Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận cao học những thành tựu đạt được của đường lối đối ngoại thời kì 1945 – 1946

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.62 KB, 21 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và
khó lường. Tồn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các
nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào q trình hội
nhập quốc tế. Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi
bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng Đảng và Nhà nước ta luôn xác
định ngoại giao là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng góp phần to lớn vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Báo cáo Chính trị xác định: “Nhiệm vụ của cơng tác
đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Đường lối ngoại giao của Việt Nam được biểu hiện rõ nét gắn liền với sự
ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đường lối ngoại giao trong
thời kì 1945 – 1946 của Đảng đã để lại những dấu ấn quan trọng của nền ngoại
giao nước nhà. Đóng góp to lớn cho những thắng lợi trên mặt trận ngoại giao
của ta sau này.
Chính vì những ý nghĩa lịch sử to lớn của đường lối đối ngoại của thời kì
1945 – 1946 đã để lại , tôi quyết định chọn đề tài : “ Những thành tựu đạt được
của đường lối đối ngoại thời kì 1945 – 1946” để nghiên cứu.



2

CHƯƠNG I
BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO CỦA ĐẢNG
THỜI KÌ 1945-1946
1.1.

Tình hình trong nước

a, Những thuận lợi
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, ngày 2/9/1945 nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Đã giải phóng dân tộc khỏi hơn 80 năm áp bức
nơ dịc của thực dân – phát xít từ đây ta đã có bộ máy chính quyền nhà nước làm
cơng cụ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí
Minh dạn dày kinh nghiệm lãnh đạo, đã trở thành đảng cầm quyền, là trung tâm
đoàn kết tồn dân trong cơng cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ chế độ cộng
hoà dân chủ. Đây là nguồn cổ vũ và động lực to lớn cho những thắng lợi của
nhân dân ta về sau.
Cùng với đó, Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước và truyền
thống cách mạng, được hưởng những thành quả của cách mạng, nên có quyết
tâm bảo vệ chế độ mới.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành, phong trào giải phóng dân tộc
dâng cao ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh vì hồ bình,
dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa.
b, Những khó khăn
+ Giặc ngoại xâm và nội phản:
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngay lập tức quân đội
các nước đế quốc đã đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân
phát xít để ồ ạt đổ bộ vào các thuộc địa cũ của chúng. Mà trong đó thực dân
Pháp đã mau chóng trở lại Đông Dương, lũ lượt kéo vào Việt Nam.



3

Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc kéo
vào nước ta. Theo sau quân Trung Hoa Dân quốc là bọn Việt Nam Quốc dân
Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) tay sai với
âm mưu xúc tiến thành lập một chính phủ bù nhìn. Dã tâm của chúng là muốn
tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng cịn
non trẻ của nhân dân Việt Nam.
Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có hơn 1,5 vạn quân Anh kéo vào, tạo điều
kiện cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Ngồi ra cịn 6 vạn quân Nhật đang
chờ để giải giáp. Một bộ phận theo lệnh đế quốc Anh đánh lại lực lượng vũ
trang cách mạng, tạo điều kiện cho quân Pháp mở rộng chiếm đóng Nam Bộ.
Chưa bao gờ trên đất nước Việt Nam lại có nhiều loại kẻ thù đế quốc cùng xuất
hiện một lúc như vậy.
+ Về chính trị:
Chính quyền cách mạng còn non trẻ, chưa được củng cố. Đảng và nhân
dân Việt Nam chưa có kinh nghiệm giữ chính quyền. Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà chưa nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cách mạng Việt
Nam ở trong tình thế bị bao vây, cơ lập.
+ Về kinh tế:
Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn,
làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo đó là hạn hán kéo dài làm cho hơn một nửa
diện tích ruộng đất không thể cày cấy được. Ngân sách Nhà nước hầu như trống
rỗng, Chính quyền cách mạng chưa quản lí được ngân hàng Đơng Dương.
Trong khi đó qn Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại tiền của
Trung Quốc đã mất giá, càng làm cho nền tài chính thêm rối loạn.
+ Về văn hoá, xã hội:



