Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phân tích các trường hợp làm giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.36 KB, 9 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, và
trong sản xuất kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa qua trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy việc tuyên bố giao dịch dân sự
vơ hiều và giải quyết hậu quả pháp lí khi giao dịch dân sự vô hiệu vẫn là vấn đề phức tạp, gây ra nhiều vướng
mắc. Việc nắm vững và hiểu rõ về giao dịch dân sự vơ hiệu có ý nghĩa rất quan trọng với mỗi người trong xã
hội hiện nay. Vì vậy nhóm 8 xin trình bày đề tài thảo luận:
“ Phân tích các trường hợp làm giao dịch dân sự vơ hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vơ
hiệu.
Hãy xây dựng 4 tình huống cụ thể làm giao dịch dân sự vô hiệu. Nêu rõ qua điểm của anh chị về lí
do làm giao dịch đó bị vơ hiệu và đường lối xử lí đối với từng trường hợp cụ thể.”

CHƯƠNG I
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU. CÁC TRƯỜNG HỢP LÀM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VƠ HIỆU.
I. Khái niệm giao dịch dân sự vơ hiệu
1. Khái niệm giao dịch dân sự
Theo điều 121 BLDS giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương là phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Một giao dịch dân sự chỉ được xác lập, thay đổi hay chấm dứt khi có ít nhất là một trong các bên tham gia
giao dịch dân sự thể hiện ý chí của mình dưới 1 hình thức nhất định nhằm mục đích ghi nhận, thay đổi,
hủy bỏ các quyền và nghĩa vụ dân sự.

2. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Điều 127 BLDS quy định: Giao dịch dân sự vô hiệu là các giao dịch khơng có một trong các điều kiện
được quy định tại điều 122 BLDS.
Điều 122 BLDS quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự bao gồm:
a. Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự đầy đủ



b. Mục đích và nội dung của giao dịch khơng trái pháp luật, đạo đức xã hội.
c. Người tham gia giao dịch hồn tồn tự nguyện.
d. Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Như vậy những giao dịch dân sự nếu vi phạm 1 trong 4 điều kiện nêu trên thì bị coi là vô hiệu.

3. Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu
a. Giao dịch dân sự vơ hiệu tồn bộ
Giao dịch dân sự vơ hiệu tồn bộ xảy ra khi tồn bộ nội dung của giao dịch dân sự đó vi phạm điều cấm
của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc một trong các bên tham gia giao dịch đó khơng có quyền xác lập
giao dịch dân sự.Khi đó tồn bộ nội dung của giao dịch đó khơng có hiệu lực.
Ví dụ: A và B giao kết với nhau 1 hợp đồng mua bán ma túy tổng hợp. Hành vi này đã vi phạm điều cấm
của pháp luật nước ta =>đây là 1 hợp đồng bị vơ hiệu tồn bộ.
b. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần
Giao dịch vô hiệu từng phần là giao dịch mà trong đó chỉ có 1 phần hoặc một số phần của giao dịch đó vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần cịn lại. Khi đó chỉ phần vơ hiệu là khơng có hiệu
lực, các phần cịn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
Ví dụ: cơng ti A và cơng ti B kí kết hợp đồng giao nhận hàng hóa địa điểm giao hàng là cảng C nhưng
người giao hàng lại đưa tới cảng D gần đó => trường hợp này hợp đồng bị vô hiệu 1 phần do vi phạm về
địa diểm giao nhận hàng hóa nhưng khơng ảnh hưởng tới hiệu lực của những phần khác như chất lượng
sản phẩm, thời gian giao hàng, …

II. Các trường hợp làm giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm xã hội, trái đạo đức
xã hội
Điều 128 BLDS quy định Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội thì vơ hiệu.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành
vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.


2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Điều 129 BLDS quy định:
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch
giả tạo bị vơ hiệu, cịn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vơ hiệu theo
quy định của bộ luật này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó
vơ hiệu.”


