Đ-ờng lớn của Bùi Hiển,
Rất nhiều ánh lửa của Hoàng Phủ Ngọc T-ờng, Cát bụi chân ai và Chiều chiều
của Tô Hoài. Tô Hoi đ nõi: Kỷ cng như truyến ngắn, truyến di hoặc thơ,
hình thức nó đấy nh-ng vóc dáng nó luôn luôn đổi mới, đòi hỏi sáng tạo và thích
ửng. Cho nên cng chàng nên nhẽt nõ vo mốt ci khuôn.
Tuy nhiên cũng cần phải xác định đặc tr-ng về thể loại của ký. Theo Từ
điển thuật ngữ văn học thì kỷ l mốt loi hệnh văn hóc trung gian nm giừa bo
chí và văn học, gồm nhiều thể. Đối t-ợng nhận thức thẩm mĩ của kí th-ờng là
một trạng thái đạo đức - phong hoá xà hội, thể hiện qua những cá nhân riêng lẻ,
một trạng thái tồn tại của con ng-ời hoặc những vấn đề xà hội nóng bỏng. Kí tôn
trọng sự thật khách quan của đòi sỗng, không hư cấu [tr.111]. ở đây, những kí
đà đ-ợc minh định khá rõ ràng, có søc thut phơc. Song trong thùc tÕ s¸ng t¸c
hiƯn nay, chúng ta thấy phạm vi của kí rộng hơn. Và kí không chỉ là thể loại văn
học trung gian giữa báo chí và văn học, theo Gorki nó còn là thể loại đửng giừa
nghị luận cõ tính chất nghiên cửu v truyến ngắn [20, tr.189]. Giáo trình Lý
luận văn học của tr-ờng Đại học Tổng hợp Hà Nội đà xác định đặc điểm bao
quát cho thể ký khi cho rằng: Cc thề kỷ văn hóc chù yễu l nhừng hệnh thửc
ghi chép linh hoạt trong văn xuôi với nhiều dạng t-ờng thuật, miêu tả, biểu hiện
bình luận về những sự kiƯn vµ con ng-êi cã thËt trong cc sèng, víi nguyên tắc
phi tôn trong tính xc thữc v chủ ỷ đễn tính thội sữ cùa đỗi tướng miêu t
[20, tr. 191]. Chúng tôi nhận thấy việc xác định đặc điểm của kí nh- thế đà giúp
ta phân biệt rõ sự khác biệt của kí với văn học với kí báo chí và các hình thức
ghi chép khác về đời sống.
Theo chúng tôi, kí là một thể văn ghi chép một cách nghệ thuật và chân xác,
bộc lộ những ý nghĩ, cảm xúc, trực tiếp của cá nhân về những sự viÖc, sù vËt,

14



cuộc đời vừa có giá trị thẩm mĩ, có ấn t-ợng lớn với cá nhân ấy, vừa có tính thời
sự, đ-ợc xà hội quan tâm.
Trong kí, thời gian đ-ợc trần thuật luôn luôn có sự hoà trộn hai dòng hiện
tại và quá khứ. Nếu tác phẩm thiên về ghi chép những sự kiện đà xảy ra trong
quá khứ nó sẽ là hồi ký. Trong ký ta còn thấy có sự kết hợp chặt chẽ dòng sự
kiện, sự việc và dòng t- t-ởng, tình cảm. Nếu tác phẩm thiên về miêu tả sự việc,
sự kiện đó sẽ là kí sự hoặc truyện kí. Nếu tác phẩm thiên về phản ánh t- t-ởng
tình cảm , nó sẽ là tuỳ bút hoặc bút kí. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng ranh
giới giữa các thể kí không tuyệt đối. Giữa các thể kí luôn luôn có tình trạng
chuyển hoá, thâm nhập lẫn nhau.
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ thể kí
Điểm khác biệt cơ bản của kí với các loại hình văn học khác ở chỗ kí viết
những cái có thực trong đời sống, có ý nghĩa thời sự hoặc trực tiếp hoặc gián
tiếp. Lịch sử văn học đà cho thấy kí th-ờng phát triển mạnh mẽ trong những thời
kỳ mà xà hội có nhiều biến động.
Giống nh- ng-ời viết báo, ng-ời viết kí phải đặc biệt tôn trọng, phải truyền
đạt trung thực, chính xác những sự kiện của đời thực với những nh-ời thực, việc
thực, cảm xúc thực. Nhà viết kí nào cũng phấn đấu theo ph-ơng châm xác thực
đễn mửc tỗi đa. Nh văn Bợi Hiền đ nõi : Chủng ta nên nhỡ l¯ trong bđt kÝ,
phãng sù, tÝnh x¸c thùc cđa sù viếc l điẹu kiến cỗt yễu [20, tr193]. Nhà văn
Pôlêvôi cng cõ ỷ kiễn tương tữ : Kí thật sự nhất thiết không đ-ợc h- cấu. Cuộc
sống chúng ta muôn hình muôn vẻ nh- thế, lý thú nh- thế, biết bao sự việc xảy
ra thực cũng không cần thiết phải h- cấu thêm thắt tô vẽ gệ hơn nừa [30, tr.
289]. Nh- vậy đặc điểm thể kí mà cũng là nét riêng của kí so với các loại hình
văn học khác chính là tính xác thực của nó. Cái xác thùc Êy cã lóc thc vỊ
kh¸ch thĨ cịng cã khi thuộc về chủ thể sáng tạo. Do dặc tr-ng này ng-ời viết kí
đòi hỏi một sự chuẩn bị nghiêm túc nh- làm một công trình khoa học. Trong tuỳ
bủt Ng-ời lái đò Sông Đ, Nguyển Tuân như mốt nh địa lỷ, sụ hóc đà nêu cụ
thể nguồn gốc, dòng chảy, chiều dài và tên của dòng sông qua các thời kì lịch


