LờI NóI ĐầU
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc ta. Đây là một chính
sách mang tính xà hội và nhân đạo cao cả thể hiện sự quan tâm của Nhà nớc đối
với đời sống của ngời dân đặc biệt là đối với ngời lao động.Tuy nhiên đối tợng
tham gia bắt buộc (trớc năm 1995) chỉ giới hạn trong các lao động thuộc thành
phần kinh tế Nhà nớc. Vì vậy, mở rộng đối tợng tham gia BHXH bắt buộc là
mong mỏi của đông đảo ngời lao động trong các thành phần kinh tế của cả nớc.
Bắt đầu từ năm 1995, đối tợng tham gia BHXH bắt buộc đà mở rộng cho
tới những ngời lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc mở
rộng đối tợng tham gia BHXH đà động viên ngời lao động yên tâm làm việc ở
các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trờng lao động phát triển, đồng
thời cũng tạo nên sự công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế.
Nhng hiện nay, việc thực hiện BHXH cho ngời lao động trong các doanh
nghiệp đang là một vấn đề nan giải, thu hút đợc sự quan tâm của nhiều ngành,
nhiều cấp. Nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề, vì vậy em đà chọn đề tài
Thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam-Thực trạng và giải
pháp. Với mục đích nêu lên đợc toàn cảnh của tình hình thực hiện BHXH cho
ngời lao động trong các doanh nghiệp. Từ đó thấy đợc những nguyên nhân và
rút ra những giải pháp cơ bản, góp phần đẩy mạnh hơn nữa công tác thực hiện
BHXH cho ngời lao động.
Để đảm bảo tính lôgic của một công trình nghiên cứu, ngoài lời nói đầu và
phần kết luận, đề án đợc chia thành 3 phần sau:
Chơng I. BHXH cho ngời lao động một nhu cầu tất yếu khách quan
Chơng II. Thực trạng BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Chơng III. Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện
BHXH cho ngời lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Phơng pháp nghiên cứu đợc sử dụng trong đề án là những phơng pháp cơ
bản của phơng pháp nghiên cứu khoa học nh: so sánh, phân tích, tổng hợp...dựa
trên quan điểm duy vật biện chøng, duy vËt lich sö.
1
mục lục
ChơngI: BHXH cho ngời lao động một nhu cầu tất yếu khách quan
I. Sự cần thiết của BHXH đối với ngời lao động
II. BHXH ở Việt Nam
Chơng II: Thực trạng BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam
I. Tổng quan về tình hình thực hiện BHXH cho ngời lao động trong c¸c
doanh nghiƯp ViƯt Nam
1. Trong khèi doanh nghiƯp qc doanh
2. Trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2.1. Trong các doanh nghiƯp trong níc
2.2. Trong c¸c doanh nghiƯp cã vèn đầu t nớc ngoài
II. Vấn đề hởng trợ cấp BHXH của ngời lao động
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hu trí
5. Chế độ tử tuất
III. Các hình thức trốn tránh thực hiƯn BHXH cho ngêi lao ®éng cđa chđ sư
dơng lao động
IV. Tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp Việt Nam
Chơng III. Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện BHXH
cho ngời lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
I. Để ngời lao động tham gia BHXH ngày càng đông
1. Mở rộng đối tợng tham gia BHXH
2. Ngun väng tham gia BHXH cđa ngêi lao động trong hợp tác xà nông
nghiệp
3. Nhu cầu BHXH cđa ngêi lao ®éng cđa ngêi lao ®éng trong kinh tế trang
trại
II. Nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động và ngời lao động
1. Đối với chủ sử dụng lao động
2. Đối với ngời lao động
III. Đẩy mạnh hơn nữa sự tuân thủ của các chủ sử dụng lao động
IV. Cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho đối tợng thụ hởng
2
Chơng I
BHXH cho ngời lao động một nhu cầu tất yếu khách
quan
I. Sự cần thiết của BHXH đối với ng ời lao động
Con ngời muốn tồn tại và phát triển trớc hết phải ăn, mặc, ở và đi lại... Để
thoả mÃn những nhu cầu tối thiểu đó con ngời, ngời ta phải lao động để làm ra
những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm làm ra ngày càng nhiều thì đời sống
con ngời ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xà hội ngày càng văn minh hơn. Nh
vậy, việc thoả mÃn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ
thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhng trong thực tế, không phải lúc
nào con ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh
sống bình thờng. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu
nhiên phát sinh làm cho ngời ta bị giảm hoặc cho ngời ta bị mất thu nhập hoặc
các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn lao
động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ
bị suy giảm... Khi rơi vào những trờng hợp này, các nhu cầu cần thiết trong
cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất
hiện thêm một số nhu cầu mới nh: cần đợc khám chữa bệnh và điều trị khi ốm
đau; tai nạn thơng tật nặng cần phải có ngời chăm sóc nuôi dỡng... Bởi vậy,
muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con ngời và xà hội loài ngời phải tìm ra và
thực tế đà tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau nh: san sẻ, đùm bọc lÉn nhau
trong néi bé céng ®ång; ®i vay, ®i xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nớc...
Rõ ràng, những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn lao động trở nên phổ
biến. Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhng về sau đà phải cam
kết cả việc bảo đảm cho ngời làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang
trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản... Trong
thực tế, nhiều khi các trờng hợp trên không xảy ra và ngời chủ không phải chi
ra một đồng nào. Nhng cũng có khi xảy ra một cách dồn dập, buộc họ phải bỏ
ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ- thợ
phát sinh, giới thợ liên kÕt ®Êu tranh bc giíi chđ thùc hiƯn cam kÕt. Cuộc đấu
tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có mâu thuẫn nhiều mặt đến đời sống
kinh tế xà hội. Do vậy, Nhà nớc đà phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu
thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng đợc vai trò của Nhà nớc, mặt khác
buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một số tiền nhất định hàng tháng đợc tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với ngời làm thuê.
3
Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tập trung trên phạm vi
quốc gia. Quỹ này còn đợc bổ sung từ ngân sách Nhà nớc khi cần thiết nhằm
đảm bảo đời sống cho ngời lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính
nhờ những những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của ngời lao động
và gia đình họ ngày càng đợc đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi
và đợc bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thờng, tránh đợc những xáo
trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc thiết lập ngày càng
lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng
đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
đợc thế giới quan niệm là bảo hiểm xà hội đối với ngời lao động. Nh vậy,
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với ngời lao
động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm trên cơ sở hình thành vµ sư dơng mét mét q tiỊn tƯ tËp trung nhằm
đảm bảo đời sống cho ngời lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn
xà hội.
II. BHXH ở Việt Nam
Còn ở nớc ta BHXH là một chính sách xà hội lớn của Đảng và Nhà nớc ta
nhằm đảm bảo an sinh xà hội và quyền lợi về BHXH cho ngời lao động khi gặp
phải rủi ro phải tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Cùng với sự đổi
mới toàn diện và sâu sắc mọi lÜnh vùc cđa ®êi sèng x· héi nãi chung, tõ năm
1995, công tác BHXH ở nớc ta cũng đà chuyển sang một cơ chế thực hiện các
chế độ BHXH hoàn toàn mới so với trớc đây. Những nội dung chủ yếu của sự
đổi mới chính sách BHXH là: mở rộng đối tợng tham gia BHXH; hình thành
một quỹ BHXH tập trung, độc lập do ngời lao động và chủ sử dụng lao động
đóng góp để chi trả các chế độ BHXH cho ngời lao động: thành lập hệ thống
BHXH Việt Nam từ Trung ơng đến cấp quận, huyện, thị xà để thực hiện công
tác BHXH...
Qua hơn 7 năm thực hiện, đến nay có thể khẳng định rằng những quan
điểm, nội dung và phơng pháp đổi mới chính sách BHXH của Đảng và Nhà nớc
ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với mục tiêu đổi mới toàn diện đất nớc. Công
tác BHXH đà từng bớc khẳng định tầm quan trọng và vị thế của mình đối với
việc phát triển kinh tÕ - x· héi cđa ®Êt níc cịng nh viƯc đảm bảo quyền lợi về
BHXH cho ngời lao động bằng những kết quả cụ thể, to lớn trong thực tiễn xÃ
hội. Trớc hết, là việc đối tợng tham gia BHXH ngày một mở rộng. Nếu trớc kia,
chỉ những ngời trong biên chế Nhà nớc mới đợc hởng các chế độ BHXH thì
hiện nay ngời lao động trong các thành phần kinh tế khác (theo quy định của bộ
4
lao ®éng) cịng cã qun tham gia BHXH. Cơ thĨ là số lao động tham gia
BHXH năm 1999 so với năm 1996 là 18,2%. Thứ hai, số thu BHXH hàng năm
ngày càng tăng năm sau cao hơn năm trớc. Từ tháng 6 năm 1995 đến ngày
31/12/1999 đà thu đợc 14.868 tỷ đồng tiền BHXH, số thu năm 1999 lớn hơn
gấp 10 lần số thu của năm 1994 (trớc khi thực hiện cơ chế mới). Thứ 3, do hình
thành đợc quỹ BHXH tập trung độc lập nên tính tính đến ngày 31/12/1999 quỹ
đà đầu t đợc trên 10.628 tỷ đồng tiền tạm thời nhàn rỗi vào việc đầu t, phát triển
các lĩnh vực kinh tế- xà hội cần thiết của đất nớc. Và cuối cùng, là việc giải
quyết các chế độ BHXH cho ngời lao động thờng xuyên đợc cải tiến theo hớng
thuận tiện, chính xác hơn, hạn chế tối đa việc vi phạm pháp luật về BHXH và
thực hiện công bằng xà hội trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ chính sách BHXH theo cơ chế mới cũng
gặp phải không ít khó khăn, vớng mắc cần tháo gỡ. Một trong những khó khăn
lớn nhất là việc ngời lao ®éng, chđ sư dơng lao ®éng cha nhËn thøc đầy đủ ý
nghĩa và tầm quan trọng của chính sách BHXH. Từ đó, họ cha có đợc thái độ
và hành vi đúng đắn trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo quy
định của pháp luật. Chính vì vậy, hiện tợng né tránh, trốn nộp BHXH cho ngời
lao động còn khá phổ biến, nhất là khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Số tiền nợ đọng BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp cũng không nhỏ.
