Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

(Luận án tiến sĩ) vấn đề phát triển con người toàn diện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc trung quốc và ý nghĩa tham khảo đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 176 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG

VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TỒN DIỆN TRONG
Q TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐẶC SẮC TRUNG QUỐC
VÀ Ý NGHĨA THAM KHẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngành: Triết học
Mã số: 9229001
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS. Nguyễn Minh Hoàn

HÀ NỘI, 2021


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ
LUẬN PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TỒN DIỆN
1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến lý luận của chủ nghĩa
Mác về phát triển con người tồn diện
Cơng trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng Việt:
Ở Việt Nam, quan điểm triết học Mác về phát triển con người toàn diện được
các nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt từ khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới
và hội nhập quốc tế. Vấn đề phát triển con người toàn diện được các tác giả nghiên
cứu và luận giải từ nhiều bình diện khác nhau cả về phương diện lý luận cũng như
thực tiễn, tiêu biểu có thể kể đến các cơng trình như sau:


Cuốn sách Tư tưởng triết học về con người do tác giả Vũ Minh Tâm chủ
biên (Nxb. Giáo dục, 1996) là cơng tình nghiên cứu cơng phu, có hệ thống về vấn
đề con người từ góc độ lịch sử tư tưởng triết học. Trên cơ sở luận giải các quan
điểm về con người của những nhà triết học tiêu biểu của các trường phái, các nền
triết học trong lịch sử, các tác giả khẳng định mục đích cao nhất của triết học
Mác - Lênin là khắc phục sự tha hóa con người, giải phóng và phát triển con
người, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người thể hiện tính nhân văn,
nhân đạo, khoa học và cách mạng triệt để.
Trong cuốn Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người
Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (Nxb. Chính trị quốc gia,
2001), tác giả Vũ Thiện Vương khẳng định: trên cơ sở tiếp thu và phát triển những
tư tưởng của các nhà triết học trong lịch sử, Mác đã đưa ra những quan điểm đúng
đắn và khoa học về bản chất con người; theo đó, con người khơng chỉ là sản phẩm
của những hồn cảnh xã hội nhất định mà con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
của chính mình, con người thể hiện ra là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, là thước đo


8
của mọi giá trị. Ngoài ra, tác giả cho rằng việc giải phóng con người mà nhân loại
phải hướng tới là sự giải quyết mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên và giữa con
người với con người.
Trong cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa “lý luận khơng có con người”
(Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001), tác giả Trần Đức Thảo đã phê phán mạnh
mẽ quan điểm của phái Althusser (phái “lý luận khơng có con người”) cho rằng
chỉ có con người cá nhân, con người giai cấp, chứ khơng có con người với tư cách
con người theo nghĩa cơ bản chung của lồi người, khơng có con người xã hội,
phủ định bản chất xã hội của con người, phủ định vai trò của quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng. Từ đó tác giả phân tích và làm sáng tỏ quan điểm của
Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những quan hệ
xã hội” [17, tr.11], đồng thời nhấn mạnh, con người trong mọi thời đại đều đóng

vai trị là chủ thể của lịch sử, và khẳng định chỉ có trong chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, khi con người thực sự là chủ thể thì mới giải quyết được mâu
thuẫn giữa giá trị thặng dư ngày càng cao với tình trạng khốn cùng của quần chúng
nhân dân ngày càng lớn.
Cuốn Con người và phát triển con người trong quan niệm của Mác và
Ph.Ăng-ghen (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003) của tác giả Hồ Sỹ Quý là một sản
phẩm của Đề tài KX.05.01 thuộc chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà nước
giai đoạn 2001 - 2005. Ở phần 1 của cuốn sách này, tác giả đã tập trung hệ thống
hóa một cách chi tiết và đầy đủ những tư tưởng của Mác và Ph.Ăng-ghen về vấn
đề con người, bản chất con người, phát triển con người, đồng thời định hướng khai
thác các di sản kinh điển thơng qua cách nhìn của thời đại ngày nay. Ở phần 2, tác
giả phân tích một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu con
người. Tác giả đã chỉ ra những phương hướng chủ yếu trong nghiên cứu con người
trên các phương diện về phát triển con người, về nguồn lực con người, về quan hệ
văn hoá và con người, về quan hệ con người và môi sinh, về nhân cách và giá
trị…; trong đó đặt ra yêu cầu cần phải có sự nghiên cứu phức hợp - liên ngành và
có kế hoạch lâu dài trong nghiên cứu về con người khi đó mới có khả năng nghiên