15


sử: Sông Đ khai sinh ờ huyến Cnh Đông tình Vân Nam lấy tên l Li Tiên,
tính toàn thân Sông Đà thì chiều dài là 883 nghìn th-ớc met. Trong Tờ hoa
Nguyễn Tuân nh- một nhà sinh vật học đ-a ra những con số cụ thể, tỉ mỉ:
Ngưội ta đ ®²nh dÊu con ong, theo dâi nã, vµ thÊy r»ng cái giọt mật làm ra dó,
là kết quả của 2.700.000 chuyến bay đi, đi từ tổ nó đến các nơi cã hoa quanh
vïng. Vµ trong mét nưa lÝt mËt ong đóng chai, phân chất ra đ-ợc 5 vạn thứ hoa.
tính ra thành b-ớc chân ng-ời thì tổng cộng đ-ờng bay của con ong đó là
800.000 cây sỗ.
Ngôn ngữ ký là ngôn ngữ trần thuật. Do trần thuật ng-ời thật việc thật nên
tác phẩm ký có giá trị cung cấp tri thức về cuộc sống và có giá trị nh- t- liệu
lịch sử. Hoàng Ngọc Hiến đà khẳng định: Ngoài gây hiệu quả khoái cảm thẩm
mĩ, thể kí gây ở ng-ời đọc những khoái thú trí tuệ bằng việc cung cấp những tri
thửc ngưội đóc quan tâm [29, tr.12]. Hong Phù Ngóc T-ờng cũng có nhận xét
tương tữ : Cợng vỡi cm xủc văn hóc, bủt kí còn chửa đững cỏi thực vốn là bản
gốc của tác phẩm. Sức nặng ấy đ-ợc chuyển đi không giống nh- một cảm giác
mĩ hóc m như mốt qu to Niutơn rơi xuỗng tâm họn ngưội đóc [31, tr.83].
Do phản ánh nhanh nhạy cuộc sống nên ngôn ngữ kí đòi hỏi sáng sủa, ngắn
gọn, súc tích, ít lời, không cầu kì. Kết cấu th-ờng rõ ràng, theo trình tự diễn biến
của sự việc nếu là kí sự, theo tình cảm t- t-ởng nếu là tuỳ bút. Tình tiết trong kí
không léo lắt quanh co, th-ờng là cụ thể nổi bật. Trong ngôn ngữ kí điều quan
träng nhÊt ng-êi viÕt ph¶i biÕt lùa chän trong hiƯn thực cuộc sống đa dạng
phong phú những con ng-ời, những sự việc vốn đà mang giá trị điển hình, giá trị
thẩm mĩ, đồng thời phải biết cách sắp xếp miêu tả để làm nổi bật chúng.
Ngôn ngữ kí ghi lại những cái có thật nh-ng không phải bao giờ nhà văn
cũng đ-ợc trực tiếp chứng kiến sự thật ấy. Nhà văn chỉ có thể ghi lại qua dòng
hồi t-ởng, qua lời kể của ng-ời khác. Khi ấy nhà văn cần có sự h- cấu và sự hỗ

trợ của t-ợng t-ởng. Nh- vậy, ngôn ngữ kí cũng có sự h- cấu nh-ng h- cÊu
trong kÝ kh²c vìi trong trun. NƠu nh­ h­ cÊu trong truyÕn l¯ t³o ra c²i “hiÖn
thùc thø hai cùa cuốc sỗng thệ hư cấu trong kí thề hiến vai trò chù quan thông