Trong trờng hợp nh vậy, cơ quan BHXH có quyền từ chối cha giải quyết các
chế độ BHXH cho ngời lao động theo nguyên tắc có đóng có hởng. Rất nhiều
trờng hợp chủ sử dơng lao ®éng ®· thu tiỊn BHXH cđa ngêi lao động nhng
không nộp cho cơ quan BHXH. Ngời lao động bị lợi dụng, vi phạm quyền lợi
của mình về BHXH từ phía chủ sử dụng lao động mà vẫn không biết, không
dám đấu tranh, bảo vệ quyền lợi của mình. Nguyên nhân đơn giản là vì họ
không biết đúng đắn, đầy đủ về chế độ, chính sách BHXH do pháp luật quy
định.
Chính vì vậy, cần phải có một cái nhìn khách quan về việc thực hiện
BHXH cho ngời lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó có những
biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác thực thi BHXH cho ngời lao
động. Đây là việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai
đoạn chuyển đổi cơ chế thực hiện chế độ, chính sách BHXH hiện nay. Thiết
nghĩ, đây không chỉ là công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung cđa
cđa nhiỊu ngµnh, nhiỊu cÊp, cđa toµn x· héi. Bëi vì đây là việc thực hiện một
chính sách xà hội lớn của Đảng và Nhà nớc, một nội dung quan trọng của Bộ
Luật lao động và quan trọng hơn nữa là việc góp phần vào việc đảm bảo quyền
lợi về BHXH của ngời lao động trong các doanh nghiêp Việt Nam.
5
ChơngII
THựC TRạNG BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam
Bắt đầu từ năm 1995, sự phân biệt giữa ngời trong biên chế Nhà nớc với
ngời ngoài biên chế Nhà nớc đà bị xoá bỏ. Tất cả những ngời lao động thuộc
đối tuợng quy định đều đợc quyền tham gia BHXH. Việc mở rộng các đối tợng
tham ra BHXH đà động viên mọi ngời lao động yên tâm làm việc ở các thành
phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trờng lao động phát triển, đồng thời cũng
tạo nên sự cân bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế.
Chính vì mở rộng đối tợng tham gia BHXH, nên số ngời đóng ngày càng
tăng. Nêú năm 1995 có 2,2 triệu ngời tham gia,thì đến năm 1999 đà tăng lên 4
triệu ngời: (tăng 51%). Số thu BHXH từ 788.486 triệu đồng (năm 1995) lên gần
4 nghìn tỉ đồng (năm 1999)... Việc hình thành quỹ BHXH thống nhất , tâp
trung, do BHXH ViƯt Nam qu¶n lý, ghi nhËn mét bíc c¶i cách BHXH rất hiệu
quả và nhiều ý nghĩa... Theo đó số thu vào quỹ ngày càng tăng, nguồn chi từ
Ngân sách Nhà nớc giảm dần, số thu trong 5 năm qua luôn lớn hơn số chi, phần
quỹ tạm thời nhàn rỗi đà đợc đầu t có hiệu quả theo chỉ đạo của Thủ tớng Chính
phủ. Riêng năm 1999, tiền lÃi do đầu t quỹ mang lại khoảng 600 tỷ đồng.
Có thể nói hoạt động BHXH trong những năm qua là rất đáng kể. Nó
ghi nhận nỗ lực lớn lao của CBCC ngành BHXH. ý nghĩa an sinh xà hội thông
qua hoạt động giàu tính nhân văn này càng làm sáng rõ bản chất u việt của chế
độ ta, thể hiện sự quan tâm chu đáo của Đảng và Nhà nớc đối với lợi ích chính
đáng, hợp pháp của ngời lao ®éng.
Tuy nhiªn, mét sè vÊn ®Ị bÊt cËp ®ang tån tại trong quá trình triển
khai chính sách BHXH đà hạn chế hiệu quả chung. Trớc hết, trình độ hiểu biết
về ph¸p lt chÝnh s¸ch BHXH cđa chđ sư dơng lao động và ngời lao động còn
bị hạn chế. Công tác thông tin tuyên truyền làm cha sâu, cha kỹ, nên cả chủ sữ
dụng lao và ngời lao động cha hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong
việc tham gia BHXH. Một số đối tợng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, nhng lẩn trốn, đặc biệt là các doanh nghiệp khối ngoài quốc doanh. Lơng của ngời
lao động nói chung còn thấp, cha đáp ứng nhu cầu cuộc sống, lơng khi nghỉ hu
càng thấp hơn. Việc mở rộng các đối tợng tham gia BHXH lại cha kịp thời. Các
tổ chức bán công dân lập của các nghành: giáo dục, văn hoá, du lịch... có thuê
mớn lao động: các hợp tác xà tiểu thủ công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh có thuê mớn dới 10 lao động... tới đây cần đợc bổ sung vào diện bắt
6
buéc tham gia BHXH. LuËt BHXH khi ra ®êi sÏ tạo hành lang pháp lý quan
trọng cho việc triển khai rộng rÃi và hiệu quả chính sách BHXH.
Mặt khác, sau 5 năm thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Chính phủ giao
mặc dù đà cố gắng rất nhiều và đạt đợc nhiều thành tựu, song trớc yêu cầu của
thiên niên kỷ mới, nghành BHXH cần đợc hoàn thiện thêm về chức năng nhiệm
vụ. Thí dụ: vấn đề bổ sung thành viên của hội đồng quản lý, thay đổi hiện đại
hoá hoạt động thu, chi, quản lý quỹ ...
I.
Tổng quan về tình hình BHXH trong các doanh nghiệp
Việt Nam
1. Trong khối doanh nghiệp quốc doanh
Các đơn vị sản xuất kinh doanh các ngành hàng độc quyền: Bu điện, điện
lực, xăng dầu... có doanh thu cao, nên thực hiện tốt chính sách BHXH. Quyền
lợi của ngời lao động trong các doanh nghiệp này đợc đảm bảo.
Còn với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng không phải là độc
quyền. Trong số các doanh nghiƯp thùc hiƯn tèt chÝnh s¸ch BHXH: cã c¸c
doanh nghiệp làm ăn phát triển và cả các doanh nghiệp làm ăn khá chật vật nhng vẫn có nhận thức tốt về chính sách BHXH và quan tâm, chăm sóc quyền lợi
ngời lao động. Điển hình nh công ty Bia rợu ong Thái Bình với150 lao động, lơng trung bình cha đạt nổi 400.000 đồng/ngời/tháng nhng tiền đóng BHXH cho
ngời lao động thì doanh nghiệp luôn trích nộp đúng đủ kịp thời.
Những tởng các doanh nghiệp các doanh nghiệp quốc doanh thì thực hiện
tốt chính sách BHXH cho ngời lao động, việc thu BHXH trong các đơn vị này
thì không cần phải bàn đến, mọi ngời vẫn coi nh một hoạt động suôn sẻ đơng
nhiên. Vậy mà sự việc lại không hẳn thế, vẫn còn các doanh nghiệp cha thực
hiện tốt chính sách này nh nộp phí chậm hoặc không có khả năng nộp phí. Kể
cả những doanh nghiệp mà trớc đây nổi tiếng một thời, sản phẩm đợc xuất khẩu
ra nớc ngoài. Trong nền kinh tế thị trờng với nhiều lý do khác nhau, chặng đờng
kinh doanh tiếp nối của doanh nghiệp không suôn sẻ nh mong muốn, chựng lại
rồi suy sụp. Sản phẩm làm ra ế ẩm, lÃi vay ngân hàng tăng liên tục với số nợ lên
tới hàng tỷ đồng, buộc doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, giảm đồng
loạt hàng ngàn lao động.
Tình hình này xuất hiện ở nhiều địa phơng trong đó có thể nói đến Thái
Bình. Với 183 doanh nghiệp Nhà nớc với 16000 lao động trong tỉnh thì có 1/2
số doanh nghịêp làm ăn hiệu quả, thực hiện tốt chính sách BHXH; 1/2 ho¹t
7
động cầm chừng và 1/4 số doanh nghiệp còn lại thì cùng chung số phận đứng
bên bờ vực của sự tan rÃ. Ngỡ những cánh chim đầu đàn của tỉnh Thái Bình nh:
Công ty Điện tử Thái Bình, Công ty cơ khí Thái Bình, Nhà máy đay Thái Bình,
Nhà máy tơ Thái Bình, Nhà máy thuộc da Thái Bình (nay là Công ty Giày da),
Công ty xây dựng I, II, III Thái Bình, Công ty sứ Tiền Hải...vẫn đang sải cánh
tung bay nh ngày nào, hoá ra bây giờ chỉ hoạt động cầm chừng, sản phẩm sản
xuất ra tiêu thụ chậm do giá thành, chất lợng, mẫu mà không đáp ứng đợc nhu
cầu thị trờng. Hoạt động ít hiệu quả, doanh thu kém thì việc thực hiện chính
sách BHXH cho ngời lao động là việc xa vời lắm! Nhiều đơn vị nợ cả lơng công
nhân thì nghĩ gì đến việc tham gia BHXH.