Trong thực tế ta cần phải xác định đủ cả hai vế của quy định là có sự giả tạo và có sự trốn tránh nghĩa
vụ. Nếu chỉ có 1 vế thì chưa thể quy kết giao dịch vơ hiệu.
Ví dụ: Bà A vay nợ của B số tiền 1 tỉ đồng. bà đã kí giấy vay nợ và đồng ý bán đứt căn nhà cho B để trả
nợ. Việc mua bán này chưa được thực hiện thì bà A lại bán căn nhà này cho C (hợp đồng mua bán đã qua
cơng chứng). Trong tình huống này hợp đồng mua bán giữa bà A với C chưa hẳn bị vô hiệu do giả tạo để
trốn tránh trách nhiệm với người thứ 3 bởi sau khi bán nhà cho C xong thì bà A vẫn trả tiền nợ cho B nên
khơng thể nói bà A trốn tránh nghĩa vụ. Nếu như sau khi bán nhà xong bà A vẫn không chịu trả tiền nợ cho
B thì hợp đồng mua bán giữa A và C mới bị coi là vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ 3.

3. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
Điều 131 BLDS quy định:
Khi một bên có lỗi vơ ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao
dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia khơng
chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch vơ hiệu.
Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được
giải quyết theo quy định tại điều 132 bộ luật này.
Tuy nhiên trong thực tế khi áp dụng chế định này thì xuất hiện khơng ít bất cập về khái niệm “nhầm
lẫn” hay nguyên nhân gây nhầm lẫn.
Ví dụ: A bán cho B một món đồ cổ. Cả 2 đã cùng nghĩ món đồ cổ này thuộc thế kỉ 16 nên định giá

nó là 100 triệu. Một thời gian sau cả 2 lại biết được món đồ đó ở thế kỉ 11 và giá trị của nó là 300 triệu. Rõ
ràng ở đây 2 bên đều nhầm lẫn. Nhầm lẫn của A xuất phát từ chính anh ta , khơng hề có tác động nào từ B,
tức là khơng hề có lỗi của bên B.Vì vậy A khơng thể u cầu Tịa tun bố giao dịch này vơ hiệu do nhầm
lẫn và đòi B phải trả đúng giá trị của món đồ cổ được.

4. Giao dịch dân sự vơ hiệu do bị lừa dối, đe dọa
Điều 132 BLDS quy định
Khi một bên tham gia giao dịch do bị lừa dối, đe dọa thì có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch
đó bị vơ hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao
dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải
thực hiện giao dịch nằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của
mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.
Lừa dối và nhầm lẫn đều là những khiếm khuyết của sự thể hiện ý chí của các bên trong giao kết hợp
đồng và đều giống nhau ở chỗ cả hai đều liên quan đến việc trình bày một cách trực tiếp hay gián tiếp về
những sự việc không đúng sự thật hay không tiết lộ một sự thật. Song sự lừa dối khác với nhầm lẫn ở chỗ:
Sự nhầm lẫn vốn do người kí kết hợp đồng tự mình hiểu sai cịn sự lừa dối là sự hiểu sai do đối phương
gây ra. Sự phân biệt giữa lừa dối và nhầm lẫn được xác định bởi tính chất và mục đích của việc trình bày
gian lận của một bên.
Để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong giao kết hợp đồng hay không người ta căn
cứ vào các yếu tố sau đây: Một là, phải có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên,
Hai là, người nghe phải không biết đến sự sai lệch đó. Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch do một bên
đưa ra mà giao kết hợp đồng. Và bốn là, phải có thiệt hại xảy ra.


5. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế hành vi dân sự xác lập.
Điều 130 BLDS quy định

Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu người đại diện của người đó, Tịa án tun bố giao dịch
đó vơ hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.
Các quy định về người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế hành
vi dân sự được quy định tại điều 20, 21,22, 23 của bộ luật này.
Người khơng có năng lực hành vi dân sự hoặc có hành vi khơng đầy đủ khơng thể có đủ điều kiện để
tự do thể hiện ý chí, ý nguyện. Vì vậy giao dịch của họ phải được xác lập dưới sự kiểm soát cảu người
khác hoặc do người khác xác lập. Tuy nhiên giao dịch của những người này không mặc nhiên bị coi là vô
hiệu mà chỉ vơ hiệu khi có u cầu của người đại diện cho họ.

6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình
Điều 133 BLDS quy định
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức
và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền u cầu Tịa án tun bó giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Việc phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia.

7. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về
hình thức
Điều 134 BLDS quy định
Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch mà các bên khơng tn theo thì theo u cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời
hạn, q thời hạn đó mà khơng thực hiện thì giao dịch đó vơ hiệu.
Điều 124 BLDS quy định giao dịch dân sự có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ
thể.
Hình thức phổ biến nhất trong giao dịch dân sự là giao dịch bằng lời nói. Trong thực tế loại giao
dịch này được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó, thường áp dụng với những tài sản có giá trị khơng
lớn. Ví dụ: B đến cửa hàng A để mua 10 thùng sữa. Sau khi A giao sữa cho B B trả đủ tiền cho A.Giao dịch
này coi như chấm dứt. A khơng thể tiếp tục địi B trả tiền sữa và B cũng khơng thể u cầu A giao thêm

sữa.
Hình thức giao dịch bằng văn bản thường áp dụng với những tài sản có giá trị lớn. Nội dung của
giao dịch được ghi rõ trong văn bản, có chữ kí của các bên tham gia. Trong trường hợp pháp luật quy định
phải có cơng chứng, chứng thực hoặc phải đăng kí xin phép thì phải tn theo các quy định đó. Nếu xét về
căn cứ pháp lí chặt chẽ trong giao dịch dân sự thì hình thức bằng văn bản có giá trị pháp lí rất cao.
Hình thức giao dịch bằng hành vi: đây là hình thức giao dịch thuận tiện nhất. Khơng nhất thiết phải
có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên giao kết.
Theo nguyên tắc chung, các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Chỉ những giao
dịch, hợp đồng pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực…


mà các bên không tuân thủ mới bị vô hiệu. Khi các bên có u cầu thì Tịa án xem xét và “buộc các bên
thực hiện về hình thức giao dịch trong một thời hạn. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất được các
quy định trong thời hạn đó thì giao dịch mới vơ hiệu. Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại.

CHƯƠNG II
HẬU QUẢ PHÁP LÍ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
I. Hậu quả pháp lí chung của giao dịch dân sự vơ hiệu.
Theo điều 137 BLDS thì hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định:
Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các
bên kể từ trời điểm xác lập.
Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những
gì đã nhận; nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải hồn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao
dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi
thường.

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm pháp sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao kết
Như vậy khi giao dịch vơ hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên không được pháp luật thừa nhận và
bảo vệ. Nếu hợp đồng chỉ mới xác lập mà chưa thực hiện thì các bên khơng được phép thực hiện, cịn

trường hợp đang thực hiện thì khơng tiếp tục thực hiện nữa, nếu hợp đồng đã thực hiện thì các bên xử lí tài
sản.

2. Khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã
nhận
Theo pháp luật Việt Nam khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên phải khơi phục tình trạng ban
đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì hồn trả bằng tiền.
Thực tế ở nước ta cho thấy, việc hồn trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực sự đảm bảo lợi ích
của các chủ thể. Điển hình đối với các giao dịch có đối tượng là nhà, quyền sử dụng đất. Ví dụ: A chuyển
nhượng cho B một diện tích đất ở, khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, B phải trả đất cho A, A phải trả tiền cho
B. thực tế cho thấy nguyên đơn thường là bên chuyển nhượng. Đối với bên chuyển nhượng (tức là bên A)
thì việc lấy lại đất là thỏa đáng. Nhưng đối với bên được chuyển nhượng (bên B) việc trả lại đất cho bên
bán là một tổn thất rất lớn đối với họ. Bởi vì cho dù có nhận lại đúng số tiền họ bỏ ra trước đây thì họ cũng
khơng bao giờ mua được một diện tích đất như vậy nữa. Trong trường hợp bên A có lỗi trong việc xác lập
giao dịch bên B được bồi thường thiệt hại song khoản bồi thường đó cũng không thể bù đắp được mất mát
thực tế mà B phải chịu khi hợp đồng vơ hiệu.
Việc xử lí hậu quả giao dịch vô hiệu càng trở nên phức tạp hơn trong trường hợp bên nhận tài sản đã
sửa chữa, cải tạo tài sản đó hay nói cách khác là làm tăng giá trị của tài sản đó.