4

Tàn dư văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng
nề, hơn 90% dân số bị mù chữ. Các tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, rượu
chè, cờ bạc, nghiện hút ngày đêm hồnh hành.
Trước tình cảnh đó vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc” tưởng
chừng khơng có đường ra.
Trong hồn cảnh đó, ngày 25 – 11 – 1945, Trung ương đảng ra bản chỉ thị
“Kháng chiến, kiến quốc”, xác định:
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam “vẫn là giải phóng dân
tộc”, khẩu hiệu của nhân dân là “dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”; Kẻ thù
chính là thực dân Pháp xâm lược; Bốn nhiệm vụ cấp bách trước mắt là củng cố
chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống cho nhân dân;
Phương hướng đối ngoại là kiên trì nguyên tắc bình đẳng, hợp tác”,
“thêm bạn, bớt thù”, đối với quân Trung Hoa dân quốc thực hiện khẩu hiệu
“Hoa, Việt thân thiện”, đối với Pháp thực hiện “độc lập về chính trị, nhân
nhượng về kinh tế”.
c. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và
khó khăn về tài chính
+ Xây dựng chính quyền cách mạng
Ngày 6/1/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức
cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội trong cả nước. Hơn 90% cử tri đã đi bầu 333
đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội có ý nghĩa to lớn, thể hiện ý
chí và quyết tâm của nhân dân Việt Nam là xây dựng một nước Việt Nam thống
nhất, độc lập; giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược
của đế quốc và tay sai, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho nhà nước cách mạng để
thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kì mới. Sau cuộc bầu cử Quốc



5

hội, tại các địa phương Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã tiến hành bầu cử Hội đồng
nhân dân các cấp, thành lập Uỷ ban hành chính các cấp.
Ngày 2/3/1946, Quốc hội Khoá I Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ họp
phiên đầu tiên, thơng qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí
Minh làm chủ tịch và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Ngày 9/11/1946, Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ được Quốc hội thơng qua.
Qn đội quốc gia Việt Nam ra đời (5/1946). Lực lượng dân quân tự vệ
được củng cố và phát triển. Viện Kiểm soát nhân dân và Tồ án nhân dân được
thành lập.
1.2.

Tình hình thế giới
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước châu Âu, Nhật Bản và

Liên Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị tổn thất lớn cả về người và của. Chỉ
có Mỹ giàu lên nhanh chóng trong chiến tranh (thu về 114 tỉ đô la lợi nhuận do
bán vũ khí và phương tiện chiến tranh) và trở thành nước mạnh nhất về kinh tế
trong khoảng 3 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ chiếm quá nửa tổng
sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm 1948). Mỹ là chủ nợ lớn
nhất thế giới (riêng về vũ khí, các nước đồng minh châu Âu đã nợ Mỹ 41,751 tỉ
USD) và nắm trong tay một lợi thế khiến các nước phải kiêng nể, e dè: độc
quyền về bom nguyên tử.
Hai cường quốc Xô – Mỹ từ quan hệ đồng minh trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, sau chiến tranh quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành quan hệ đối
đầu. Từ quan hệ đối đầu giữa hai nước chuyển thành quan hệ đối đầu giữa hai
phe đó là: phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong bối

cảnh thế giới hai cực, quan hệ Xô –Mỹ, quan hệ giữa hai phe, mặc dù mâu
thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc và kiềm chế nhau, đều thực hiện chiến lược phòng
ngự, đều tránh đụng đầu trực tiếp với nhau. Vì thế, về đại cục, hịa bình thế giới
được duy trì trong suốt thời kì chiến tranh lạnh và cả sau đó.


6

Giữa “hai cực” Liên Xơ và Mĩ có những mâu thuẫn rõ ràng. Trong khi
“cực” Liên Xô luôn luôn làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghệp đấu tranh vì hịa bình, dân chủ
và tiến bộ xã hội; ngược lại, “cực” Mĩ luôn ra sức cấu kết, giúp đỡ các thế lực
phản động chống phá cách mạng thế giới với mưu đồ vươn lên vị trí thống trị
thế giới.
Một biến chuyển lớn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự ra đời của
hệ thống xã hội chủ nghĩa. Một loạt các nước Đông Âu, Châu Á và khu vực Mỹ
Latinh sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đã tuyên bố đi
lên chủ nghĩa xã hội cùng với Liên Xô hợp thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa
hùng mạnh. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 50 60 đã thu hút sự chú ý của thế giới và tác động tới chiều hướng phát triển của
nhiều quốc gia trên thế giới. Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn,
chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa tin cậy của phong trào đấu tranh vì hịa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa tư bản khơng cịn là một hệ
thống duy nhất chi phối nền chính trị thế giới. Tình hình trên đây đã dẫn tới một
vấn đề: trong chiến lược của mình, Mĩ và các nước đồng minh khơng thể khơng
tính đến việc hạn chế sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu và âm mưu chủ yếu của kế hoạch thống trị thế giới của Mĩ là
tìm cách ngăn chặn và tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa. Với chính sách “ngăn
chặn”, Mĩ định bao vây quân sự, kinh tế Liên Xô, hi vọng rằng Liên Xô sẽ bị
suy yếu, kiệt quệ rồi đi đến chỗ tự tiêu diệt, và ở các nước Đông Âu, giai cấp tư
sản sẽ có điều kiện lên nắm chính quyền, thiết lập nền thống trị tư bản chủ

nghĩa. Ở Đức cũng như ở Triều Tiên, Mĩ không chỉ muốn ngăn chặn sự bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản mà còn muốn cấu kết, nâng đỡ các thế lực phản
động ở hai nước này để tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng và xâm lược,
thống trị toàn nước Đức và toàn nước Triều Tiên. Trung Quốc là nơi mà Mĩ đã
bỏ công sức nhiều nhất trong thời kỳ từ 1947-1949, hi vọng rằng sẽ tiêu diệt lực