Đến nay, các đơn vị trong tỉnh nợ ®äng tiỊn BHXH ®· lªn tíi con sè 7 tû
®ång, trong đó nhiều doanh nghiệp 3- 4 năm không nộp đợc tiền BHXH. Những
đơn vị nợ tiền BHXH dây da, kéo dài với số lợng lớn là: Công ty điện tử, Công
ty Giày da xuất khẩu, Công ty đay Thái Bình... theo quy định của pháp luật
15% tiền trích nộp BHXH cho ngời lao động đợc hạch toán vào giá thành sản
phẩm, nhng sản phẩm sản xuất ra còn nằm đó, cha tiêu thụ đợc thì lấy tiền đâu
mà đóng BHXH.
Một minh chứng nữa cho tình hình nộp chậm, nộp thiếu phí BHXH ở trên
đó là một thực trạng đáng lo ngại ở Tuyên Quang với 50% số các doanh nghiệp
Nhà nớc nợ tiền BHXH.
Tính đến cuối năm 1999, BHXH Tuyên Quang quản lý 915 đầu mối, thì có
64 doanh nghiệp Nhà nớc và 7 doanh nghiệp cổ phần với 11.208 lao động tham
gia. Nếu chỉ tính riêng 71 doanh nghiệp này thì kế hoạch 1999 phải nộp là 84 tỷ
đồng. Ngoài 32 đơn vị thờng xuyên trích nộp đầy đủ đúng kế hoạch, 50% trong
số 71 doanh nghiệp chắc chắn không thể hoàn thành kế hoạch năm với số tồn
hàng tỷ đồng (riêng 10 đơn vị của các ngành lớn nh : đờng, chè... đà nợ trên 1,1
tỷ đồng) đó là cha kể đến số nợ của 38 doanh nghiệp tồn đọng từ 1993 đến nay
8,5 tỷ đồng. Nợ cao nhất là Công ty chè Sông Lô có 2000 công nhân song số nợ
từ 1993 đến nay lên đến 2 tỷ đồng, bình quân mỗi công nhân nợ 1 triệu đồng
BHXH. Giám đốc Công ty cho biết hiện nay Công ty đang có hớng trả dần
(?). Song, ông cũng lấp lửng tuyên bố: Nếu mỗi năm giỏi lắm cũng trả đợc 100
triệu thì cũng phải 20 năm sau mới hết nợ đợc.
Một nguyên nhân cơ bản là nền kinh tế và các ngành sản xuất ở Tuyên
Quang không phát triển đợc. Là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển nông-lâmcông nghiệp, hàng năm toàn tỉnh cần có 300 tỷ đồng cho hoạt động bộ máy
song chỉ đáp ứng đợc 1/4 (khoảng 85 đến 90 tỷ đồng) còn 3/4 phải chờ đợi cấp
8
từ ngân sách Nhà nớc. Sản xuất bị đình đốn. Ngay nh việc phát triển cơ sở hạ
tầng nhiều thị xà thành phố phát triển khá sôi động, song thị xà Tuyên Quang
vẫn cứ khép mình giản dị nh... hàng chục năm trớc. Nhiều doanh nghiệp muốn
đầu t công nghệ, phát triển sản xuất song sợ xé rào đành phải nằm im. Ngành
Ngân hàng không giải ngân đợc. Lợng hàng hoá cho các cơ sở sản xuất ra
không tiêu thụ đợc. Công ty đờng Sơn Dơng, đờng Tuyên Quang hạ giá bán còn
4000đồng/kg nay vẫn tồn đọng 2800 tấn; Xí nghiệp vật liệu xây dựng tồn 7
triệu viên gạch...7 doanh nghiệp giấy (2000 lao động) và hàng chục xí nghiệp
vật liệu xây dựng, cơ khí, sửa chữa, may... công nhân sống thoi thóp với đồng lơng 160.000 đồng/tháng, cả công nhân và xí nghiệp đều không có khả năng
đóng BHXH. ĐÃ vậy, số chi trả cho ốm đau lại quá cao trở thành mối nguy cho
việc bảo tồn quỹ, ở lâm trờng Tân Thành , số tiền chi cho ốm ®au q 1 vµ 2/
1999 lµ 47 triƯu ®ång chiÕm 11% quỹ lơng và 34% tiền nộp BHXH; Mỏ đất
chịu lưa chiÕm 46% tiỊn nép BHXH... Cịng do nh÷ng khã khăn nh vậy, việc
cấp sổ BHXH trong các doanh nghiệp hết sức chậm chạp. Triển khai suốt 3 năm
nay, cấp sổ BHXH mới chỉ đạt 73% so với tổng số lao động; Công ty chè Tân
Trào có 600 lao động, cha năm nào hoàn thành chỉ tiêu thu BHXH nên đến nay
cha cấp đợc một sổ nào? Công ty đờng Tuyên Quang và đờng Sơn Dơng cũng
mới chỉ cấp đợc sổ BHXH cho khối văn phòng công ty...
Và còn có thể liệt kê ra đây rất nhiều doanh nghiệp khác nợ đọng phí
BHXH nh: các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty dâu tằm Việt Nam: Xí nghiệp
liên doanh tơ tằm Bảo Lộc (VISINTEX) đang nợ 532 triệu đồng hoạc công ty
Dệt may lụa tơ tằm nợ 254,5 triệu đồng, xí nghiệp ơm tơ tháng Tám nợ 261
triệu đồng (số liệu năm 2001). Công ty ong Nam Định, quý 3-4/1999 toàn công
ty nợ 541 triệu đồng: 2 quý đầu năm 2000 nợ nguyên 40 triệu đồng, vị chi trên
70 các bộ CNV nợ xấp xỉ 100 triệu đồng tiền BHXH.
Đối mặt với thực trạng trên việc đi tìm giải pháp nhằm vực dậy các
ngành kinh tế, thúc đẩy sản xuất là việc làm cơ bản và cần thiết. Song chúng ta
cũng không nên ngồi chờ sản suất phát triển rồi mới quan tâm đến quyền lợi ngời lao động, vì đây là hai mặt của một vấn đề, có tác động với nhau hết sức chặt
chẽ: ngời lao động không thể làm việc tốt, sản suất không thể phát triển, nếu
quyền lợi và đời sống của không đợc quan tâm.
Mặt khác, cần phải tăng cờng tính pháp lý của các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ khi nộp BHXH. Trong luật BHXH, luật phá sản doanh
nghiệp cũng cần phải có điều khoản qui định về thu nộp BHXH có cơ chế
khuyến khích cho cán bộ BHXH phát hiện và chi thu xử lí nghiêm khắc và truy
9
thu BHXH, đồng thời xử lý nghiêm khắc các trờng hợp vi phạm luật BHXH dây
da, nợ tồn đọng tiền BHXH. Vấn đề này cần phải nhìn nhận một cách đầy đủ
hơn và có chế tài mạnh, phải xác định thu nộp BHXH tồn nợ đọng BHXH
không đơn thuần là góc độ kinh tế, mà chính nó làm gia tăng nhanh chóng số
lao động đợc đảm bảo về chế độ BHXH.
2. Trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
2.1. Trong các doanh nghiệp trong nớc
Những năm qua, Đảng và Nhà nớc ®· cã nhiỊu chÝnh s¸ch khun
khÝch ph¸t triĨn khu vùc kinh tế ngoài quốc doanh. Khi thực hiện sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nớc, nhiều doanh nghiệp đà đợc cổ phần hoá, bán khoán, cho
thuê..., khu vực hành chính sự nghiệp cũng đang từng bớc giảm thiểu 15% công
chức Nhà nớc nên lực lợng lao động khu vực ngoài quốc doanh cũng có xu hớng tăng cao. Trong tình hình ấy, Bộ Chính Trị đà có chỉ thị số 15/ CT-TƯ ngày
26/5/1997 về Tăng cờng lÃnh đạo thực hiện các chÕ ®é BHXH”, Thđ tíng
ChÝnh phđ ®· cã nhiỊu ý kiến chỉ đạo hệ thống BHXH Việt Nam phải tổ chức
thực hiện tốt chính sách BHXH để đảm bảo sự công bằng xà hội đối với ngời
lao động ở khu vực này.
Theo quy định tại điều 141 và điều 3 BHXH ban hành kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ thì đối tợng tham gia BHXH là
ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Thực hiện sự chỉ đạo của BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh thành
phố đà cố tìm những biện pháp sáng tạo thực hiện BHXH khu vực ngoài quốc
doanh và thu đợc một số kết quả ban đầu.
+ Năm 1997 có 2.305 đơn vị với 83.578 ngời lao động tham gia BHXH.
+ Năm 1998 có 3.136 đơn vị với 112.223 ngời lao động tham gia BHXH.
+ Năm 1999 có 3.900 đơn vị với 147.855 ngời lao động tham gia BHXH.
+ Năm 2000 đà có 4.735 đơn vị với 197.983 ngời lao động tham gia BHXH.