16


qua liên t-ởng, -ớc đoán trong công việc lựa chọn, tổ chức, sắp xếp, bình giá
những hiện t-ợng đ-ợc miêu tả để chúng hiện lên với những nét tiêu biểu, điển
hình nhất. Song chúng ta cũng cần l-u ý rằng dù có h- cấu, kí cũng phải lấy
điểm tựa ở hiện thực khách quan đời sống và tôn trọng tính xác thực của đối
t-ợng miêu tả.
Trong kí, ngôn ngữ miêu tả cũng rất quan trọng, nó làm tái hiện vẻ đẹp
muôn màu của cuộc sống song nó th-ờng chú trọng nhất, quan tâm nhất đến cái
đẹp của chân lí, đạo đức.Trong Ng-ời lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đà tập trung
bút lực miêu tả tính cách hung dữ của con sông Đà là để tôn vinh, làm nổi bật vẻ
đẹp của ông Đò, của ng-ời lao động.
Đến với tác phẩm kí chúng ta còn bắt gặp kiểu ngôn ngữ giàu c¶m xóc cđa
ng-êi nghƯ sÜ. Trong kÝ ta thÊy cã vai trò đặc biệt của cái tôi tác giả - một cái tôi
chứng kiến, cái tôi giÃi bày.
Khi tiếp cận với kí của Vũ Bằng, những lý thuyết trên đây là chìa khoá gợi
mở giúp chúng tôi có một định h-ớng đúng dắn về mặt thể loại, nội dung của
một hiện t-ợng kí cụ thể. Thông qua đó làm rõ đ-ợc cái độc đáo, riêng biệt và
đặc sắc của ngôn ngữ kí Vũ Bằng, cũng nh- những đóng góp của ông cho nền
văn xuôi Việt Nam hiện đại.
1.3. Vũ Bằng và Th-ơng nhớ m-ời hai
1.3.1. Vũ Bằng tr-ớc những biến động của lịch sử đất n-ớc
Cuộc đời số phận mỗi con ng-ời đều gắn với một thời đại, một giai đoạn
lịch sử nhất định. Những biến đổi trong cuộc đời mỗi con ng-ời phụ thuộc vào
sự ứng xử của ng-ời đó với môi tr-ờng và xà hội. Cuộc đời Vũ Bằng là một

minh chứng cho sự gắn kết lịch sử - con ng-êi nh- thÕ. Mäi biÕn ®éng lín trong
cc đời của nhà văn này đều gắn với những biến động của lịch sử đất n-ớc.
Tìm hiểu ông trong mối quan hệ đó sẽ lí giải vì sao trong nhiều năm qua, tên
tuổi Vũ Bằng còn xa lạ với một bộ phận độc giả Việt Nam.

17


Vũ Bằng tên thật là Nguyễn Đăng Bằng, sinh ngày 3/6/1913 tại Hà Nội.
Cha mất sớm, Vũ Bằng ở với mẹ từ tấm bé. Mẹ ông đà gửi ông vào tr-êng
Albert Sarraut - mét tr-êng trung häc ph¸p nỉi tiÕng thời ấy với mong muốn sau
này Vũ Bằng đi du học Pháp và trở thành một thầy thuốc. Nh-ng Vũ Bằng đÃ
không làm theo đ-ợc nguyện vọng của mẹ. Ông sỡm nẽm thân mệnh vo lng
báo. Lòng đam mê, nhiệt thành và năng khiếu vốn có đà đ-a Vũ Bằng tới những
thành công nhất định. Nh-ng sự lựa chọn nghề báo cũng là đầu mối cho nhiều
biến động phức tạp của cuộc đời Vũ Bằng sau này.
Tr-ớc năm 1945, Vũ Bằng bộc bạch: bấy giộ nưỡc ta đang tri qua mốt
thời kì hỗn độn. Tôi cũng nh- số đông bạn trẻ không có tinh thần lành mạnh, cả
ngày chỉ nằm đọc những sách chán đời. Dần dần đâm ra chán cả mình, tôi tìm
những cuộc dật dục vong nhân để tiêu ma sức khoẻ. Tinh thần ngày càng bạc
nhước thêm [3, tr.21]. Nh­ng cðng v¯o théi ®iỊm n¯y Vð B´ng cng sỗng đước
bng nghẹ viễt văn, lm bo như bao nh bo khc lủc bấy giộ, ông viễt văn
làm báo nh- một cách m-u sinh. Hơn thế, ông viết nh- một nghiệp ch-ớng. Bao
nhiêu sung s-ớng, bao nhiêu bất hạnh, cả cái vinh quang và cái nhục cũng từ
đấy m ra c [16, tr 13].
Từ sự kiện kháng chiến toàn quốc bùng nổ (12/1946), Vũ Bằng cùng gia đình
phải di tản c-. Cuộc sống của gia đình Vũ Bằng nói riêng và những ng-ời tản crất khó khăn. Sự thiếu thốn về vật chất đà tác động rõ rệt đến tinh thần của mỗi
ng-ời dân tản c-. Với nhiều động cơ khác khác nhau, có khá nhiều ng-ời, kể cả
mốt sỗ ngưội trong đối ng tri thửc văn nghế sĩ đ dinh tê (vào trong). Những
ng-ời hồi c- nh- vậy đều phải chịu sự phán xét nghiêm khắc của quần chúng