7

lượng cách mạng và đặt được nền thống trị trên lục địa có dân số khoảng 700
triệu người. Nhưng âm mưu và hi vọng của Mĩ đã hoàn toàn bị phá sản trong
giai đoạn này, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới không những không bị
ngăn chặn mà cịn được hình thành từ châu Âu sang châu Á và ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Liên Xô không bị suy yếu và kiệt quệ mà trái lại còn hùng mạnh
và vững chắc hơn trước, năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên
tử, khiến ưu thế độc quyền bom nguyên tử của Mĩ bị phá sản. Ở Đông Âu, trong
những năm 1947-1949, nhân dân các nước Anbani, Ba Lan, Bungari, Hunggari,
Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc đã lần lượt hồn thành cơng cuộc cách mạng dân
chủ nhân dân và bắt đầu bước bào thời kỳ quá đô tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, sự thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Đức(7-10-1949) và Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Triều Tiên (21-9-1948) là đòn đánh mạnh vào hệ thống tư
bản chủ nghĩa thế giới, làm thất bại nặng nề âm mưu “ngăn chặn” và thống trị
của Mĩ ở hai nước này. Tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa ra đời, đánh dấu hệ thồng xã hội chủ nghĩa đã được hình thành và làm cho
lực lương so sánh trên thế giới thay đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Với thắng
lợi của cách mạng Trung Quốc, cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt trên
phạm vi quốc tế cho sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã thắng
lợi và “chính sách ngăn chặn”, chống lại sự hình thành hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới của Mĩ đã bị thất bại.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cao trào giải phóng dân tộc diễn ra sơi

nổi ở khắp các lục địa của Á, Phi, Mỹ La Tinh, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân bị tan vỡ từng mảng lớn và đến giữa những năm 60 đã sụp đổ về cơ
bản. Hơn 100 quốc gia dân tộc trẻ tuổi ra đời, ngày càng tham gia tích cực vào
đời sống chính trị thế giới. Bộ mặt hành tinh thay đổi to lớn. Trong chiến lược
của hai cường quốc Xô – Mĩ và hai hệ thống khơng thể khơng tính đến lực
lượng này.


8

Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật bùng nổ vào những năm 40 của thế
kỷ XX và diễn ra mạnh mẽ sau đó. Cuộc cách mạng này đã đưa lại những tiến
bộ nhảy vọt, những thành tự kì diệu, những tác động tích cực và những hậu quả
của nó rất to lớn. Những nước nào đi sâu vào cách mạng khoa học - kỹ thuật,
tận dụng những thành tựu của nói thì vươn lên mạnh mẽ, tiếng nói của họ trong
quan hệ quốc tế ngày càng có trọng lượng hơn. Những nước bỏ lỡ cơ hội tận
dụng thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật, thì tụt hậu, hình bóng của
các nước ấy trong quan hệ quốc tế cũng trở nên mờ nhạt.


9

CHƯƠNG II
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG THỜI KÌ 1945-1946
2.1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại
Trước tình hình trong nước và quốc tế diễn biên rất phức tạp, nhà nước ta
đã sớm ban hành chính sách ngoại giao của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hịa. Một tháng sau khi tuyên bố nước Việt Nam giành được độc lập, ngày
3/10/1945,chính sách ngoại giao của nước ta được cơng bố dưới dạng văn kiện
nhà nước: “ Thơng cáo về chính sách ngoại giao của nước Việt Nam Cộng hòa

Dân chủ Việt Nam”, được đăng trên báo Cứu quốc, ngày 3/10/1945.
Mục tiêu của chính sách là: Bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng Tháng
Tám mà trước hết là duy trì, củng cố chính quyền nhân dân vừa thành lập trên
cả nước.Tiếp đó, đưa nước Việt Nam đến độc lập hồn tồn và vĩnh viễn; “Nước
Việt Nam cịn đương ở giai đoạn đấu tranh kịch liệt, tất chính sách ngoại giao
phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh thắng lợi bằng mọi phương
pháp êm dịu hay cương quyết”. Đồng thời, chính sách ngoại giao của ta cũng
chỉ rõ ta sẽ cùng các nước trong Đồng minh xây đắp lại nền hịa bình thế giới.
Bản “ Thơng cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng Hịa Dân chủ
Việt Nam”(3/10/1945) đã đề ra chính sách đối ngoại rất cụ thể, đúng đắn, phù
hợp với từng đối tượng.
Với các nước Đồng minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và
thành thạt hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hịa bình
thế giới lâu dài.