Công tác tuyên truyền giáo dục đà có tác động tốt không chỉ với ngời lao
động đà tham gia BHXH mà còn giúp những ngời cha tham gia hiểu và nâng
cao nhận thức về quyền lợi và trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách của
Đảng và Nhà nớc. Ngời lao động ngoài quốc doanh cũng dần nhận ra: Tham gia
BHXH không chỉ đợc công bằng, bình đẳng với các thành phần kinh tế và loại
hình lao động khác mà còn thuận lợi khi di chuyển từ thành phần kinh tế này
sang thành phần kinh tế khác và quyền lợi vẫn đợc bảo ®¶m.
10
Nhng đó chỉ là bớc khởi đầu tốt vẫn còn những chớng ngại vật mà nghành
BHXH cần phải vợt qua. Tính đến cuối năm 2000, trên 80% doanh nghiệp với
73% lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thuộc diện BHXH bắt buộc,
nhng vẫn cha tham gia. Nói cách khác, nghĩa vụ và quyền lợi của ngời lao động
trong khu vực kinh tế này cha đợc thực hiện.
Theo số liệu thống kê, năm 1997 có 24.571 đơn vị với 560.000 lao động
vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ có 9,4% số lao động tham gia
BHXH. Năm 1998 có 12,8%; năm 1999 có 16% và năm 2000 có 26,5% vµ chđ
u tËp trung ë mét sè tØnh, thµnh phè lín nh : Tp Hå ChÝ Minh, Hµ Néi, Bình
Dơng, Đồng Nai, Hải Phòng, Bà Rịa-VũngTàu, Tp Đà Nẵng, Long An, Cần
Thơ, Quảng Ninh. Chỉ tính riêng 10 tỉnh, thành phố này năm 1999 đà thu bằng
91,58% (121,9 tỷ ®ång trong tæng sè 133,1 tû ®ång) sè thu BHXH ngoài quốc
doanh của cả nớc. Cũng năm 1999, Tp Hồ Chí Minh có 76.180 lao động ngoài
quốc doanh tham gia BHXH (bằng 51,52%) số thu đạt 81,231 tỷ đồng bằng
61% so với số thu BHXH ngoài quốc doanh của cả nớc. Thậm chí, một số địa
phơng đến nay vẫn cha có doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia BHXH, đó
là: Hng Yên, Bắc Cạn, Lai Châu hoặc có từ 1-2 đơn vị tham gia BHXH nh ở
Sơn La, Yên Bái, Hà Tĩnh
Thực trạng trên cho thấy nguồn thu BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh
còn rất lớn. Số nợ BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh khá cao. Đầu năm 2000,
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ 14,987 tỷ đồng BHXH trên tổng số phải
thu là 132,466 tỷ đồng (mới thu đợc 11,3%). Nhiều tỉnh, thành phố nợ đọng
BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh hàng tỷ đồng, nh Thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội, Bình Dơng, Long An, Đồng Nai.
Việc thực hiện BHXH khu vực ngoài quốc doanh còn nhiều hạn chế có
nhiều nguyên nhân của tất cả các bên tham gia:
- Các văn bản quy phạm Nhà nớc về thực BHXH ngoài quốc doanh cha
đầy đủ, kịp thời, cha bao quát cụ thể hoá trong các quy định về hợp đồng lao
động, tiền lơng, xử phạt Các quy định về thực hiện BHXH có trong nhiều văn
bản luật, Nghị định của Chính phủ thông t hớng dẫn của các bộ ngành có liên
quan, nhng mỗi văn bản lại điều chỉnh một mối quan hệ về BHXH giữa Nhà nớc với các cơ quan, ngành cấp riêng, trong các loại hình doanh nghiệp, ngành
nghề riêng, nên chủ sở dụng lao động và ngời lao động khó nắm bắt và khó thực
hiện.
- Khả năng quản lý, đôn đốc thu nộp BHXH của cơ quan BHXH cha đáp
ứng nhu cầu thực tÕ. Bëi thêi gian qua thùc hiÖn BHXH khu vùc ngoµi quèc
11
doanh thiếu về cán bộ, cơ sở vật chất, phơng tiện hoạt động nghiệp vụ và nhất là
thiếu cơ chế khuyến khích cán bộ công chức ngành BHXH làm công việc khó
khăn này.
- Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có giấy phép chứ thực tế
không hoạt động.
- Hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cha có tổ chức công đoàn và
nếu có cũng chỉ là hình thức. Công đoàn ở đây cha làm đợc chức năng bảo vệ
quyền lợi ngời lao động vì bản thân họ cũng là ngời lao động có tâm trạng và
hoàn cảnh tơng tự.
- Chđ doanh nghiƯp khu vùc ngoµi qc doanh cha thùc sự tôn trọng quyền
lợi hợp pháp của ngời lao động, tìm cách trốn tránh tham gia BHXH của ngời
lao động bằng cách đăng ký lao động ít hơn 10 lao động hoặc ký hợp đồng dới
3 tháng. Doanh nghiệp chỉ thực hiện các hoạt động Tự bảo hiểm một số quyền
lợi không thể không đáp ứng để động viên ngời lao động. Cơ quan BHXH
không có chức năng kiểm tra, yêu cầu các doanh nghiệp phải tham gia BHXH.
- Do trình độ hiểu biết về chính sách BHXH của ngời lao động còn thấp
đồng thời nhu cầu tìm việc làm là mục tiêu bức thiết, nên ngời lao động không
chú ý đến quyền lợi vè BHXH, không đốc thúc việc đóng BHXH của chủ sử
dụng lao động, nên cũng ảnh hởng đến việc mở rộng BHXH.
Vì vậy, cách giải quyết vấn đề tham gia BHXH nói riêng và các chính
sách lao động khác ở khu vực ngoài quốc doanh phải bắt đầu từ việc tổ chức lại
doanh nghiệp ngoài quốc doanh đúng với nghĩa của nó. Ngành kế hoạch đầu t
từ bộ đến địa phơng (Sở) cần xiết chặt hơn các điều kiện bảo đảm cho một
doanh nghiệp đợc thành lập và hoạt động. Trong đó, rất quan trọng là việc chấp
hành Luật Lao Động và chính sách đối với ngời lao động.
Một địa phơng đại diện cho các nguyên nhân trên đó là tỉnh Phú Thọ,
giống nh thực trạng chung của cả nớc, BHXH khối ngoài quốc doanh của tỉnh
này cũng đang đứng trớc tình trạng bị thất thu nghiêm trọng.
Là vùng trung du bán sơn địa, có khu công nghiệp Việt Trì với hàng
chục nhà máy, công ty lớn; nên tuy là tỉnh mới tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú, khối
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tỉnh Phú Thọ đà sớm hình thành và phát
triển mạnh. Tính đến cuối năm 1999, Phú Thọ đà có xấp xỉ 100 đơn vị ngoài
quốc doanh đa ngành đa nghề với hàng chục nghìn lao động. Nếu chỉ tính các
đơn vị có 10 lao động trở lên và hợp đồng từ 3 tháng trở lên, Phú Thọ cũng có
66/100 đơn vị thuộc diện đóng BHXH bắt buộc với số lợng 3.625 ngời. Nhng
đến nay, ngành BHXH Phú Thọ mới chỉ quản lý đợc 10 đơn vị với vẻn vẹn
12
218 lao ®éng. NÕu tËn thu ®óng, thu ®đ cđa 66 đơn vị này, số thu hàng năm đạt
xấp xỉ 1 tỷ đồng; song hiện nay đến hết tháng 9/1999 mới thu đợc 115 triệu
đồng/160 triệu đồng kế hoạch cả năm; và nếu có thu đủ thì tổng thu khối ngoµi
qc doanh cịng chØ b»ng tõ 3% - 4% kÕ hoạch thu toàn tỉnh. Thất thu nghiêm
trọng ở Thành phố Việt Trì: có 42 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thì có tới 39
đơn vị chậm nộp BHXH. Huyện Thanh Sơn có 8 đơn vị, thì chỉ có 1 đơn vị tham
gia với số lợng 3 ngời là XNXD Xuân Thuỷ. Huyện Phong Châu có 7 đơn vị thì
mới có 1 đơn vị tham gia là công ty TNHH Việt Đức với 118 lao động. Yên
Lập, Hạ Hoà, Thanh Ba mỗi huyện có 1 doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
song vẫn trắng BHXH khối ngoài quốc doanh. ở Việt Trì, có 39 đơn vị ngoài
quốc doanh đăng ký tham gia BHXH, song vẻn vẹn chỉ có 3 đơn vị với 104 ngời
tham gia là xí nghiệp xâp lắp điện nớc Hải Hà (19), xí nghiệp thực phẩm Việt
Anh (20), và công ty bông vải sợi Nghĩa Hng (65), 39 đơn vị còn lại chỉ tham
gia mồm.