9
cứu con người một cách đúng đắn, toàn diện và sâu sắc hơn.
Tác giả Cao Thu Hằng trong nghiên cứu “Quan niệm của Mác và Ăng-ghen
về con người, giải phóng con người trong Hệ tư tưởng Đức và sự vận dụng của
Đảng ta”, Tạp chí Triết học (2006) đã luận giải quan điểm của Mác và Ăng-ghen
về con người hiện thực và hoạt động của nó với tư cách đối tượng của sự suy tư triết
học về con người; đồng thời làm rõ đánh giá của các ông về những sai lầm của
Hêghen và L.Phoiơbắc khi nghiên cứu vấn đề con người. Từ đó, tác giả phân tích
quan điểm của Mác và Ăng-ghen về giải phóng con người, về con đường, phương
tiện và những tiền đề vật chất cần thiết cho giải phóng con người.
Trong cuốn sách Con người và phát triển con người (Nxb. Giáo dục, 2007),

tác giả Hồ Sỹ Quý đã nghiên cứu để chỉ rõ, theo quan điểm của Mác, ngay cả khi
nghiên cứu những đối tượng hồn tồn tách rời con người thì khoa học tự nhiên
cũng vẫn là khoa học của con người, cho con người, còn khoa học về con người,
cho dù nghiên cứu những đối tượng thuần túy xã hội, cũng vẫn không thể thoát ly
khỏi các quy luật tự nhiên và bản tính tự nhiên của con người. Điều đó có nghĩa,
lợi ích và nhu cầu của con người luôn luôn là mục đích mà khoa học trực tiếp
hướng đến.
Bài viết “Một số vấn đề về con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen dưới ánh sáng của khoa học hiện đại trong” cuốn Triết học với đổi mới và đổi
mới nghiên cứu giảng dạy triết học (Nxb. Chính trị quốc gia, 2007), Nguyễn Trọng
Chuẩn đã phân tích những quan niệm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nghiên cứu
con người trong mối quan hệ giữa các thành tựu của các ngành khoa học như tâm
lý học, khảo cổ học, xã hội học, nhân chủng học, sinh học,... từ đó làm sâu sắc thêm
về nguồn gốc, bản chất con người.
Trong bài viết “Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương hướng,
giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam hiện nay” đăng tải trên Tạp chí Triết học (số 8, 2008), tác giả Hồng
Đình Cúc đã khẳng định học thuyết Mác về con người được dựa trên cơ sở làm
rõ quan niệm về “cơ sở hiện thực” cho sự tồn tại của con người với tư cách thực


10
thể sinh học - xã hội, về lao động với tư cách điều kiện quyết định của sự hình
thành con người, về sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội trong con người, về mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội và về sự giải phóng
con người, giải phóng xã hội; đặc biệt tác giả nhấn mạnh mối quan hệ giữa giải
phóng xã hội và giải phóng cá nhân, đó là: Con người tự giải phóng cho mình và
qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Trong bài viết “C.Mác và sự nghiệp giải phóng con người trong thời đại
ngày nay” đăng trên Tạp chí Triết học (số 5, 2008), tác giả Vũ Quang Tạo đã nêu
ra và khẳng định bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết Mác về giải

phóng con người. Tác giả dẫn quan điểm của Mác cho rằng để giải phóng con
người, cần phải xoá bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa; đồng thời khẳng định chủ
nghĩa cộng sản chính là sự phủ định một cách tất yếu, tự nhiên mà lịch sử xã hội
loài người dành cho chế độ tư hữu và cũng là một bước tiến lớn của lịch sử trong
sự nghiệp giải phóng con người.
Trong bài viết “Quan điểm về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam”
đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (số 5 - 2016), tác giả Trần Thị Minh
Ngọc phân tích quan điểm của các nhà sáng lập triết học Mác về phát triển con
người toàn diện, đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của phát triển sản xuất
đối với phát triển con người. Ngoài ra, tác giả cũng khẳng định thực chất của sự
phát triển xã hội loài người theo triết học Mác là một quá trình mà nhân loại tạo
ra những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem lại sự phát triển
tồn diện, tự do và hài hòa cho mỗi người trong cộng đồng nhân loại, tạo cho con
người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình.
Trên cơ sở phân tích quan điểm của Mác về bản chất con người, tác giả Đặng
Hữu Toàn trong bài viết “Học thuyết về con người, giải phóng và phát triển con người
- một giá trị làm nên sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác”, Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam (ngày 16/6/2018), đã phân tích quan điểm triết học Mác về vị thế
chủ thể, vai trò sáng tạo lịch sử của con người, theo đó, con người vừa là chủ thế, vừa
là đối tượng của tiến trình phát triển lịch sử, con người làm nên lịch sử của chính