10

2.2. Chính sách đối với thực dân Pháp:
Với Pháp, chính sách của ta là bảo vệ tính mạng và tài sản kiều dân Pháp
đúng theo luật quốc tế, miễn là họ yên ổn sinh sống và tôn trọng luật pháp, chủ
quyền và nền độc lập của Việt Nam. Ta mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị
dựa trên cơ sở tơn trọng quyền bình đẳng và các quyền của nhau đối với nước
Pháp. Còn đối với bọn thực dân Pháp có mưu đồ chống phá, xâm lược nước ta
thì ta kiên quyết đấu tranh.
Tuy nhiên, sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Pháp lại mưu đồ
xâm lược Việt Nam lần nữa. Chúng đưa quân đánh chiếm miền Nam Việt Nam
trước, sau đó ý định mở rộng chiến tranh ra Bắc. Tuy nhiên, quân đội Pháp thất
bại trong kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh ở miền Nam, nên mặc dù đã thảo
kế hoạch quân sự mở rộng chiến tranh ra Bắc, song Bộ chỉ huy quân Pháp thấy

lo ngại. Kế hoạch của chúng khó có thể thực hiện.Vì thực dân Pháp lúc này
không những phải đối mặt với khối đại đồn kết dân tộc của ta mà cịn phải đối
mặt với hơn 20 vạn Tưởng. Pháp lo sợ sự “ xích gần” với chính quyền Hà Nội”
của lực lượng Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương sau một số thỏa thuận giữa ta
với Tưởng. Trước tình hình đó, Pháp đưa ra giải pháp: một mặt thương lượng
với chính phủ Trùng Khánh để đạt được sự công nhận của Tưởng về chủ quyền
của Pháp ở Đông Dương về cho quân Pháp thay thế quân Tưởng ở miền Bắc
Việt Nam. Mặt khác, đàm phán với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa để
tránh chiến tranh lâu dài.
Về phía Tưởng, qn Tưởng đang gặp khá nhiều khó khăn trong chống
phá phong trào cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tưởng Giới Thạch muốn
rút quân về để chiếm Mãn Châu nhưng vẫn muốn giữ được nhiều quyền lợi ở
Đông Dương. Do đó, Tưởng cũng muốn thương lượng với Pháp về vấn đề đưa
quân ra Bắc của Pháp. Hơn nữa, Mỹ cũng đồng tình với Tưởng trong việc


11

thương lượng với Pháp vì Mỹ đang ra sức tập hợp lực lượng, trong đó có Pháp,
để chống Liên Xơ.
Ngày 28/2/1946, Pháp và Tưởng đã ký hiệp ước Hoa – Pháp tại Trùng
Khánh. Theo hiệp ước, Pháp trả cho Tưởng các tô giới Thượng Hải, Hán Khẩu,
Quảng Châu, Thiên Tân, đất mướn Quảng Châu Loan, bán lại đường sắt Vân
Nam, mở của Hải Phòng thành cảng tự do, miễn thuế cho hàng hóa Tưởng vận
chuyển qua Bắc và lót tay cho Tưởng một khoản tiền lớn. Bù lại, Tưởng đồng ý
cho quân Pháp thay Tưởng ở Bắc Đông Dương.
Hiệp ước Hoa – Pháp là một bất lợi cho ta. Trước đó ta lợi dụng mâu
thuẫn giữa Pháp và Tưởng để tránh đối đầu với hai thế lực lớn này, còn nay
chúng lại bắt tay thỏa hiệp với nhau. Tình thế này, buộc ta phải đứng trước hai
sự lựa chọn hoặc tiếp tục cầm súng chiến đấu để chống lại thực dân Pháp hoặc

là hịa hỗn voiwsc chúng để có thể tranh thủ thời gian hịa bình củng cố lại lực
lượng chuẩn bị cho một chiến lâu dài mà ta biết chắc là khơng thể tránh khỏi.
Trước tình thế đó ta đã lựa chọn giải pháp hòa để tiến, ta chủ trương tiếp
tục hịa hỗn với thế lực Tưởng ở Đơng Dương nhằm dung Tưởng để cản trở
việc thực hiện ý đồ của Pháp và trong cả việc thực thi thỏa thuận Hoa – Pháp về
Đơng Dương, duy trì được thế hịa hỗn với cả hai phía, tạo thế vững chắc trong
cuộc thương lượng với Pháp.
Chính sách của ta dần chuyển thành nhân nhượng, hịa hỗn với Pháp tuy
nhiên vẫn giữ vững nền độc lập chính trí. Mục tiêu của hịa hoãn với Pháp để
đẩy quân Tưởng về nước, biến hiệp định tay đôi thành thỏa thuận tay ba. Thỏa
hiệp Việt - Pháp được hoàn chỉnh từng bước qua các cuộc đấu tranh trong đàm
phán giữa hai bên. Cuối cùng, ngày 6/3/1946, hiệp định sơ bộ Việt – Pháp được
ký kết với sự chứng kiến của phái bộ Mỹ, lãnh sự Anh và lực lượng của Tưởng
Giới Thạch ở Đông Dương. Hiệp định gồm những nội dung cơ bản sau: Pháp
công nhận Việt Nam là quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài


12

chính riêng và là một thành viên trong liên bang Đông Dương, nằm trong khối
liên hiệp Pháp. Về hợp nhất 3 kỳ, chính phủ Pháp cam kết thừa nhận những
quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết qua cuộc trưng cầu ý dân. Đổi lại,
chính phủ Việt Nam chấp thuận để 15 nghìn quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay
thế quân đội Trung Hoa làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật và đưa chúng về
nước. Số quân Pháp kể trên sẽ được rút hết trong vòng 5 năm.
Việc ký Hiệp định sơ bộ là một biện pháp ngoại giao sang suốt, lợi dụng
mâu thuẫn Pháp – Tưởng, nhất là khi chúng đã thỏa hiệp. Hiệp định sơ bộ phản
ánh việc ta vận dụng sách lược phân hóa kẻ thù, sử dụng điều khoản thay quân
của Hiệp định Hoa – Pháp tạo thời cơ đẩy quân Tưởng và bọn tay sai của chúng
ra khỏi đất nước, tránh được nguy cơ phải đối phó với hai thế lực thù địch cùng

một lúc. Đồng thời, Hiệp định tạo một không gian hịa hỗn trong cả nước để có
thể biến thời gian thành lực lượng vật chất và cùng với kết quả đem lại trên thực
tế Tưởng rút quân về nước, Pháp phải dàn quân ra đã góp phần làm thay đổi so
sánh lực lượng tồn cục có lợi hơn cho cuộc đấy trnah của nhân dân ta trong cả
nước.
Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên mà
nước Việt Nam dan chủ cộng hòa ký kết với nước ngoài. Các thỏa thuận ngày
6/3 đã mở rộng khuôn khổ tiếp xúc và thương lượng Việt – Pháp, tạo cơ sở pháp
lý cho việc đấu tranh ngoại giao ở Việt Nam.
Theo yêu cầu của phía Pháp, ngày 24/3/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gặp Đắc-giăng-li-ơ ở Vịnh Bắc Bộ. Tại cuộc gặp hai bên đã thỏa thuận những
bước tiếp cuộc đàm phán Việt Pháp để giải quyết những vấn đề còn lại của Hiệp
định sơ bộ. Hai bên đồng ý triệu tập cuộc họp trù bị Đà Lạt như Pháp đề nghị
triệu tập sớm cuộc đàm phán chính thức giữa hai bên ở Paris ngay sau khi kết
thúc cuộc họp trù bị, phía Pháp mời đồn đại biểu Quốc hội Việt Nam và chủ
tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp vào tháng 5 năm 1946.


13

Tại cuộc họp trù bị ở Đà lạt, do lập trường ngoan cố của Pháp, cuộc họp
trù bị Việt – Pháp sau 22 ngày đấu tranh gay gắt xung quanh 5 vấn đề : đình chỉ
chiến sự và tạo khơng khí chính trị thuận lợi, vấn đề liên hiệp Pháp, vấn đề Liên
bang Đông Dương, vấn đề trưng cầu dân ý về thống nhất 3 kỳ đã không đem lại
kết quả cụ thể nào. Tuy nhiên hai bên đã hiểu lập trường của nhau, giúp ta
chuẩn bị tốt hơn cho cuộc họp chính thức ở Paris.
Cuộc đàn phán chính thức ở Việt- Pháp ở Phông-ten-nơ-blô tiến hành từ
ngày 6/7/1946 đến 1/8/1946, ta rất có thiện chí nhưng bọn thực dân phản động
Pháp ln thực hiện âm mưu phá vỡ hồn tồn cuộc đàm phán chính thức, đi
đến làm vơ hiệu hóa Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Chúng gần như đã thực hiện