nhân dân ở cả địa bàn hồi c- và ở cả vùng ngoài kháng chiến.
Trong hoàn cảnh ấy, Vũ Bằng đà đ-a cả gia đình về Hà Nội. Hành động này
đồng nghĩa với việc chấp nhận bn n phn bối cch mng, phản bội nhân
dân. Cõ điẹu đặc biết là Vũ Bằng chủ động chấp nhận cái án đó. Ông vẫn viết,
vẫn hot đống, âm thầm v lặng lẻ. Chính vệ sữ dinh tê ấy hon ton không
xuất phát từ động cơ ích kỉ cá nhân mà vì đáp øng lêi kªu gäi cđa sù nghiƯp

18


cách mạng dân tộc - Vũ Bằng là một chiến sĩ tình báo. Những lời đồn đại,
những tai tiếng xung quanh việc hồi c- là một áp lực rất nặng nề đối với Vũ
Bằng, song ông chấp nhận nó để làm vỏ bọc an toàn nhất cho cuộc đời hoạt
động tình báo.
Nh-ng khó khăn, rắc rối ch-a dừng lại ở đó. Năm 1948, Nam Cao cho ra
đời mắt truyện ngắn Đôi mắt. D- luận về Vũ Bằng một lần nữa lại rộ lên khi
ngưội ta cho rng ông chính l nguyên mẫu cùa nhân vật Hong trong truyến
ngắn này. Rõ ràng đến lúc này, Vũ Bằng không chỉ chịu hàm oan về việc hồi cmà còn mang tiếng là một nhà văn xa rời quần chúng cách mạng, sống ích kỉ
theo lối h-ởng thụ. Đối với một nhà văn, một ng-ời cầm bút vì lòng yêu th-ơng
con ng-ời, vì sự nghiệp cách mạng dân tộc thì điều đó là một cái án rất nặng nề.
Song trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, Vũ Bằng chấp nhận tất cả. Vì v-ợt lên trên
hết là một tấm lòng yêu n-ớc, một nghị lực lớn lao. Vũ Bằng đà chọn cho mình
cách nhập cuộc đẹp đẽ nh- thế.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), tình hình đất n-ớc có nhiều
thay đổi. Mỹ đà nhanh chóng thế chân pháp ở miền Nam, miền Bắc hoàn toàn
giải phóng. Trợ giúp Mĩ là bọn phản cách mạng hoạt động chính trị ráo riết.
Chúng tuyên truyền, dụ dỗ, lôi kéo đồng bào, tri thức văn nghệ sĩ, đặc biệt là
đồng bào công giáo rời khỏi miền Bắc để vào Nam. Vũ Bằng đà nhập vào đoàn
ng-ời này, tiếp tục lòng hi sinh cao cả của mình cho sự nghiệp cách mạng của
đất n-ớc. Nh-ng d- luận lúc bấy giờ, Vũ Bằng lại nhận thêm một cái án nữa.

Theo bãn ph°n ®èng v¯o Nam. ®â l¯ “ mèt c²i n bất thnh văn tuyên phạt Vũ
Bng[16, tr.20]. Chỉ có điều nặng nề hơn vì lần này Vũ Bằng vào Nam một
mình, chịu đựng những điều tai tiếng một mình. Trong hồi ký Bốn m-ơi năm nói
láo V Bng viễt: Nh-ng Nam, Bắc cũng là đất n-ớc, sao lại phải coi chuyến đi
này là một cuộc di c- mà không phải là một vụ đi chơi bậy bạ để tiêu sÇu khiĨn
hưng?”. C²ch gi°i thÝch n¯y cho thÊy quan niÕm cùa V Bng kh thoi mi.
Phải chăng đó là một lời giải thích hợp lý nhất cho sự an toàn của chính nhà văn
trong tình hình lúc bấy giờ?