ở các tỉnh khác nh Hà Tây, Hà Nội, Đồng Tháp, Thanh Hoá việc các
chủ sử dụng lao động không đóng BHXH cho công nhân phần lớn với lý do: dới
10 ngời, và hợp đồng dới 3 tháng(!). Song việc ở Phú Thọ có 66/100 đơn vị có
10 lao động trở lên và ký hợp đồng 3 tháng trở lên mà chỉ có bấy nhiêu đơn vị
và lao ®éng tham gia BHXH cho thÊy: viƯc viƯn cí dới 10 ngời và dới 3 tháng
chỉ là chiêu bài ®Ĩ c¸c giíi chđ trèn BHXH! C¸c chđ doanh nghiƯp ngoài
quốc doanh phần lớn không qua đào tạo, không có quy hoạch, không có tổ
chức; ai có tiền là đứng ra kinh doanh theo kiểu chụp giựt, đợc năm nào hay
năm ấy nên họ chỉ tận thu mà không tận nghĩa với ngời lao động. Ngời lao
động trong các doanh nghiệp ở tứ xứ, họ chỉ cần việc làm, đồng lơng làm đến
đâu hay đến đó, đâu lơng cao thì đến, đâu thấp thì bỏ đi, nếu đòi hỏi BHXH với
chủ doanh nghiệp sợ mất việc làm. Đó là bản chất của việc ngời sử dụng lao
động thì trốn tránh, ngời lao động thì thờ ơ với BHXH. Một ví dụ điển hình là
Công ty TNHH Việt Hng (Viêt Trì): Theo dự án từ năm 1998, Công ty này đăng
ký 42 lao động (thực chất có hàng trăm lao động): đây là một công ty ngoài
quốc doanh lớn nhất tỉnh Phú Thọ, kinh doanh đa ngành nghề, phát triển mạnh
nhất là kinh doanh vận tải, xe buýt, taxi với hàng chục đầu xe khác nhau Trụ
sở Công ty to hơn trụ sở BHXH tỉnh Phú Thọ. Thậm chí, Công ty này còn có cả
hệ thống công đoàn, còn thực hiện cả việc bù lỗ cho xe buýt, làm công tác từ
thiện Song suốt từ khi thành lập đến nay, Công ty ch a đóng một đồng BHXH
nào cho công nhân, vậy mà cũng không thấy tổ chức công đoàn này nói gì?.
Các công ty Thơng mại Mai Khánh (23 lao động), Sơn Ngọc (35 lao động) Việt
13
Hà (15 lao động), Công ty bao bì Thơng mại Quế Hải (52 lao động), Công ty
dựng Hoà Phong (25 lao động) cũng không hề có ng ời nào tham gia BHXH?.
Xí nghiệp sản xuất bao bì Tân Phong (Lâm Thao) có hàng trăm lao động,
chuyên kinh doanh bao bì cho Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao,
bà chủ xí nghiệp là uỷ viên UBMTTQ tỉnh, sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu đồng
để làm từ thiện, song thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH cho công nhân thì
không! Xí nghiệp vật liệu xây dựng Trung Thành (Việt Trì) có 36 lao động, có
cả cần cẩu, băng chuyền với nhiều thuyền bè khai thác cát trên sông Lô, sản
xuất phát triển, BHXH tỉnh mời dự Hội nghị về công tác BHXH cũng tham gia
đầy đủ, nhng khi yêu cầu đóng BHXH cho công nhân thì cũng đánh bàilờ!
Công ty chè Đắc Nhân Tâm (Hạ Hoà) chuyên sản xuất kinh doanh chè, theo dự
án cũng có trên 30 lao động, doanh thu mỗi năm hàng tỷ đồng song cũng không
nộp bảo hiểm cho ai? Thậm chí, xí nghiệp mộc-xây dựng 30/4 (Việt Trì) còn có
cả công văn gửi BHXH tỉnh tuyên bố không có điều kiện tham gia! Trong khi
đơn vị này cũng là đối tợng tham gia bắt buộc.
Đó chỉ là một trong số nhiều địa phơng ở nớc ta, quyền lợi hợp pháp của
ngời lao động không đợc đảm bảo. Có thể thấy đợc ở mỗi địa phơng, các chủ
doanh nghiêp sử dụng lao động đều tìm thấy cho mình những lý do, những
nguyên nhân để không thực hiện nghĩa vụ với ngời lao động. Tình trạng trên
không thể để kéo dài vì nó sẽ làm ảnh hởng đến quyền lợi của ngời lao động khi
cần đến sự trợ giúp của quỹ BHXH. Để đảm bảo quyền lợi cho ngời lao động
trong các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh cần tăng cờng công tác tuyên truyền
chính sách BHXH đối với ngời lao động bằng nhiều hình thức, thông qua cơ
quan báo đài, tổ chức đoàn thể, cơ quan đơn vị để ngời lao động hiểu đợc quyền
lợi khi tham gia BHXH tự giác tham gia. Trong khi chờ ban hành luật BHXH,
trớc mắt đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung những điều bất hợp lý của Nghị
định 38/CP về xử phạt vi phạm pháp luật lao động về BHXH. Đồng thời, có sự
chỉ đạo đồng bộ đối với các nghành, các cấp về lĩnh vực này. Tăng cờng sự phối
kết hợp giữa cơ quan BHXH với Sở Lao Động-Thơng binh và XÃ hội, Liên đoàn
lao động tỉnh và các cơ quan hữu quan để tuyên tuyền giáo dục, vận động và có
biện pháp hành chính làm cho ngời sử dụng lao động và ngời lao động thực thi
Điều lệ BHXH nghiêm túc. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phơng để có
biện pháp hỗ trợ cho các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH.
2.2. Trong các đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài.
Xuất khẩu lao động không chỉ là việc ®a ngêi lao ®éng ViƯt Nam ra níc
ngoµi lµm viƯc mà vấn đề còn là xuất khẩu lao động tại chỗ (ngời lao động làm
14
việc trong các đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam) Nhng vấn đề đợc
quan tâm hơn cả là quan hệ lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Tháng 12/1987, Luật đầu t nớc ngoài vào Việt Nam đợc ban hành. Đến
nay, đà có gần 2000 dự án đợc cấp giấy phép đầu t tại Việt Nam với số tiền đầu
t trên 30 tỷ USD. Các khu chế xuất công nghiệp tập trung đợc hình thành. Trên
4 vạn lao động thờng xuyên làm việc trong các cơ sở đà đi vào hoạt động nền
nếp, cha kể nhiều vạn ngời lao động của nghành xây dựng thi công các công
trình. Đầu t sản xuất và dịch vụ có đợc mở rộng thì ngời lao động mới có thêm
việc làm, đợc rèn luyện về kỷ luật lao động, tác phong làm việc, biết thêm ngoại
ngữ và điều quan trọng hơn là con ngời trở nên năng động sáng tạo hơn trong
việc sủ dụng sức lao động của mình.
Tuy nhiên, đà có không ít vớng mắc diễn ra trong quan hệ lao động ở
khu vực này. Đó là vấn đề điều hành sản xuất kinh doanh (mua bán vật t, tiêu
thụ sản phẩm), ngời nớc ngoài nói thế nào, ngời ta biết vậy, bởi việc mua bán
nguyên liệu, vật t, máy móc, thiết bị diễn ra ở nớc ngoài. Hơn thế, trong ban
lÃnh đạo Công ty, ngời Việt Nam chiếm tỷ lệ ít hơn, ít giữ các vai trò, vị trí
trọng trách hơn, cấp bậc cũng thấp hơn (chỉ là phó giám đốc, còn giám đốc là
ngời nớc ngoài). Vèn ®ãng gãp vỊ phÝa ViƯt Nam cha ®Õn 50%. Mục tiêu cao
nhất của chủ đầu t nớc ngoài là lợi nhuận, nên việc thuê công nhân Việt Nam
với giá càng thấp càng tốt, ngoài ra còn thiết lập kỷ luật lao động, phạt nặng
hơn những sơ suất do công nhân Việt Nam gây ra gây nên sự phản đối bất
bình. Cán bộ lÃnh đạo và công nhân Việt Nam luôn chịu một tâm lý đi làm thuê
cho ngời nớc ngoài, coi họ là kẻ bóc lột, coi trọng lợi nhuận nên quan hệ lại
càng trở nên khó gần gũi, gắn bó. Ngôn ngữ bất đồng, dễ dẫn đến hiểu lầm hoặc
mâu thuẫn trong lao động. Trong những năm gần đây, tiền lơng trong các đơn
vị có vốn đầu t nớc ngoài cũng không hấp dẫn mạnh, bởi thu nhập và tiền lơng
của ngời lao động ở một số ngành nghề của doanh nghiệp Việt Nam tăng lên.
Mặt khác, các đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài làm việc thờng không ổn định,
tháng này làm, tháng sau nghỉ. Ngời lao động có mục tiêu trớc mắt, không có
mục tiêu lâu dài, nên tâm lý không muốn tham gia BHXH, BHYT. Theo quy
định hiện hành cứ một năm đóng BHXH (12 tháng) khi nghỉ việc đợc trợ cấp 01
tháng lơng, nhng nếu ngời lao động mới đóng 11 tháng thì không đợc trợ cấp,
mà bảo lu kết quả đóng BHXH để sau này cộng dồn thời gian đóng BHXH thì
không biết bao giờ ngời lao động mới đủ điều kiện để hởng trợ cấp hàng tháng?
Sự bất hợp lý này không khuyến khích ngời lao động trong đơn vị có vốn đầu t
15
nớc ngoài tích cực tham gia BHXH và không đòi hỏi giới chủ phải đóng BHXH
cho họ.
Để giảm bớt vớng mắc trong quan hệ lao động, trong đó quan hệ BHXH ở
các đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài, thiết nghĩ phải làm cho ngời nớc ngoài điều
hành sản xuất tại Việt Nam. Các cơ quan chức năng Việt Nam cần giải quyết
kịp thời những hành vi vi phạm Bộ Luật Lao động. Mặt khác, cần tuyên truyền
giáo dục lao động Việt Nam nhận thức đúng về vị trí của mình trong sản xuất.
II. Vấn đề hởng trợ cấp BHXH của ng ời lao động.
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) các nớc trên Thế
giới nên thực hiện trợ cấp 9 chế độ mà tổ chức này đà nêu trong Công ớc 102
tháng 6/1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho ngời còn sống
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều
kiện kinh tế-xà hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Giơnevơ thực hiện khuyến
nghị ở mức độ khác nhau, nhng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó, ít
nhất phải có 1 trong 5 chế độ: (3); (4), (5), (8), (9).