được âm mưu của mình. Ngày 13/9/1946, đồn đàm phán của ta lên đường về
nước . Tuy nhiên chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ở lại thêm vài ngày nữa để
tiếp tục thảo luận với chính phủ Pháp nhằm cứu vãn tình thế căng thẳng của
quan hệ Pháp- Việt , kéo dài thêm thời gian hịa hỗn ở Đông Dương rất cần cho
ta lúc này. Kết quả là tạm ước 14/9/1946 được ký kết giữa Hồ Chí Minh và Bộ
trưởng Mutê đại diện của chính phủ Pháp. Tạm ước này đã ghi nhận tạm thời
những cam kết của Việt Nam và Pháp trên cơ sở Hiệp định sơ bộ, nhằm giải
quyết những vẫn đề bức thiết trong mối quan hệ hai nước, khẳng định cần phải
ngừng ngay mọi xung đột. Phái Pháp sẽ đảm bảo thực hiện quyền tự do, dân chủ
ở Nam Bộ, thả những người Việt Nam bị Pháp bắt và phía Việt Nam nhân
nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế và văn hóa ở Việt Nam. Bọn thực
dân Pháp phản động cũng địi Chủ tịch Hồ Chí Minh thỏa thuận rút lực lượng
vũ trang ở Nam Bộ ra miền Bắc nhưng Người kiên quyết không chấp nhận.
Như vậy, bằng việc nhận nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh
tế, văn hóa và kiên trì quan điềm độc lập trong Liên hiệp Pháp, ta đạt được tiếp
tục ngừng bắn, cam kết quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Nam Bộ. Do đó,
giúp ta có thêm thời gian để chuẩn bị lực lượng quân sự, kinh tế... đối phó với
quân địch. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946 đã thể hiện được


14

chính sách đối ngoại đa phương, mềm dẻo và linh hoạt của Đảng, chủ tịch Hồ
Chí Minh. Nhờ những chính sách này, ta không những loại bỏ được bớt kẻ thù
(Tưởng Giới Thạch) mà cịn có thêm thời gian để chuẩn bị cho tồn quốc kháng
chiến
2.3. Chính sách đối với chính quyền Trung Hoa Dân quốc:
Chính quyền Trung Hoa Dân quốc (hay cịn gọi là chính quyền Tưởng
Giới Thạch) từ lâu đã có những toan tính riêng của mình về Đông Dương. Ngay
khi Paris thất thủ và quân đội Nhật Bản tiến vào chiếm đông Bắc Đông Dương

tháng 9 năm 1940, chính phủ của Tưởng bắt đầu chuẩn bị cho kế hoạch” Hoa
nhập quân Việt” và chủ trương “ Diệt cộng cầm Hồ”, Tưởng Giới Thạch đã
chuẩn bị một lượng tay sai người Việt để khi đưa quân vào Việt nam sẽ lập
chính quyền thân Tưởng và mục tiêu là lật đổ Đảng cộng sản, phá tan Việt
Minh.
Tuy nhiên, Chính quyền cách mạng cảu ta nêu cao khẩu hiệu “ Hoa – Việt
thân thiện” và thực hiện hịa hỗn với các sách lược mềm mỏng và bình tĩnh mà
này là lợi dụng lực lượng của Tưởng có mặt ở Việt Nam như một lực lượng đối
trọng với lực lượng của thực dân Pháp, kiềm chế chủ trương của chính phủ
Paris sớm khơi phục kiểm sốt ở Đơng Dương, có thời gian ổn định tình hình
trong nước và cánh tay đối phó với Pháp.
Trong các tun bố cơng khai của Chính phủ Việt Nam về quan hệ Việt –
Hoa, cũng như các thư từ và điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tưởng
GIới Thạch, ta ln khẳng định tình hình hữu nghị, quan hệ gắng bó lâu năm
giữa hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường có những cuộc thăm hỏi các
tướng lĩnh của Tưởng ở Việt Nam như Lư Hán, Tiêu Văn...một mặt là để đặt
quan hệ ngoại giao thân thiết, mặt khác là để tìm hiểu các tướng lĩnh, lợi dụng
mặt lợi vật chất để hạn chế sự chống phá, tìm hiểu những mâu thuẫn để thực
hiện những việc có ích cho ta.


15

Trong bối cảnh tình hình trong nước có nhiều chuyển biến, Đảng ta quyết
định rút vào hoạt động bí mật dưới hình thức tự giải tán ngày 11/11/1945. Để
hạn chế các hoạt động phá hoạt của các nhóm thân Tưởng, chủ tịch Hồ Chí
Minh đại diện cho Việt Minh thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc, họp liên tịch với
những kẻ đại diện cho Việt Quốc, Việt Cách để thống nhất những nguyên tắc
chúng và ký kết những thỏa thuận buộc bọn Việt Quốc, Việt Cách phải tỏ sự
nhất trí đối với các ngun tắc đồn kết, hợp tác, vì lợi ích quốc gia, ủng hộ