19


Bề ngoài thì thế nh-ng bên trong con ng-ời ấy luôn chứa đựng nỗi đau
sâu sắc. Chia tay vợ con, quê h-ơng để vào Nam, Vũ Bằng luôn tin rằng sau 2
năm nữa sẽ có hiệp th-ơng thống nhất, Bắc Nam sum họp. Lúc đó ông sẽ đ-ợc
trở về, đoàn tụ cùng gia đình và sống trong lòng Bắc Việt thân yêu. Song niềm
tin ấy cứ mờ dần, chuyển thành hi vọng, thành -ớc mong cháy bỏng trong lòng
ng-ời con xa quê khi hiện thực lịch sử đất n-ớc đang diễn biến phức tạp. Ngày
30/ 4/ 1975 đất n-ớc hoàn toµn thèng nhÊt nh-ng ngun -íc cđa Vị B»ng vÉn
ch-a thực hiện đ-ợc. Cái án di c- của ông ch-a đ-ợc xoá bỏ khi ông vẫn tận tuỵ
với công tác tình báo. Tổ ấm gia đình và miền Bắc yêu th-ơng trở thành hình
ảnh đẹp trong kí ức của Vũ Bằng. Hy vọng đà chuyển thành thất vọng và càng
buồn đau hơn khi ông đ-ợc tin ng-ời vợ của ông đà mất nơi quê nhà. Vũ Bằng
ôm trọn nỗi đau ấy vào cõi vĩnh hằng. Năm 1984 ông ra đi, âm thầm lặng lẽ nhcuộc đời phục vụ cách mạng của ông vậy. Ông ra đi khi mà lịch sử vẫn ch-a làm
đ-ợc công việc mà lẽ ra phải làm từ lâu rồi, đó là xác minh sự thật về cuộc đời
Vũ Bằng. MÃi đến 1/3/2000 cục tình báo chiến l-ợc quân sự mới thực hiện đ-ợc
điều đó.
1.3.2. Kí của Vũ Bằng
Cuộc đời éo le trắc trở nh- một nhu cầu tự thân, nhu cầu đ-ợc giải thoát
tâm hồn, cộng với những năng khiếu vốn có đà thúc đẩy ông tìm đến để ký thác

tất cả nỗi lòng, tâm sự, trăn trở của mình vào sáng tác văn học. Và có lẽ vì vậy
mà ông tìm đến với thể loại hồi ký, tuỳ bút. Bởi, hồi ký là thể loại phù hợp nhất
với nhu cầu bộc lộ tinh thần chủ quan và nhu cầu tự giÃi bày của bản thân. Đến
với ký nhà văn có cơ hội biểu lộ những cảm xúc không thể kìm nén đ-ợc của
mình về quê h-ơng đất n-ớc, về những ng-ời thân yêu ruột thịt, về cội nguồn,
bản sắc văn hoá. Phải chăng đây cũng chính là nguyên nhân để Th-ơng nhớ
m-ời hai, Bốn m-ơi năm nói láo, Miếng ngon Hà Nội ra đời.
Đọc những sáng tác của Vũ Bằng chúng ta đều cảm nhận đ-ợc trong đó
có một nỗi khắc khoải không gian và thời gian luôn tồn tại suốt cuộc đời xa xứ
của ông. Trong đó, V Bng hiến ra như mốt thân phận lc loi. Bên cạnh

20


ng-ời chiến sĩ yêu n-ớc hoạt động tình báo là nỗi chênh vênh, cô đơn của một
tâm hồn cô độc. Món nợ tinh thần phải trả cho quê h-ơng, gia đình, bạn bè và
nhu cầu giải thoát luôn ám ảnh tâm hồn nhà văn. Khi cầm bút cũng là lúc nhà
văn bắt đầu quá trình giao tiếp giữa mình với bạn đọc. Đó là khoảnh khắc ông
đ-ợc trở về với con ng-ời thật, trở về với cái bản thể của mình.
Trong phần Tự ngôn của tác phẩm Th-ơng nhớ m-ời hai, Vũ Bằng bộc lộ:
Tôi ghi lại th-ơng nhớ m-ời hai không nhằm mục đích gì cao rộng, chẳng qua
chỉ đánh dấu những ấn t-ợng hiện ra trong óc những buổi mây chiều gió sớm
sầu biệt li vơi sáng đầy chiều thâu nhận đ-ợc trong những khi lạc b-ớc trên nẻo
đ-ờng chật ních những ng-ời bận rộn bên cạnh những ngoại kiều ăn mặc nhph-ờng chèo, nói líu lô buồn nỗi khó nghe! [16, tr.16].
Mốt V Bng thân phận lc loi, mốt V Bng sầu xử - con ng-ời ấy
đ-ợc kết nên từ ngàn vạn nỗi t-ơng t-, ngàn vạn nỗi nhớ th-ơng và buồn khổ.
Con ng-ời ấy phải tìm đến văn ch-ơng để giải bày tâm trạng, nỗi niềm sầu xứ
với những khắc khoải không gian và thời gian luôn đeo đẳng, để trả món nợ tinh
thần cho quê h-ơng, gia đình, bạn bè và giải thoát tâm hồn mình.
1.3.3. Vài nét về Th-ơng nhớ m-ời hai