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH níc ta hiƯn nay bao
gåm 5 chÕ ®é: Chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hu trí và chế độ tử tuất.
1. Chế độ trợ cấp ốm đau.
Chế độ này giúp cho ngời lao động có đợc khoản trợ cấp thay thế thu
nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. Đối tợng trợ cấp của chế độ này
là ngêi lao ®éng èm, ngêi lao ®éng cã con èm và ngời lao động áp dụng các
biện pháp kế hoạch hoá gia đình...
Năm 2000 đẵ có trên 1 triệu lao ®éng nghØ hëng chÕ ®é èm ®au, víi trªn
6 triƯu ngày công đợc ngành BHXH thanh toán trên 80,2 tỷ đồng. 6 tháng đầu
năm 2001 có hơn 523 nghìn lợt ngời hởng chế độ ốm đau với trên 3 triệu ngày
công, số tiền thanh toán gần 44.8 tỷ đồng.
16
Trong khối hành chính sự nghiệp, ngời lao động hởng mức lơng cố định
theo thang, bậc lơng do Nhà nớc quy định và đó cũng chính là quỹ tiền lơng
tham gia BHXH, đợc cấp bởi ngân sách Nhà nớc. Ngoài những trờng hợp thai
sản, điều trị bệnh dài ngày trong các bệnh viện, ngời lao động thờng hạn chế
việc nghỉ ốm, nếu có đầy đủ chứng từ nghỉ ốm, họ cũng chỉ đợc thanh toán 75%
mức lơng tham gia BXHX do ngành BHXH chi trả theo quy định, do vậy thanh
toán nghỉ ốm không có lợi cho họ. Năm 2000, với trên 1,5 triệu lao động tham
gia BHXH, chỉ có 70.000 lợt ngời nghỉ ốm với 760.000 ngày công, chi trả 9,68
tỷ đồng, 6 tháng đầu năm 2001, cũng với số lao động trên 1,5 triệu ngời, có
32.000 lợt ngời nghỉ ốm, với 444.000 ngày công, chi trả trên 5,2 tỷ đồng.
Khối doanh nghiệp Nhà nớc, có số lao động tham gia BHXH xÊp xØ
HCSN, cịng trªn 1,5 triƯu ngêi, nhng số ngời nghỉ ốm năm 2000 lên đến
770.000 lợt ngời, với trên 4,7 triệu ngày công và số tiền chi trả từ quỹ BHXH
lên đến 52,4 tỷ đồng; 6 tháng đầu năm 2001 đà có gần 400 lợt ngời nghỉ ốm với
2,3 triệu ngày nghỉ và số tiền phải chi từ quỹ BHXH là 29,88 tỷ đồng, so với
khối HCSN, mỗi chỉ số trong nghỉ ốm tăng gấp nhiều lần.
Hiện nay trong các doanh nghiệp, thu nhập thực tế của ngời lao động thờng cao hơn quỹ lơng tham gia đóng BHXH, thậm chí gấp nhiều lần. Thu nhập
này phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vào khối lợng
sản phẩm khoán, vào công việc đợc doanh nghiệp giao cho. Với những doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh phát đạt và ổn định, thu nhập thực tế của ngời lao
động khá cao, họ chỉ quan tâm đến việc làm, đến thời gian sản xuất trong doanh
nghiệp. Do vậy đối với ngời lao động trong các doanh nghiệp này, ngoài nghỉ
thai sản và điều trị bệnh dài ngày bắt buộc tại Bệnh viện, việc thanh toán ngày
công ốm qua cơ quan BHXH trở nên không cần thiết.
Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, việc trả đủ
lơng cho ngời lao động cũng trở thành vấn đề nan giải, chứ cha nói đến đóng đủ
BHXH cho ngời lao động. Nhiều lao động tại các đơn vị này luân phiên nhau
nghỉ ốm để đợc cơ quan BHXH thanh toán, nh là một biện pháp tăng thu nhập
hoặc lấy tiền từ BHXH để quay lại đóng BHXH. Xí nghiệp gạch Tuy-nen (Lào
Cai), có số lao động tham gia BHXH là 153 ngời, quý 1 năm 2001 có 144 lợt
ngời nghỉ ốm với 1017 ngày công; Xí nghiệp Dệt len Sài Gòn có 587 lao động,
số ngời nghỉ ốm trong quý 1 năm 2001 là 638 lợt ngời với 1881 ngày, Công ty
cao su Phớc Hoà (Bình Phớc), chỉ trong thời điểm quý 1 năm 2001 đà thanh
toán cho 2336 lợt ngời nghỉ ốm với số ngày công là 9287 ngày công; Công ty
Dệt Thanh Sơn (Đà Nẵng) có 238 lao động, chỉ trong quý 1 năm 2001 ®· cã
17
395 ngêi nghØ èm víi sè ngµy nghØ lµ 2786 ngày, Xí nghiệp gạch ngói Lai Nghi
(Đà Nẵng) cũng trong quý 1 năm 2001 chỉ với 53 lao động đà có số lợt ngời
nghỉ là 123 lợt ngời Trong những doanh nghiệp đang gặp khó khăn, việc cấp
các chứng từ nghỉ ốm dễ dàng hơn với những doanh nghiệp lớn cã hƯ thèng Y
tÕ trùc thc, dƠ dµng cã sù thoả thuận hay chỉ đạo của chủ sử dụng lao động.
Vậy trong các thí dụ nhỏ trên, khi số lợng ngêi nghØ èm lín nh vËy, thư hái cßn
cã bao nhiêu lao động làm việc trong ngày? Cá biệt có đơn vị có số chi chế độ
này quá cao, chiếm gần 8% so với tổng quỹ lơng khi tham gia bảo hiểm.
Để đảm bảo cho sự chính xác, đòi hỏi ngành Y tế cần kiên quyết trớc hiện
tợng ốm giả có trách nhiệm với những giấy tờ, hồ sơ đà cấp. Có thể chi trả chế
độ BHXH ngắn hạn có thể thay đổi cách làm nh hiện nay và thực hiƯn thÝ ®iĨm
ë mét sè doanh nghiƯp, mét sè vïng để xác định hiệu quả chắc chắn của nó, trớc khi đa vào luật BHXH thành cơ sở pháp lý. Đó là với khối hành chính sự
nghiệp với đặc điểm tập trung tại các thành phố, đô thị, trung tâm hành chính
quận huyện, nơi tập trung hệ thống Y tế thuận tiện cho việc khám bệnh điều trị,
việc chi trả chế độ vẫn áp dụng nh hiện nay, thanh toán trên cơ sở hồ sơ, bệnh
án và do cơ quan BHXH thùc hiƯn; víi nhiỊu doanh nghiƯp, nhÊt lµ víi những
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp hoạt động phân tán, lu đông nh ngành dệt may,
xây dựng, cầu đờng, địa chất, có thể khoán chi chế độ này cho doanh nghiệp.
Điều đó tạo thuận lợi cho doanh nghiệp không mất nhiều thời gian thanh toán
BHXH, chủ động chi ốm đau và ®ã cịng chÝnh lµ mong mái cđa nhiỊu doanh
nghiƯp, thn lợi cho cơ quan BHXH, và khi đó nhiều doanh nghiƯp sÏ khèng
chÕ tû lƯ ngêi èm cđa ngêi lao động.
2. Chế độ trợ cấp thai sản
Chế độ này nh hiện nay đà giúp lao động nữ có đợc khoản trợ cấp thay thế
cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Đối tợng trợ cấp của
chế độ này là lao động nữ trong thời gian mang thai, sinh con và nuôi con và cả
lao động nữ nuôi con sơ sinh.
Theo số liệu thống kê năm 2000, có gần 160.000 ngời nghỉ hởng chế độ
thai sản với số tiển bảo hiểm xà hội trên 228,6 tỷ đồng. 6 tháng đầu năm 2001,
có 150.000 ngời nghỉ chế độ thai sản đợc thanh toán từ quỹ BHXH với số tiền
gần 179 tỷ đồng.
Đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao đông nữ, đặc biệt là các doanh
nghiệp kinh doanh các mặt hàng may mặc thời trang Số lao động nữ nghỉ
sinh con đợc hởng chế độ thai sản của BHXH thờng cao hơn các doanh nghiệp
18
khác nh: Công ty Dệt Thanh Sơn (Đà Nẵng) có 238 lao động, chỉ trong quý 1
năm 2001 có số ngời nghỉ thai sản là 23 ngời
Hầu hết các trờng hợp này đều đợc quỹ BHXH thực hiện chi trả đầy đủ.
Tuy nhiên tại các doanh nghiệp vẫn còn hiện tợng doanh nghiệp không thực
hiện đóng BHXH cho ngời lao ®éng do ®ã qun lỵi vỊ thu nhËp, nghØ dìng sức
của ngời lao động nữ không đợc đảm bảo.
Với khối doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, đặc điểm nổi bật là ngời
lao động đóng BHXH với mức lơng cao và khi thanh toán các chế độ BHXH họ
cũng đợc hởng cao. Nhiều doanh nghiệp loại hình này đà nhận vào làm việc
những ngời đang có thai, đóng BHXH vài tháng để sau đó đợc hởng BHXH với
số tiến lớn. Cá biệt nh trờng hợp bà Lê Thị Hồng Vân, làm việc tại văn phòng
BTR POWER SYSTEM, đóng BHXH đợc 7 tháng, với mức đóng là 344
USD/tháng thì nghỉ thai sản, đợc cơ quan BHXH thanh toán trên 120 triệu
đồng, sau đó bỏ việc không tham gia BHXH.