Về quy định tính thành tiền để hồn trả trong trường hợp khơng thể hồn trả được bằng hiện vật.bộ
luật quy định như vậy nhưng không nêu rõ khi nào thì “khơng hồn trả được bằng hiện vật” và “hồn trả
bằng tiền” thì tính là bao nhiêu? Tính giá hiện vật thành tiền tại thời điểm nào: thời điểm xác lập giao dịch
hay thời điểm hoàn trả tài sản. Đối với những tài sản không thay đổi về giá kể từ thời điểm xác lập giao
dịch đến lúc giao dịch vơ hiệu, việc tính giá tài sản vào thời điểm nào khơng quan trọng. Tuy nhiên với
những tài sản có biến động về giá (có thể tăng hoặc giảm) thì việc xác định thời điểm định giá là rất quan
trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của 2 bên.

3. Bồi thường thiệt hại.
Khi giao dịch bị vô hiệu, theo điều 137 BLDS: bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Như vậy để

buộc một bên bồi thường thì chúng ta phải xác định đủ 2 yếu tố: một là yếu tố có lỗi, hai là thực tế phải tồn
tại thiệt hại.
Mức độ bồi thường phụ thuộc vào mức độ lỗi. Bên bồi thường chỉ phải bồi thường thiệt hại do phần
lỗi của mình gây ra.

II.Bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình khi giao dịch
dân sự vô hiệu.
1. Điều kiện xác định người thứ 3 ngay tình khi giao dịch dân sự vơ
hiệu
- Trước khi người thứ ba tham gia vào giao dịch, đối tượng của giao dịch này được xác lập bởi một
giao dịch vơ hiệu.
- Phụ thuộc vào ý chí của người tham gia giao dịch. Nếu trong điều kiện thông thường họ có thể biết
được tài sản đưa vào hợp đồng được xác lập bởi một hợp đồng vô hiệu trước đó và pháp luật quy định họ
buộc phải biết khi tham gia hợp đồng thì họ khơng phải người ngay tình. Nếu họ khơng biết và pháp luật
quy định họ không buộc phải biết, khi tham gia hợp đồng họ chiếm giữ một cách cơng khai minh bạch thì
họ mới là người ngay tình.
- Người ngay tình phải là người có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, hoặc có
người giám hộ đại diện hợp pháp.
- Họ đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và được hưởng những quyền dân sự trong giao dịch họ xác lập.
- Nội dung mục đích của giao dịch không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội.

2. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình.
Điều 138 BLDS quy định
1. Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với
người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 257 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã
được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị
vơ hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao



dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản
nhưng sau đó người này khơng phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
Trường hợp của hợp đồng vơ hiệu có đền bù là động sản khơng đăng kí quyền sở hữu bị chiếm hữu
ngồi ý chí của chủ sở hữu ( bị mất cắp, bị lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn,…) thì theo điều 257 Bộ luật này, chủ
sở hữu có quyền địi lại tài sản khi chứng minh được đó là tài sản của mình.

KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của xã hội, giao dịch dân sự có vai trò rất quan trọng trong đời sống mỗi người. Hiểu và
nắm rõ về giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu sẽ giúp chúng ta tránh được những nhầm lẫn thiệt thịi
khơng mong muốn, đồng thời sẽ thúc đẩy quá trình giao dịch ngày càng phát triển.

Danh sách tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Pháp luật đại cương – trường Đại học Thương Mại
Nhà XB Thống Kê
2. Giáo trình luật dân sự - trường Đại học Luật Hà Nội
3. Báo Thanh niên
4. Tạp chí Khoa học Pháp luật số 4- 2011
5. Báo Hà Nội mới
6. Báo điện tủ Chính Phủ : baodientu.chinhphu.vn
7. Trang web luattructuyen.net
www.wattap.com


MỤC LỤC
Trang

Lời mở đầu..................................................................................... 1
Chương I: Giao dịch dân sự vô hiệu. Các trường hợp làm
giao dịch dân sự vô hiệu................................................................ 2

I. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu.......................................... 2
II. Các trường hợp làm giao dịch dân sự vô hiệu........................ 3
Chương II: Hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vơ hiệu........ 6
I. Hậu quả pháp lí chung của giao dịch dân sự vô hiệu.............. 6
II. Bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình khi GDDS vơ hiệu 8
Chương III: một số tình huống cụ thể làm giao dịch dân sự vô hiệu
9
Kết luận.......................................................................................... 13


Tài liệu tham khảo........................................................................ 14



×