Vũ Bằng đà dành trọn cuộc đời cho nghề viết văn. Ông là cây bút viết
nhanh viết khoẻ, chuyên cần trên nhiều lĩnh vực. Trong hơn 50 năm cầm bút,
ông đà để lại một khối l-ợng sáng tác đáng nể gồm hàng trăm tác phẩm với
nhiều thể loại: tuỳ bút, truyện ngắn, hồi kí, bút kí ,tiểu thuyết. Trong đó có nhiều
tác phẩm nổi tiếng nh-ng nổi bật hơn cả là Th-ơng nhớ m-ời hai.
Tháng giêng năm 1960 Vũ Bằng bắt tay vào viết Th-ơng nhớ m-ời hai, đến
năm 1967 vừa viết xong phần Tháng chín, gạo mới chim ngói thì đ-ợc tin vợ
mình mất. MÃi đến năm 1971, Vũ bằng mới viết xong Th-ơng nhớ m-ời hai.
Năm 1972 in Th-ơng nhớ m-ời hai tại Nhà xuất bản Nguyễn Đình V-ợng.
Mới đầu vừa ra đời Th-ơng nhớ m-ời hai ch-a tạo ra ấn t-ợng gì nổi bật.
MÃi đến năm 1989 khi tái bản lần thứ nhất, tác phẩm đà đ-ợc đông đảo bạn ®äc

21


đón nhận, đặc biệt là độc giả phía Bắc. Cũng từ đó tên tuổi Vũ Bằng gắn liền với
Th-ơng nhớ m-ời hai.
Giáo s- Hoàng Nh- Mai là ng-ời đầu tiên viết lời giới thiệu cho cuốn
Th-ơng nhớ m-ời hai, ngợi ca sức hấp dẫn của tác phẩm. ông cho rằng cái hấp
dẫn, thu hủt bn đóc cùa tc phẩm chính l¯ ê “tÊm lßng” v¯ ngßi bđt “t¯i hoa
cïa t²c gi. Còn Tô Hoi, V Quần Phương, Nguyển Đăng Mnh đẹu thỗng
nhất khẳng định Th-ơng nhớ m-ời hai là một tác phẩm có giá trị văn ch-ơng,
linh hồn của những trang văn th-ơng nhớ là tình yêu quê h-ơng đất n-ớc của tác
giả.
Th-ơng nhớ m-ời hai đ-ợc Vũ Bằng viết bằng cảm hứng lÃng mạn, bằng
tình yêu và nỗi nhớ về cảnh sắc thiên nhiên đến những thời trân, phong tục, nếp
sống, con ng-ời xứ Bắc. Trong Th-ơng nhớ m-ời hai những sản vật ở mọi miền
của quê h-ơng từ quả thơm trái ngọt đén các món ăn, món quà bình dị đều trở
thnh thội trân nhừng sn vật quỷ cùa cc mợa. Quê hương Bắc Viết còn cõ
bao nhiêu là chùa đẹp, bao nhiêu l cnh nên thơ. Vẫn chưa hễt, Bắc Viết

còn hấp dẫn ta bời miẹn quê ấy quanh năm tưng búng lể tễt hối hè, mà hội hè
nào cũng ý vị, mà cũng nên thơ, mà cũng hấp dẫn [16, tr.58]. Cõ thề nõi đễn
với Th-ơng nhớ m-ời hai, chúng ta đ-ợc đến với những cảnh đẹp thiên nhiên,
của tâm hồn văn hoá dân tộc trong một không gian nghệ thuật rộng lớn, phong
phú đa dạng.
Bao trùm lên Th-ơng nhớ m-ời hai là không gian cố h-ơng - không gian
tâm t-ởng - không gian của tình yêu và nỗi nhớ. Chính niềm th-ơng nhớ vời vợi
đà tạo ra không gian trang trọng, không gian trìu mếm ôm ấp, vỗ về - một không
gian linh thiêng. Trong ký ức về một quÃng đời êm đẹp, ng-ời ta th-ờng giữ
những gì t-ơi tắn, đáng yêu nhất. Và hiện lên trong tâm t-ởng, trong niềm yêu
nỗi nhớ, vẻ đẹp của những kỷ niệm bao giờ cũng đ-ợc thăng hoa.
Có thể khẳng định: trong tác phẩm Th-ơng nhớ m-ời hai, với cảm hứng
lÃng mạn, V Bng đ ti hiến, mô t mốt miẹn quê lộng lẫy gấm hoa mốt thễ
giới nghệ thuật hội tụ những vẻ đẹp trong đời sống văn hoá tinh thần Việt Nam:

22


vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên, vẻ đẹp của con ng-ời, vẻ đẹp của di sản tinh
thần tổ tiên truyền lại. Ch-a ở đâu và ch-a bao giờ chúng ta lại bắt gặp một thế
giới nghệ thuật tập trung mô tả tái hiện toàn cái đẹp nh- thế. Và ®iỊu ®¸ng l-u ý
l¯ thƠ giìi nghÕ tht Êy mang đậm dấu riêng đốc đo cùa nhà văn Vũ Bằng con ng-ời luôn mang nặng nỗi -u t- về việc l-u giữ những nét đẹp của văn hóa
dân tộc.
Th-ơng nhớ m-ời hai đ-ợc viết bằng thứ ngôn ngữ giàu cảm xúc, đầy thi
vị. Và tất yếu lời văn của tác phẩm cũng thấm đẫm chất thơ. Câu văn trong
Th-ơng nhớ m-ời hai th-ờng là câu dài, nhiều câu có cách diễn đạt, cách dùng
từ, dùng hình ảnh rất giống với cấu tứ ca dao, câu cảm thán, câu hỏi tu từ, câu
đảo bộc lộ tình cảm, cảm xúc trực tiếp. Cách dùng những từ ngữ, những câu văn,
những hình ảnh đặc sắc ấy đà mang đến cho lời văn của tác phẩm một vẻ đẹp
riêng.

Giọng điệu tác phẩm mang âm h-ởng giọng điệu trần thuật độc đáo, đặc
sắc. ở Th-ơng nhí m-êi hai, Vị B»ng víi t- c¸ch ng-êi kĨ chuỵên đà xuất hiện
ở rất nhiều ngôi thứ khác nhau với cách x-ng hô khác nhau. Khi đứng ở ngôi thứ
nhất, ngưội kề không chì xưng tôi m còn xưng mình: Đi vào giữa ánh
sáng mơ hồ ấy, mình cảm thấy nh- bay trong không gian vô bờ bến. Điẹu đặc
biệt là dù ng-ời kể ở vị trí nào, đối t-ợng ng-ời kể h-ớng tới là ai chúng ta cũng
đều nhận thấy nổi bật một giọng điệu chủ đạo đó là giọng độc thoại với chính
mình. Chính điều này đà tạo cho tác phẩm sắc thái trữ tình và giọng điệu thật
độc đáo, không thể trộn lẫn: giọng tự tâm tình hoài niệm.
Đọc Th-ơng nhớ m-ời hai, chúng ta nhận thấy hình t-ợng tác giả - con
ng-ời niếm trải và tài hoa hiện diện ở khắp mọi nơi. Con ng-ời ấy không chỉ biết
rung động say mê, biết nâng niu trân trọng gom góp những cái đẹp bình dị, nhỏ
nhặt nhất trong cuộc sống mà còn biết cách tái tạo, l-u giữ và truyền lại cái đẹp
cho mọi ng-ời. Con ng-ời ấy đà biết sống đẹp và làm phong phú cho cuộc sống.
Song cái đẹp của cuộc sống đó lại đ-ợc thể hiện ở ph-ơng diện ngôn ngữ, lấy
ngôn ngữ làm ph-ơng tiện biểu đạt. Thông qua ngôn ngữ, hình ảnh quê h-ơng

23


đát n-ớc hiện lên đầy chất thơ, mộc mạc mà trữ tình. Ngôn ngữ nghệ thuật Vũ
Bằng nh- thể đ-ợc phù phép, đầy quyền năng mê hoặc ng-ời đọc. Văn Giá khi
cảm nhận về ngôn ngữ trong Th-ơng nhớ m-ời hai của Vũ Bằng đà nhận xét:
Viễt loi văn họi kỷ nhừng nhỡ cợng thương ny rất khó tránh những từ ngữ
trữc tiễp đi loi như nhỡ lắm, yêu lắm, thương lắm. V nễu chì cõ vậy
nếu nh- có nhớ th-ơng đến mấy câu văn cũng trở nên nhạt nhẽo. Vũ Bằng đÃ
không kiêng kị những lời văn trực ngôn nh- thế mà văn ch-ơng vẫn cảm động
và quyến rũ. Hoá ra ông đà làm đ-ợc một điều rất khó làm, đó là cấp cho câu
văn những nội dung có tính cảm giác hết sức tinh vi và phong phú. Muốn tạo
đ-ợc loại câu văn này, ngoài việc sử dụng rất nhiều những câu hỏi tu từ, chỉ còn