Chế độ thai sản đợc quy định cụ thể trong Nghị định 93/1998 NĐ-CP
ngày12/11/1998 bổ sung một số điều kèm theo Nghị định 12 CP, d luận rất
đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên cũng còn có một số điều còn cha hợp lý: đối với trờng hợp thai có bệnh lý, thai không bình thờng mà trong suốt quá trình mang
thai chỉ đợc nghỉ việc để khám thai 3 lần , mỗi lần 2 ngày là cha bảo đảm.
Trong thực tế có rất nhiều trờng hợp để bảo vệ đứa con, ngời mẹ phải hạn chế
làm một số công việc hoặc phải nghỉ việc một thời gian đẻ dỡng thai nhi. Và để
tránh trờng trờng hợp nh bà Vân cần quy định ®iỊu kiƯn vµ thêi gian tham gia
BHXH Ýt nhÊt lµ 9 tháng trớc khi sinh con mới đợc hởng trợ cấp thai sản. Trong
thực tế hiện nay, đa số lao động đều thoát ly để đi làm việc, vì vậy chỉ có 2 vợ
chồng, khi sinh con ngời chồng phải có trách nhiệm và bổn phận chăm sóc vợ
con, lo toan cuộc sống gia đình trong một khoản thời gian nhất định. Do đó, cần
xem xét cho ngời chồng đợc nghỉ việc, có thể là 2 tuần?
3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐBNN).
Chế độ này nhằm đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho ngời lao
động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Ngời lao động sẽ
đợc trợ cấp một lần nếu nh khi hồi phục sức khoẻ mà bị suy giảm khả năng lao
động dới 31% và đợc trợ cấp hàng tháng nếu ngời lao động bị suy giảm sức lao
động từ 31%-100%, ngoài ra nếu tỷ lệ mất sức lao động từ 81% trở lên thì còn
đợc hởng trợ cấp tự phục vụ bằng 80% lơng tối thiểu. Mức trợ cấp phụ thuộc
vào mức suy giảm khả năng lao động. Trong trờng hợp ngời lao động bị chết
19
BHXH phải trợ cấp một lần cho gia đình ngời lao động 24 tháng lơng tối thiểu
và thực hiện trợ cấp tuất theo quy định.
3.1. Tai nạn lao động
Nền kinh tế nớc ta trong những năm qua đà có sự tăng trởng đáng kể.
Do những nhu cầu bức thiết về xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh
hoạt xà hội, nguồn kinh phí, nguồn vốn đầu t cho những công trình trọng điểm
này đà chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng Ngân sách Nhà nớc. Đông đảo lực
lợng công nhân lao động đợc huy động vào lĩnh vực xây dựng. Song có một
thực tế đáng buồn đang trở thành mối quan tâm của toàn xà hội: Số vụ TNLĐ
mỗi năm một gia tăng, chiếm tỷ lệ cao nhất ở ngành xây dựng và tai nạn giao
thông đờng bộ. Thực trạng tình hình trên không những gây những hậu quả
nghiêm trọng về tính mạnh, sức khoẻ của ngời lao động mà còn ảnh hởng xấu
đến vấn đề an sinh xà hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng số vụ
TNLĐ đó là:
- Chế độ ATLĐ đà bị vi phạm hoặc bị xem thờng từ phía ngời SDLĐ và
chính bản thân ngời lao động. Nhiều quy định về ATLĐ, các quy trình kỹ thuật
an toàn trong quá trình lao động sản xuất đà không đợc tuân thủ một cách
nghiêm ngặt.
- Nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận tối đa nên hạn chế chi phí mua
sắm hoặc cải tiến các trang thiết bị bảo hộ lao động.
- Bản thân ngời lao động, nhất là bộ phận công nhân hợp đồng lao động
theo thời vụ, cha đợc hớng dẫn một cách tờng tận các biện pháp an toàn lao
động, nên rất dễ chủ quan, mắc sai phạm.
- Các cơ quan giám sát, kiểm tra tiêu chuẩn an toàn lao động thực sự ch a
có biện pháp chế tài, xử lý nghiêm khắc những trờng hợp vi phạm.
NTLĐ, nhất là TNLĐ trong nghành xây dựng, theo số liệu thống kê ở
Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1992 đến năm 1998, chiếm 4% tổng số ngời
chết so với tổng số ngời thiệt mạng trong các ngành nghề lao động khác nhau
gây ra. Số lợng ngời có tỷ lệ thơng tật từ 31% trở lên còn cao hơn nhiều so với
số bị tử vong. Tình hình TNLĐ ở tỉnh Thừa Thiên- Huế nói chung và TNLĐ
trong ngành xây dựng nói riêng tuy cha đến mức báo động nhng mỗi năm số vụ
TNLĐ có hởng chế độ trợ cấp BHXH đều tăng. Từ tháng 10/1995 đến tháng
6/1998, BHXH tỉnh đà giải quyết trợ cấp hàng tháng cho 54 trờng hợp TNLĐ,
trong đó tai nạn giao thông chiếm đến 20 trờng hợp; giải quyết trợ cấp 1 lần cho
71 trờng hợp, trong dó tai nạn giao thông có 26 trờng hợp.
20
Còn biết bao nhiêu vụ việc TNLĐ khác xảy ra cho những công nhân không
đợc tham gia BHXH thì cha có số liệu cụ thể! ĐÃ xảy ra nhiều trờng hợp TNLĐ
đáng thơng cho những ngời lao động ở dạng hợp đồng ngắn hạn hoặc lao động
thời vụ chỉ đợc ngời sử dụng lao động chi cấp cho một khoản tiền nhỏ hoàn toàn
không tơng ứng với mức độ tổn thơng. Tình cảnh của những đối tợng này rất thê
thảm, bản thân bị mất sức lao động, nhiều khi kéo dài, gia đình phải chịu nhiều
phí tổn y tế. Đời sống kinh tế càng lâm vào cảnh bế tắc! Điều gì sẽ xảy ra cho
gia đình, xà hội một khi ngời ta cùng đờng, tuyệt vọng? BHXH là phơng án tối u để đảm bảo sự ổn định cho ngời lao động trong những trờng hợp nh thế. Nhng
thực tế còn rất nhiều đối tợng lao động ở khu vực doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đà bị chủ doanh nghiệp đẩy ra ngoài hành lang an toàn. Tình trạng rơi
tự do của ngời lao động lại bắt nguồn từ những cú lách của ngời sử dụng lao
động với những lý do: lao động theo thời vụ, đơn vị sử dụng dới 10 lao động!...
3.2. Bệnh nghề nghiệp
Bệnh nghề nghiệp (BNN) là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại
của nghề nghiệp tác động tới ngời lao động. Từ năm 1976 đến nay, tại Việt
Nam đà có 21 bệnh đợc Nhà nớc công nhận là BNN, đợc BHXH thực hiện trả
trợ cấp. Tổng số ca mắc BNN và đợc giám định qua 10 năm 1991 đến 2000 là
9977 trờng hợp. Số công nhân bị BNN đợc giám định trong giai đoạn 1996 2000 đà tăng gấp 3 lần so với giai đoạn 1991- 1995, từ 2553 lên 7424 trờng
hợp. Trên Thế giới, chi phí cho TNLĐ và BNN ớc tính chiÕm tíi 4% tỉng s¶n
phÈm qc néi cđa mét sè nớc. ở Việt Nam các chi phí này cha đợc íc tÝnh.
Trong sè 21 BNN, nhãm c¸c bƯnh phỉi nghỊ nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất
(73%), rồi đến các bệnh do yếu tố vật lý (18,5%), các bệnh nhiễm độc nghỊ
nghiƯp (4,5%), ci cïng nhãm c¸c bƯnh nhiƠm khn nghỊ nghiệp (0,9%).
Những địa phơng có số ngời lao động mới mắc BNN cao chủ yếu tập trung vào
các thành phố và tỉnh có các ngành công nghiệp phát triển nh: Thái Nguyên,
Quảng Ninh, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai...
Nhìn chung, BNN có xu hớng tăng ở tất cả các nhóm BNN, đặc biệt là các
bệnh bụi phổi silic và điếc do tiếng ồn. Tính tới tháng 6/2001, số trờng hợp bị
bệnh bụi phổi silic đà đợc giám định và đợc hởng trợ cấp là 7125 trờng hợp
(chiếm trên 70% so với tổng số các BNN). Số trờng hợp điếc do tiếng ồn với
1868 trờng hợp (chiếm trên 18%). Các BNN khác có số mắc cao là nhiễm độc
thuốc bảo vệ thực vật nghề nghiệp (214 trờng hợp) bệnh sạm da nghề nghiệp
(212 trờng hợp), bệnh nhiễm độc chì (166 trờng hợp). Bệnh nhiễm độc nicôtin
21
nghề nghiệp đợc công nhận từ năm1998 nhng cũng đà có 131 trờng hợp phải
giám định.