11
mình và do vậy, lịch sử là lịch sử của con người, do con người và vì con người.
Bài viết “Tư tưởng Các Mác về con người, giải phóng con người và phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam”, Tạp chí Tuyên giáo, bản điện tử (ngày
04/5/2018) của tác giả Văn Thị Thanh Mai, Đinh Quang Thành đã khẳng định lại
tư tưởng của Mác về con người với những nội dung chính là: Con người là một thực
thể tự nhiên - xã hội, tồn tại và phát triển trong sự gắn bó hữu cơ với giới tự nhiên
và xã hội loài người, con người là chủ thể giữ vai trò quyết định đối với sự vận

động, phát triển của thế giới và của chính mình; lao động quyết định sự hình thành
con người, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn
của con người và xã hội. Từ nghiên cứu về con người và bản chất con người, các
tác giả nêu tư tưởng giải phóng con người của Mác, đó là: việc xóa bỏ chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu là để cứu lấy con người,
giải phóng con người, và lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử thực hiện thành cơng
sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại ấy chính là giai cấp vơ sản.
Ngồi ra, những cơng trình sau đây cũng góp phần gợi mở cho tác giả rất
nhiều trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án: Loạt cơng trình của tác giả Hồ Sỹ
Q như “Phát triển con người: Những điều cần làm rõ”, Tạp chí Cộng sản, số
10/2000, “Mấy tư tưởng lớn về con người trong ‘Bản thảo kinh tế triết học năm
1844’”, Tạp chí Triết học (số 6, 2003), “Con người là trung tâm: Sự khác biệt giữa
hai quan điểm tiêu biểu”, Tạp chí Triết học (số 8, 2014); loạt cơng trình của tác
giả Nguyễn Minh Hoàn như “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng xã hội
với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người”, Tạp chí Triết học (số 5,
2007), “Quan điểm triết học Mác về con người và việc xóa bỏ sự tha hóa con
người”, Tạp chí Lý luận chính trị (số 4, 2008), “Quan điểm triết học Mác về sự
tha hóa con người - cơ sở lý luận cho việc nhận thức về phát triển con người thời
đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Triết học (số 1, 2018), “Quan điểm
của triết học Mác về vai trò của quan hệ giữa kinh tế với chính trị đối với sự phát
triển tồn diện và tự do của con người”, Tạp chí Triết học (số 10, 2018)…
Cơng trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng nước ngoài:


12
Từ thập niên 50 của thế kỷ XX, học thuyết phát triển con người toàn diện
của chủ nghĩa Mác đã trở thành cơ sở lý luận và nội dung căn bản của phương châm
giáo dục ở Trung Quốc. Song do ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng “cực tả” và “Cách
mạng văn hóa”, trong thập niên 60-70 của thế kỷ XX, nghiên cứu về vấn đề phát
triển con người toàn diện bị gián đoạn. Sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (1978),