kháng chiến ở Nam Bộ, chống thực dân Pháp xâm lược, ủng hộ các chủ trương
của chính phủ...Ta dành cho bọn Việt Cách, Việt Quốc các chức vụ Phó chủ tịch
nước, Bộ trưởng ngoại giao, Bộ trưởng kinh tế và 70 ghế trong quốc hội không
thông qua tổng tuyển cử. Sách lược khéo léo và đúng đắn này đã xoa dịu sự
chống đối của các tướng lĩnh Tưởng và các nhóm thân Tưởng, góp phần ngăn
chặn âm mưu phá hoại và lật đổ của chúng. Tuy vậy nhân nhượng nhưng ta vẫn
có những nguyên tắc hoạt động rõ ràng, luôn khẳng định đường lối độc lập tự
chủ.
Đảng ta cũng đồng thời thực hiện biểu dương lực lượng chính trí lớn
mạnh của quần chúng nhân dân ủng hộ cách mạng để hậu thuẫn cho hoạt động
ngoại giao. Điển hình là cuộc diễu hành của 30 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội.
Cuộc diễu hành về danh nghĩa để hoan nghênh phái bộ Đồng minh nhưng thực
chất là để biểu dương lực lượng của nhân dân ủng hộ chính quyền cách mạng và
Hồ chủ tịch.
Như vậy, ngoại giao của Việt Nam với Tưởng trong giai đoạn này là dùng
ba biện pháp chính : Biểu dương lực lượng, Lợi dụng mâu thuẫn tránh xung đột,
Nhân nhượng có nguyên tắc. Nhờ những biện pháp, chính sách của chính phủ
Việt Nam hịa hỗn, kiềm chế lực lượng chống phá của Tưởng, miền Bắc nước
ta một thời kỳ tương đối ổn định để thực hiện chủ trương kháng chiến kiến
quốc, xây dựng củng cố chính quyền nhân dân, làm chậm chễ việc quân đội


16

viễn chinh Pháp ra Bắc và tạo điều kiện để chi viện cho kháng chiến ở đồng bào
miền Nam.
CHƯƠNG III
ĐÁNH GIÁ NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC CỦA ĐƯỜNG LỐI
ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG THỜI KÌ 1945-1946
3.1. Những thành tựu đạt được

Có thể khẳng định rằng chính sách ngoại giao của Việt Nam trong thời kỳ
1945- 1946 là rất linh hoạt, khôn khéo. Dấu ấn đậm nét của thắng lợi ngoại giao
thời kỳ này là những đối sách và ứng xử tài tình của Đảng và Chính phủ mà
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một lúc đối phó với nhiều nước lớn,
với bốn đạo quân lên đến trên 30 vạn binh lính có mặt ở Việt Nam. Mối quan
hệt giữa các nước lớn ln có nhiều xung đột và mâu thuẫn về lợi ích, nhưng
khi cần họ sẵn sàng thỏa hiệp, mua bán với nhau bất chấp quyền lợi của Nhân
dân Việt Nam, tìm cách áp đặt đối với Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ta đã
khéo léo lợi dụng mẫu thuẫn giữa các nước với nhau và có sách lược phù hợp
với từng đối tượng, giữ Mỹ trung lập, kiên định tránh mọi xung đột của Tưởng,
kiên quyết kháng chiến chống Pháp xâm lược ở miền Nam, đồng thời tìm giải
pháp hịa bình khi Tưởng và Pháp thỏa hiệp cho phép quân đội Pháp ra miền
Bắc.
Cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Lúc thì tạm hịa hỗn với
Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì hịa hỗn với Pháp để đuổi
qn Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, dành thời gian củng
cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện pháp cực
kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào trong lịch sử nước ta như một mẫu mực tuyệt
vời của sách lược Lenin về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch
và về sự nhân nhượng có nguyên tắc.”


17

Như vậy, ta có thể thấy rằng thời kỳ 1945-1946 đó mãi mãi đi vào lịch sử
hảo hùng của dân tộc như một dấu mốc chói lọi của lịch sử mãi mãi không mờ
phai. Nền ngoại giao Việt Nam non trẻ do Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng và
Chính Phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đã góp phần xuất sắc bảo vệ chủ quyền
và nền độc lập non trẻ trong khi thế lực của ta còn yếu, đồng thời tạo điều kiện

tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận
lợi nhất để phát triển đất nước, nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng trên trường
quốc tế.
Nhìn chung lại có thể thấy rằng chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ
này là ngoại giao đa phương, linh hoạt dựa trên nguyên tắc “ dĩ bất biến, ứng
vạn biến”, nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng , tranh thủ mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù. Những chính sách ngoại giao này hình thành từ những ngày
đầu nước Việt Nam được thành lập, đã đặt nền móng cho ngoại giao Việt Nam
cách mạng và hiện đại. Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu mà Đảng và
Nhân dân ta thu hái được trên mặt trận ngoại giao là cơ sở để ta tiếp tục triển
khai và vận dụng trong các thời kỳ sau của cách mạng, cũng như khi nước nhà
đã hoàn toàn đọc lập.
3.2. Bài học kinh nghiệm của đường lối đối ngoại thời kì 1945 - 1946
Chính từ những kinh nghiệm trong việc nhận định đánh giá và phân hóa
kẻ thù trong đường lối ngoại giao thời kỳ 1945-1946 đã được vận dụng hết sức
linh hoạt trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ về sau khi mà ta đã tranh
thủ được nhiều sự đồng tình ủng hộ của bè bạn quốc tế. Mà đặc biệt hơn hết là
làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam ở ngay trong lòng nước Mỹ và các nước
đế quốc hay như sự kiện năm 1973, Nhật Bản quốc gia theo chủ nghĩa Tư bản là
đồng minh thân thiết của đế quốc Mỹ và từng xâm lược Việt Nam mà vào thời
điểm đó cơng nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta đó là những
thắng lợi lớn mà ta có được nhờ những kinh nghiệm mà thời kỳ này đem lại.