một cách miêu tả thật kỹ l-ỡng và chính xác những ấn t-ợng, những cảm xúc
ngũ quan. Vũ Bằng cực kỳ tài giỏi ở điểm này. Không một câu văn nào của ông
ở trạng thái trung tính, khách quan, mà tất cả đều đ-ợc phổ bằng những cảm
giác nghiệm sinh sống động của toàn bộ con ng-ời tác giả, trong đó nhiều câu
đạt đến độ ảo điệu, với vẻ đẹp trang nhà rất mực của ngôn từ. Đây là quy định
đặc điểm câu văn Vũ Bằng: kéo dài, miêm man, trùng điệp các lớp ngôn từ, đầy
nhiệt hứng và lôi cuốn ng-ời đọc, đồng thời cũng là điều chủ yếu làm nên sức
quyến rũ của Th-ơng nhớ m-ời hai.
Đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ trong Th-ơng nhớ m-ời hai chúng ta lại
cảm nhận sâu sắc hơn về vẻ đẹp ngôn từ trong tác phẩm, cũng từ đó cho chúng
ta có cái nhìn chính xác về Vũ Bằng - ngòi bút khai lối mở đ-ờng đầy cho lối
viết chất thơ, giàu cảm xúc và cảm hứng trữ tình trong ngôn từ.

24


Ch-ơng 2
từ ngữ trong th-ơng nhớ m-ời hai
2.1 Từ ngữ trong văn xuôi nghệ thuật và những h-ớng tiếp cận
Từ là một trong những đơn vị cơ bản nhất của ngôn ngữ. Nó ở vào vị trí
trung tâm của hệ thống ngôn ngữ. Nó là cơ sở để con ng-ời có thể tiến hành
nhận thức và tạo ra mọi sản phẩm ngôn ngữ. Câu, đoạn văn, văn bản, phục vụ
cho nhu cầu giao tiếp của con ng-ời. Từ là đơn vị ngôn ngữ có sẵn, tồn tại trong
hệ thống ngôn ngữ, tạo thành kho từ vựng của mỗi ng-ời. ở mỗi ng-ời, từ đ-ợc
tích luỹ dần và tồn tại trong tiềm năng ngôn ngữ và trong vốn từ vựng của từng
ng-ời, trong từ tồn tại ở trạng thái tĩnh, với các tiềm năng nhất định.
Khi các cá nhân thực hiện hoạt động giao tiếp với nhau thì các từ là cần
thiết trong vốn từ đ-ợc huy động và kết hợp với nhau thành các cụm từ, các câu,
ngôn bản để thể hiện các nội dung giao tiếp và làm cơ sở để các cá nhân đạt
đ-ợc mục đích giao tiếp. Chính trong quá trình tham gia vào hoạt động giao tiÕp,

tõ míi thùc sù cã cc sèng sinh ®éng, míi bộc lộ rõ và cụ thể hoá các thuộc
tính hay đặc điểm thuộc vào bình diện khác nhau của nó và thậm chí có thể có
những biến đổi và chuyển hoá đa dạng, phong phú hơn khi nó tồn tại trong trạng
thái tĩnh của hệ thống ngôn ngữ.
Khi chuyển từ dạng tĩnh điềm tĩnh trong hệ thống ngôn ngữ cùng trạng
thái trong giao tiếp, các yếu tố ngôn ngữ nói chung và từ nói riêng cũng đồng
thời chuyển từ dạng trừu t-ợng, khái quát sang một dạng cụ thể sinh động. Bởi
vì hình thành và tồn tại của từ trong hệ thống ngôn ngữ nhìn một cách tổng thể
là để phục vụ cho toàn thể xà hội, cho hoạt động và t- duy và giao tiếp nói
chung. Trong quá trình hoạt động giao tiếp những từ mới đ-ợc tạo ra. Cái mới
đó chính là mầm mống và động lực cho những vận động và sự phát triển không
ngừng của ngôn ngữ.
Từ thực tiễn ngôn ngữ khác nhau và ngay trong trạng thái tĩnh ch-a hành
chức năng của hệ thống ngôn ngữ, cũng tồn tại những từ tiềm tàng năng lực giao

25


×