Trung Quốc bước vào thời kỳ cải cách mở cửa và xây dựng nền kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa, vấn đề con người và phát triển con người đã nhận được sự quan
tâm của cả giới lãnh đạo, giới nghiên cứu lý luận và người dân bình thường. Nghiên
cứu về tư tưởng phát triển con người toàn diện ngày càng đa dạng và sâu sắc hơn
cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Đến thập niên 80 của thế kỷ XX, vấn đề con người và nghiên cứu về phát
triển con người toàn diện trở thành vấn đề nóng thu hút sự quan tâm của đông đảo
giới học thuật. Với nguyên tắc “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm
chân lý” của Mác, các học giả Trung Quốc tập trung làm rõ nhân tính và giá trị
con người, chú trọng đến sự phát triển toàn diện. Nghiên cứu đáng chú ý nhất ở
thời kỳ này là bài viết “Tổng quan về quan điểm phát triển con người toàn diện
của Mác” (马克思的“人的全面发展观”概览) đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội
Trung Quốc (số 3 năm 1983) của tác giả Ding Xueliang (丁学良). Tác giả đã dựa
vào những trình bày của Mác về đặc trưng phương thức phát triển của ba hình thái
xã hội lớn để phác họa ra “phát triển con người toàn diện” từ góc độ triết học; luận
chứng học thuyết chủ nghĩa Mác về phát triển con người tồn diện khơng chỉ là
một nguyên lý giáo dục, mà còn là một nguyên lý triết học chứa đựng bên trong
tinh hoa tư tưởng chủ nghĩa Mác và bao trùm mọi phương diện của hoạt động xã
hội. Bài nghiên cứu đồng thời cũng bàn đến ý nghĩa phê phán đối với văn minh
chủ nghĩa tư bản đương đại của quan điểm phát triển con người toàn diện và ý
nghĩa chỉ đạo đối với sự nghiệp xây dựng văn minh mới chủ nghĩa xã hội - chủ
nghĩa cộng sản.
Đến thập niên 90 của thế kỷ XX, những nghiên cứu về phát triển con người


13
tồn diện có bước tiến triển trên cơ sở tiếp nối những nghiên cứu của giới học giả
ở thập niên 80. Nội dung nghiên cứu chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa phát
triển con người toàn diện với giáo dục (bao gồm giáo dục đạo đức, giáo dục tố
chất, giáo dục mỹ thuật, giáo dục thể chất v.v…). Tác phẩm tiêu biểu nhất ở giai

đoạn này là cuốn Tư tưởng nhân học của chủ nghĩa Mác (马克思的人学思想)
(Nxb. Đại học Sư phạm Bắc Kinh, 1996) và Bàn về tố chất con người (人的素质
论)(Nxb. Thanh niên Trung Quốc, 1993) của tác giả Yuan Guiren (袁贵仁). Cuốn
Tư tưởng nhân học của chủ nghĩa Mác chủ yếu khảo sát lịch sử, còn cuốn Bàn về
tố chất con người lại tập trung nghiên cứu con người hiện thực. Hai cuốn sách nhận
định lý thuyết nhân học là bộ phận cấu thành quan trọng của triết học Mác, tố chất
của con người là điểm mấu chốt để nghiên cứu vấn đề “con người hiện thực”, là
điểm kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Bước sang thế kỷ XXI, nghiên cứu về phát triển con người toàn diện đã trở
thành cao trào. Trong bài phát biểu kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng Cộng
sản Trung Quốc (năm 2001), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang
Trạch Dân đã 8 lần đề cập đến khái niệm “phát triển con người toàn diện”, lấy
“phát triển con người toàn diện” làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt để trình bày một cách
tồn diện vấn đề con đường cơ bản và nhiệm vụ lịch sử của Đảng. Đặc biệt ở phần
thứ tư của bài phát biểu đã chỉ ra đường lối cơ bản và nhiệm vụ lịch sử của phát
triển con người toàn diện, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nghiên cứu vấn đề
phát triển con người tồn diện, từ đó rất nhiều học giả Trung Quốc nghiên cứu về
vấn đề này. Hai tác phẩm tiêu biểu nhất ở thời kỳ này là Bàn về phát triển con
người toàn diện (论人的全面发展) (Nxb. Nhân dân Quảng Tây, 2003) của hai tác
giả Yuan Guiren, Han Qingxiang (袁贵仁,韩庆祥), và Con đường do Mác mở
ra - Nghiên cứu về phát triển con người toàn diện (马克思开辟的道路——人的
全面发展研究) (Nxb. Nhân dân, 2005) của các tác giả Han Qingxiang, Kang Anyi
(韩庆祥,亢安毅). Cuốn Bàn về phát triển con người tồn diện trình bày một
cách sâu sắc và toàn diện về vấn đề phát triển con người toàn diện trên bốn phương