18

Cũng từ những kinh nghiệm của thời kỳ này mà ta cũng rất sáng suốt
nhìn ra âm mưu chia rẽ Việt Nam với Trung Quốc và chia rẽ các nước xã hội
chủ nghĩa, nhằm cô lập Việt Nam. Bằng những chính sách kiên định, đồn kết
với Liên Xơ, với những sách lược có lý, có tình, ngoại giao của ta đã góp phần

duy trì, củng cố quan hệ đồn kết, hợp tác với Liên Xô, Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa khác, tạo hậu phương quốc tế vững chắc có lợi cho ta.
Đảng và Nhà nước ta bên cạnh thái độ cương quyết giữ độc lập, sẵn sàng
đấu tranh vũ trang bảo vệ độc lập, còn rất coi trọng mặt trận ngoại giao, nhất là
sử dụng mọi biện pháp chính trị, đối ngoại để khai thác đúng nhược điểm cơ
bản trong chiến lược chiến tranh của đối phương. Tiến công ngoại giao từ tháng
1 năm 1967 buộc địch xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán tay đôi
trong khi ta chưa tung ra quả đấm chiến lược về quân sự là điều khôn ngoan và
sáng tạo của Việt Nam. Thế trận đánh – đàm đã buộc đối phương bộc lộ điểm
yếu nhất trong chiến tranh, mặt khác tạo thời cơ để ta phát huy sức mạnh chính
nghĩa, phối hợp chính trị - quân sự - ngoại giao và sức mạnh cộng hưởng của
dân tộc và thời đại.
Như vậy, chính sách ngoại giao đa phương, linh hoạt, biết tận dụng điểm
yếu của kẻ thù cùng với sự đoàn kết dân tộc đã giúp Việt Nam giành được thắng
lợi, buộc Mỹ và các nước phải công nhận độc lập toàn vẹn lãnh thổ của ta.
Thắng lợi ngoại giao cực kỳ quan trọng này đã tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu
tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn vào mùa
xuân năm 1975. Qua đó, một lần nữa, tính đúng đắn, hợp lý trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam được khẳng định.
Bước vào thời kỳ Đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, chiến lược ngoại
giao mà Đảng và Nhà nước ta thực hiện là đa dạng hóa, đa phương hóa với
phương châm Việt Nam muốn là bạn là đối tác tin cậy là thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Hoạt động ngoại giao phục vụ sự nghiệp công


19

nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng được tăng cường và mở rộng, góp phần xây
dựng chính sách, khn khổ pháp lý cho quan hệ kinh tế đối ngoại, nghiên cứu
đánh giá các vấn đề chính trị, kinh tế quốc tế tác động đến Việt Nam, nghiên

cứu chính sách kinh tế, tìm hiểu tiềm năng thế mạnh của các nước, thúc đẩy hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi giữa Việt Nam với các nước. Và trong đó những bài
học mà ngoại giao Việt Nam đạt được trong giai đoạn 1945 -1946 vẫn cịn
ngun những giá trị vơ cùng lớn.


20

KẾT LUẬN
Đường lối đối ngoại thời kì 1945 – 1946 đã để lại những dấu ấn không thể phai
mờ trong lịch sử ngoại giao của nước nhà. Có ý nghĩa to lớn trong việc hoạch
định đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong các thời kì sau của
cách mạng và cho tới ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Đường lối đối ngoại thời kì này đã thể hiện sự khôn khéo mềm dẻo nhưng
không thiếu phần cứng rắn của Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa, mà linh hồn là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Chính Người đã tạo nên
những bước ngoặt lịch sử của đường lối đối ngoại thời kì 1945 – 1946.


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Đồn Kết ( 2007)- Chính sách đối ngoại Việt Nam 1945 -1975- Nhà
xuất bản : Thế giới
2. Nguyễn Đình Bin ( 2002)- Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000 – Nxb
chính trị quốc gia
3. Nguyễn Phúc Luân ( 2001) – Ngoại Giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
4.
5.


độc lập, tự do 1945- 1975- Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
/> />


×