Số lợng nêu trên vẫn cha phản ánh đúng thực tế tình hình BNN ở nớc ta.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là giai đoạn 1996- 2000, công tác khám
bệnh nghề nghiệp đà và đang đợc các địa phơng cũng nh các Bộ, nghành chú
trọng và quan tâm. Công tác khám BNN đợc triển khai rộng rÃi do vậy số phát
hiện mắc BNN cũng đà tăng lên một cách đáng kể, Mặc dù vậy, số công nhân
đợc khám BNN mới chỉ đạt khoảng 1-5% trong tổng số công nhân tiếp xúc với
nguy cơ. Tỷ lệ phát hiện BNN chiếm 14,7% tổng số khám và tỷ lệ đợc giám
định là 37,5%. Tỷ lệ phát hiện số ngời mới mắc bệnh bụi phổi silic trên tổng số
công nhân đợc khám trung bình hàng năm là 15,75% trên tổng số đợc giám
định là 43%. Với sự đóng góp tích cực của cơ quan BHXH, Bảo hiểm Y tế, ngời
lao động bị BNN đà đợc hởng các chế độ theo đúng quy định của Nhà nớc. Tuy
nhiên, số công nhân đợc khám bệnh nghề nghiệp quá thấp so với tổng số lao
động tiếp xúc với các yếu tố có nguy cơ. Công tác giám định còn phức tạp và
thiếu cán bộ nên mới giám định đợc 40% số ®· ph¸t hiƯn bƯnh. C¸c bƯnh cha
kh¸m ph¸t hiƯn trong 10 năm qua là nhiễm độc asen, mangan và bệnh giảm áp
nghề nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng BNN là:
- Môi trờng lao động bị ô nhiễm nặng. Dây chuyền công nghệ sản xuất
nhiều nơi còn lạc hậu, trang thiết bị bảo hộ lao động cũ, hỏng, hoặc thiếu làm
cho môi trờng lao động bị ô nhiễm bởi: bụi, tiếng ồn, ánh sáng, hơi khí độc...
Hiện nay số mẫu đo môi trờng vợt tiêu chuẩn cho phép vẫn còn cao (chiếm
Ti bn FULL (47 trang): />khoảng 23%).
D phũng: fb.com/TaiHo123doc.net
- Cơ cấu sản xuất mới, dây chuyền công nghệ mới, hình thành những
ngành sản xuất mới làm nảy sinh yếu tố có hại đến sức khoẻ ngời lao động và
hình thành những bệnh nghề nghiệp cha có trong danh mục.
- Sức khoẻ ngời lao động cha đợc quan tâm đúng mức cả từ phía ngời sử
dụng lao động và ngời lao động. Tại nhiều tỉnh, các doanh nghiệp cha quan tâm
đến công tác giám sát môi trờng lao động, khám sức khoẻ định kỳ và khám
bệnh nghề nghiệp cho công nhân. Ngời lao động ít hiểu biết về quyền lợi và
phòng chống các tác hại trong môi trờng độc hại. Việc không thực hiện thờng
xuyên công tác giám sát môi trờng lao đông, khám sức khoẻ định kỳ dẫn tới
khó khăn khi làm hồ sơ thủ tục cho ngời bị BNN đi giám định và hởng trợ cấp.
- Chi phí để giám sát môi trờng lao động và phát hiện BNN cha đợc đa vào
kế hoạch thờng xuyên của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả không chú trọng đến công tác này. Chỉ có hơn 20% đối tợng sau bị
22
bệnh bụi phổi nghề nghiệp đợc chụp lại phim và đo chức năng hô hấp, theo dõi
tiến triển.
- Công tác tổ chức khám, phát hiện và giám định cho những công nhân sau
khi đà nghỉ hu phát triển bệnh cha đợc thực hiện kể cả phía doanh nghiệp và cơ
quan Nhà nớc.
- Một số chế độ chính sách cha phù hợp với ngời lao động bị BNN. Những
doanh nghiệp không đóng BHXH, BH Y tế thì việc khám phát hiện và giám
định bệnh nghề nghiệp càng không đợc chủ sử dụng lao động quan tâm và làm
mất quyền lợi của ngời lao động.
- Một số văn bản của Nhà nớc cha cụ thể, vì vậy việc thực hiện đối với
tuyến díi cßn lóng tóng.
Tải bản FULL (47 trang): />3.3. Mét số giải pháp
D phũng: fb.com/TaiHo123doc.net
Tai nạn lao động và bệnh nghỊ nghiƯp cđa ngêi lao ®éng nh hiƯn nay la
rÊt đáng báo động, nó không những ảnh hởng trực tiếp đến sức khoẻ, quyền lợi
của ngời lao động mà còn làm ảnh hởng đến việc bảo toàn quỹ BHXH do đó
cần phải:
+Bổ sung điều kiện về thời gian tham gia BHXh ít nhất là 6 tháng trớc khi
xảy ra tai nạn lao động mới đợc hởng trợ cấp tai nạn lao động (cũng nh ốm đau
thuộc các bệnh dài ngày và trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao ®éng hiƯn nay
kh«ng khèng chÕ thêi gian ®ãng BHXH sÏ dẫn đến việc điều chỉnh dễ dàng
theo chủ quan của ngời lao động và ngời lao động để đợc hởng BHXH). Trong
khoảng thời gian 6 tháng trớc khi hởng trợ cấp tai nạn lao động do BHXH chi
trả, nếu xảy ra tai nạn lao động thì chủ sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi
phí điều trị và phải trả trợ cấp tai nạn lao động cho ngời lao ®éng. Cã nh vËy,
míi rµng bc ngêi sư dơng lao động trong việc sắp xếp, bố trí công việc cho
ngời lao động mới vào làm việc một cách phù hợp và thực hiện tốt công tác
huấn luyện an toàn vệ sinh lao động, trang bị bảo hộ lao động.
+Thay đổi lại trợ cấp thơng tật theo hớng cứ mất 1% sức lao động do thơng
tật thì đợc trợ cấp một mức tơng ứng. Thay cho quy định: mất sức lao đông từ
31% đến 40% đợc trợ cấp nh nhau, bằng 0,4 tháng tiền lơng tối thiểu.
+Bỏ quy định khi bị tai nạn lao động trên tuyến đờng đi và về từ nơi ở đến
nơi làm việc đợc xác định là tai nạn lao động, vì chế độ BHXH hiện nay không
còn gới hạn trong cán bộ, công chức, viên chức Nhà nớc mà đà đợc mở rộng
đến ngời lao động làm việc có tham gia BHXH ở các thành phần kinh tế, đồng
thời loại bỏ kẽ hở dễ dàng lạm dông.
23
Đối với việc giải quyết chế độ tiền tuất cho thân nhân ngời lao động bị tai
nạn lao động, BNN chết nên áp dụng thống nhất nh ngời đang làm việc chết do
bệnh tật, rủi ro.
4. Chế độ hu trí
Đây là chế độ nhằm cung cấp một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu
nhập không đợc nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hu. Ngời lao động đợc hởng
trợ cÊp hu trÝ nÕu nh cã thêi gian ®ãng BHXH ít nhất là 20 năm. Cứ 15 năm
đóng BHXH thì đợc lĩnh 45% lơng bình quân 5 năm cuối, cứ thêm 1 năm đóng
BHXH thì đợc cộng thêm vào lơng hu 2% tháng lơng làm căn cứ. Tức là ngời
lao động đóng BHXH 30 năm thì đợc hởng lơng hu 75% tháng lơng làm căn cứ,
nếu công tác lớn hơn 30 năm thì cứ 1 năm tăng thêm đợc cộng thêm 1/2 tháng
lơng căn cứ đóng BHXH (nhng không quá 5 tháng).
Ngời lao động về hu và đợc hởng trợ cÊp hu trÝ th× thêi gian tèi thiĨu tham
gia BHXH là 20 năm và tài liệu làm căn cứ chứng tỏ số năm đóng BHXH đó
chính là sổ BHXH. Một trong những chính sách BHXH là ngời lao động dợc
bảo lu quá trình đóng BHXH từ nơi này sang nơi khác để cộng đủ thời gian, đủ
điều kiện hởng chế độ BHXH hàng tháng. Đây cũng là mục tiêu nhằm bảo đảm
cho ngời lao động khi hết tuổi lao động ®ỵc hëng chÕ ®é ®·i ngé, an sinh x·
héi. Nhng hiện nay, ngời lao động không muốn bảo lu sổ BHXH, vấn đề này có
thể là do một số nguyên nhân sau:
- Trong nền kinh tế thị trờng, việc làm không ổn định, bản thân ngời lao
động vẫn còn nặng tâm lý ngời đâu của đó sợ chính sách thay đổi.
- Các doanh nghiệp không muốn tiếp nhận giải quyết chế độ cho ngời lao
động, nên cha quan tâm việc chuyển sổ BHXH hay các chế độ khác của ngời
lao động.
- Nhiều doanh nghiệp còn tìm cách né tránh không nộp BHXH, các cơ sở
sản xuất không thuộc diện bắt buộc, nếu ngời lao động chuyển sổ BHXH sẽ
không đợc giải quyết.
- Theo quy định hồ sơ hởng chế độ do ngời sử dung lao động lập thờng
không còn mối quan hệ mật thiết. Vì vậy, nếu ngời lao động bảo lu qua nhiều
đơn vị, nhng đến đơn vị cuối cùng không nộp BHXH, muốn trở về đơn vị cũ để
làm thủ tục liệu có đợc thuận lợi hay không hay là lại lý do thay đổi thủ trởng,
doanh nghiệp giải thể... để ngời lao động đành ôm sổ BHXH nhng không làm
đợc thủ tục để hởng chế độ, cụ thể là chế độ hu trí.
Do vậy, muốn phát huy tính u việt của chính sách BHXH mới nhất là chế
độ bảo lu thì nghành BHXH cần nghiên cứu thêm:
24
3507464