14
diện thời đại, lịch sử, lý luận và thực tiễn; khẳng định việc thúc đẩy con người
phát triển toàn diện trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng những
là tất yếu lịch sử, logic mà cịn có tính hiện thực và tính cấp thiết. Cuốn Con đường

do Mác mở ra - Nghiên cứu về phát triển con người tồn diện đi sâu phân tích
hàm nghĩa và nội dung cụ thể của khái niệm phát triển con người tồn diện, cho
rằng phát triển con người tồn diện có quy định về giá trị, quy định về lịch sử và
quy định về nội dung, tổng kết các quy luật lịch sử của phát triển con người toàn
diện, đồng thời phân tích về hình thức thực hiện phát triển con người toàn diện
trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội từ 06 phương diện là quan niệm về giá
trị, năng lực trình độ, phẩm chất đạo đức, trạng thái tinh thần, tâm lý xã hội và
phương thức tư duy.
Những năm gần đây, nghiên cứu về tư tưởng phát triển con người toàn diện
đã nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng, lĩnh vực nghiên cứu phong phú đa dạng,
bên cạnh những cơng trình mang tính truyền thống thì cũng có những phân tích mới
gắn trực tiếp với vấn đề thực tế, hầu hết đã bao quát mọi lĩnh vực có liên quan đến
phát triển con người tồn diện. Đáng chú ý có các cơng trình sau:
Bài viết “Quan điểm của tôi về vấn đề ‘phát triển con người tồn diện’” (“人
的全面发展”问题之我见), Tạp chí Tìm hiểu và quan điểm (2002) của tác giả Yu
Wujin (俞吾金). Tác giả khẳng định tìm hiểu vấn đề phát triển con người tồn diện
khơng những cần chú ý đến hàm ý mà khái niệm cơ bản của vấn đề này đề cập đến,
mà còn phải chú ý đến hai góc độ khác nhau mà vấn đề này phải đối mặt: một là góc
độ lý tưởng, hai là góc độ hiện thực. Chúng ta phải tổng hợp hai góc độ khác nhau
này, từ đó vừa không mất đi cao độ của lý tưởng, vừa không mất đi khả năng thực
hiện trong cuộc sống hiện thực.
Cuốn Lý luận về sự phát triển tự do toàn diện của con người (人的自由全
面发展论), của tác giả Chen Zhishang (陈志尚) (Nxb. Đại học Nhân Dân Trung
Quốc, 2004). Tác giả Chen Zhishang bằng việc tìm về lịch sử tư tưởng phát triển
con người tự do toàn diện ở trong và ngoài Trung Quốc đã làm nổi bật lên đóng


15

góp quan trọng của Mác; trình bày và phân tích một cách chính xác và tồn diện

lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác về phát triển con người tự do tồn diện, đồng
thời phân tích mối quan hệ biện chứng giữa phát triển con người và phát triển xã
hội. Con người là điều kiện tiền đề cho sự tồn tại lịch sử của xã hội, xã hội là hình
thức tồn tại và phát triển của con người. Một nhân cách tư duy và hành động trong
hiện thực là một con người đã phát triển về mặt xã hội, thông qua q trình xã hội
hóa; chỉ trong xã hội, con người mới có thể phát triển bản tính và năng lực thực
sự của mình.
Trong bài viết “Mác, Ăng-ghen, Lênin bàn về phát triển con người toàn
diện” (马克思、恩格斯、列宁论人的全面发展) của tác giả Chen Jinfang (陈金
芳) đăng trên trang web của Viện Nghiên cứu Khoa học giáo dục Trung Quốc
(ngày 08 tháng 5 năm 2006), tác giả đã tổng kết quan điểm của các nhà kinh điển
về phát triển con người toàn diện từ góc độ giáo dục như sau: Nội hàm căn bản
của phát triển con người toàn diện là năng lực lao động của cá nhân, tức thể lực
và trí lực của cá nhân được phát triển toàn diện, đầy đủ và tự do trong quá trình
sản xuất; sự phát triển của con người và sự phát triển của xã hội là quan hệ biện
chứng đối lập thống nhất. Lực lượng sản xuất là nhân tố căn bản ảnh hưởng đến
sự phát triển toàn diện của con người, quan hệ sản xuất là nhân tố trực tiếp ảnh
hưởng đến sự phát triển toàn diện của con người, giáo dục và lực lượng sản xuất
kết hợp với nhau là biện pháp duy nhất thúc đẩy con người phát triển toàn diện.
Trong bài viết “Thử bàn về ý nghĩa hiện thời của lý luận phát triển con
người toàn diện của chủ nghĩa Mác” (浅谈马克思主义的人的全面发展理论的
现实意义), tác giả Liu Xin (刘鑫) (Nxb. Nhà xuất bản Biên dịch Trung ương,
2008) đã phân tích q trình hình thành và phát triển của lý luận phát triển con
người toàn diện của chủ nghĩa Mác. Lý luận về phát triển con người toàn diện lần
đầu tiên được Mác đưa ra trong nội dung tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844”. Mác khẳng định, lao động là “hoạt động tự do, tự giác” của con người,
song trong điều kiện của chế độ tư hữu thì lao động của con người đã biến thành


16

“lao động bị tha hóa”. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” - tác phẩm đánh dấu sự
ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng và quan niệm duy vật về lịch sử, lần
đầu tiên Mác và Ph.Ăng-ghen đề cập đến khái niệm “phát triển con người toàn
diện”, đưa ra tư tưởng về phát triển con người toàn diện. Sau này trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác khẳng định xã hội cộng sản chủ nghĩa là liên hợp
của những người tự do, coi sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân là
nguyên tắc cơ bản; mỗi cá thể trong liên hợp này độc lập, tự chủ, tự do, tồn diện,
sự tơn nghiêm và giá trị của mỗi cá thể đáng được tôn trọng và bảo vệ. Bộ “Tư
bản” (năm 1867) đã đánh dấu sự chín muồi của tư tưởng chủ nghĩa Mác về phát
triển con người toàn diện. C.Mác và Ph.Ăng-ghen xuất phát từ quan hệ giữa con
người với xã hội, từ góc độ diễn biến lịch sử để chỉ ra tình trạng phát triển của con
người trong các hình thái xã hội, cũng như chỉ ra tiến trình phát triển con người
tồn diện và q trình phát triển của lịch sử lồi người như một q trình lịch sử
tự nhiên; thơng qua việc phân tích q trình sản xuất, trao đổi, phân phối, lưu
thơng đã tìm ra được quy luật nội tại quá trình vận hành của kinh tế tư bản chủ
nghĩa - quy luật giá trị thặng dư, đồng thời, trong thời gian lao động thặng dư đã
tìm ra điều kiện để phát triển con người toàn diện - thời gian tự do.
Cuốn Giao tế và sự phát triển của con người - Từ góc độ của chủ nghĩa
Mác (交往与人的发展—基于马克思主义的视角) của tác giả Liu Minghe (刘明
合) (Nxb. Nhà xuất bản Biên dịch Trung ương, 2008). Cuốn sách này luận giải
một cách có hệ thống về mối liên hệ bên trong giữa phạm trù giao tiếp và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Một số vấn đề liên quan đế phát triển con người toàn diện
được tác giả đề cập như giao tế là nền tảng và điều kiện quan trọng cho sự phát
triển của con người, hình thức lịch sử của giao tế và hình thức lịch sử của sự phát
triển con người, giao tế qua mạng và sự phát triển của con người, chế độ và sự
phát triển của con người, giao tế và sự phát triển của con người ở Trung Quốc
trong giai đoạn hiện nay.
Cuốn Thế giới của con người và con người của thế giới – Tìm hiểu lịch sử tư



17
tưởng của chủ nghĩa Mác (人的世界与世界的人:马克思的思想历程追踪) của
tác giả Zhang Shuguang (张曙光) (Nxb. Đại học sư phạm Bắc Kinh, 2009). Tác giả
xuất phát từ bản chất con người – “cá tính” theo quan điểm chủ nghĩa Mác để chỉ
ra rằng giải phóng con người là sứ mệnh cả đời của Mác. Nghiên cứu lý luận của
Mác chỉ ra rằng, giải phóng con người không phải là mong muốn thuần túy chủ
quan của con người, cũng không phải là một định mệnh tự nhiên mà con người sinh
ra đã có khả năng hiện thực hóa; con người là một sinh vật độc nhất tự sinh ra, tự
vượt qua và tự hoàn thiện, vì vậy, con người ln trong q trình nhận thức chính
mình. Thế giới của con người và q trình hình thành và phát triển của con người
trong “thế giới của con người và con người của thế giới” là chủ đề của tư tưởng triết
học Mác và thậm chí là toàn bộ tư tưởng của C.Mác.
Cuốn sách nghiên cứu về “Hệ tư tưởng Đức” của Mác và Ăngghen (马克思
恩格斯《德意志意识形态》研究读本) của tác giả Zhang Wu (张 梧) (Nxb. Nhà
xuất bản Biên dịch Trung ương, 2017) là một cơng trình nghiên cứu tương đối chi
tiết về bối cảnh thời đại, hoàn cảnh tư tưởng, quá trình sáng tạo, quá trình giao tiếp,
biên tập ấn bản và tình hình nghiên cứu tác phẩm Hệ tư tưởng Đức của C. Mác và
Ăngghen. Hệ tư tưởng Đức đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu làm cho lao động bị tha
hóa là do cịn tồn tại sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế, để giải phóng
con người khỏi sự tha hóa, tạo điều kiện để phát triển toàn diện những “năng lực
nhân tính” cho từng cá nhân cần phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội, cụ thể là chế độ tư hữu tư sản.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu của các học giả Trung Quốc nêu trên,
một số cơng trình nghiên cứu của các học giả phương Tây sau đây cũng mang lại
giá trị tham khảo đối với luận án: Erich Fromn (1961), Marx’s Concept of Man,
Cortinuum International Publishing Group; Khazoeva, N,O.; Khaziev, A.K.;
Stepanenko, G.N.; Klyushina, E.V.; Stepanenko, R.F. (2019), Marxism in the
modern world: social-philosophical analysis, Utopoa Praxis Latinoamericana;
Philip Alston and Mary Robinson (2005), Human Rights and Development:



18

Towards Mutual Reinforcement, Oxford University Press; Stein Ringer (2017),
The perfect Dictatorship, HKU Press; Z. Xu (2015), Theory of Human
Comprehensive Development of Marx and Its Sinicization Process, Scociology.
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến quan điểm của Đảng
Cộng sản Trung Quốc về phát triển con người tồn diện
Cơng trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng Việt:
Ở Việt Nam hiện chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu chun sâu liên quan
đến quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc về phát triển con người tồn diện.
Trong một số cơng trình nghiên cứu về những thành tựu lý luận chung của Trung
Quốc trong q trình cải cách mở cửa có đề cập đến quan điểm phát triển con người
toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tiêu biểu là các công trình:
Bài viết “Trung Quốc: Những đổi mới trong cơng tác tư tưởng lý luận sau 30
năm cải cách mở cửa” của tác giả Phạm Tất Thắng, đăng trên Tạp chí Tuyên giáo,
bản điện tử (ngày 14-2-2009). Trong bài viết, tác giả đã nêu những đổi mới về lý
luận trong lĩnh vực chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ khi tiến hành cải
cách mở cửa: lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện” của Giang
Trạch Dân, “quan điểm phát triển khoa học” của Hồ Cẩm Đào. Tác giả nhấn mạnh,
hàm nghĩa quan trọng hàng đầu của “quan điểm phát triển khoa học” là “phát triển”;
hạt nhân của “quan điểm phát triển khoa học” là “lấy con người làm gốc”; yêu cầu
cơ bản của quan điểm phát triển một cách khoa học là “sự hài hịa bền vững tồn
diện”; phương pháp căn bản của “quan điểm phát triển khoa học” là “bố trí đồng
bộ”.
Bài viết “Những sáng tạo mới về lý luận Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc trong Đại hội XIX”, Website của Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
(ngày 16-5-2019) của tác giả Đỗ Tiến Sâm. Nghiên cứu về quan điểm của Hồ Cẩm
Đào về phát triển con người toàn diện, tác giả khẳng định: Với tinh thần lấy chủ
nghĩa Mác phát triển để chỉ đạo thực tiễn mới, tập thể thế hệ lãnh đạo thứ tư của

Đảng Cộng sản Trung Quốc do Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư đã tìm tịi để trả lời
câu hỏi: Thế nào là phát triển, thực hiện sự phát triển như thế nào? Ông đã tiếp tục


19
bổ sung, nêu lên các quan điểm mới về phát triển, theo đó phát triển là vì con người,
“lấy con người làm gốc” và lý luận về xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa. Về quan
điểm của hạt nhân thế hệ lãnh đạo thứ năm, tác giả đã chỉ ra quan điểm chỉ đạo của
Đảng Cộng sản Trung Quốc được nêu trong Báo cáo chính trị Đại hội XIX: Mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội Trung Quốc là mâu thuẫn giữa nhu cầu về cuộc sống tốt
đẹp ngày càng tăng lên của nhân dân với sự phát triển không cân bằng, khơng đầy
đủ, cần phải kiên trì tư tưởng phát triển lấy nhân dân làm trung tâm, không ngừng
thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người, toàn thể nhân dân cùng giàu có.
Qua các bài viết, các tác giả đều khẳng định rằng những thành quả lý luận
nói chung và lý luận về phát triển con người tồn diện nói riêng chính là kết quả
của sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đơng, lý
luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”, quan điểm “phát triển
khoa học”. Những sáng tạo lý luận trong quá trình cải cách mở cửa đều nhằm mục
tiêu cuối cùng là xây dựng Trung Quốc trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa
hiện đại, giàu có, dân chủ, văn minh, hài hịa, tươi đẹp, tạo điều kiện để con người
phát triển tự do, tồn diện.
Cơng trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng nước ngoài:
Cuốn Nghiên cứu tư tưởng phát triển con người tồn diện của Mác và sự
phát triển của nó (马克思人的全面发展思想及其当代发展研究) của tác giả Gu
Xiangwei (顾相伟) (Nxb. Đại học Phúc Đán, 2015) đã phân tích một cách khá
tồn diện những đóng góp của ba thế hệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc là
Mao Trạch Đơng, Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân đối với tư tưởng phát triển
con người toàn diện. Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, hạt nhân
lãnh đạo của ba thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kế thừa và
phát triển tư tưởng phát triển con người toàn diện của chủ nghĩa Mác, tiến hành

“Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác”: Mao Trạch Đơng đã đặt nền móng cho sự phát
triển con người tồn diện từ góc độ chính trị, tư tưởng, Đặng Tiểu Bình nêu ra tư
tưởng giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, bồi dưỡng con người mới xã hội chủ


20
nghĩa phát triển toàn diện, Giang Trạch Dân khẳng định phát triển con người toàn
diện là yêu cầu bản chất của xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Trong bài viết “Tư tưởng phát triển con người toàn diện trong sự phát triển
của Trung Quốc ngày nay” (人的全面发展思想在当代中国的发展) của tác giả
Liu Yu (刘宇) đăng tải trên tạp chí Học báo Học viện giáo dục Trường Xuân (2015),
bằng việc phân tích cơ sở lý luận của tư tưởng phát triển con người toàn diện, tác
giả đã nêu những phát triển mới của Trung Quốc trong vấn đề này. Ngay sau khi
nước Trung Quốc thành lập, Mao Trạch Đông đã đưa ra quan điểm phát triển con
người toàn diện là làm cho học sinh có được kiến thức tồn diện và sâu rộng, có cơ
thể phát triển khỏe mạnh, phát triển đạo đức cộng sản chủ nghĩa, là xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể. Đặng Tiểu Bình
trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của Mao Trạch Đông đã nêu quan điểm bồi dưỡng con
người mới có bốn tố chất là có lý tưởng, có đạo đức, có kỷ luật, có văn hóa, hay
giáo dục con người vừa có đức, vừa có trí. Theo quan điểm của Giang Trạch Dân,
phát triển con người toàn diện là yêu cầu bản chất của xây dựng chủ nghĩa xã hội;
ông cho rằng “cần không ngừng thúc đẩy con người phát triển toàn diện trên cơ sở
văn minh vật chất và văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa” [82]; trong giai đoạn xây
dựng xã hội khá giả toàn diện, Giang Trạch Dân cho rằng sự phát triển tồn diện
của con người vừa có sự phát triển đời sống vật chất, vừa có sự phát triển tồn diện
của đời sống tinh thần… Đến Hồ Cẩm Đào, ông khẳng định “quan điểm phát triển
khoa học” và xã hội hài hịa là tiền đề cho sự phát triển tồn diện của con người mà
hạt nhân của “quan điểm phát triển khoa học” là “lấy con người làm gốc”, coi sự
phát triển của con người là điểm xuất phát và đích đến cuối cùng. Tập Cận Bình là
người nêu lên “giấc mơ Trung Quốc” - thực hiện phục hưng vĩ đại dân tộc Trung

Hoa đồng thời nhấn mạnh, giấc mơ Trung Quốc xét đến cùng là giấc mơ của nhân
dân, phải dựa vào nhân dân để thực hiện, phải không ngừng tạo phúc cho nhân dân.
Tác giả Zhu Rongying (朱荣英) trong cuốn Lý luận phát triển con người
toàn diện của Mác và sự phát triển lý luận này của Trung Quốc (马克思人的全面


21
发展理论及中国表征) (Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, 2018) cho rằng chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc kiên trì quan điểm lực lượng sản xuất quyết định
sự phát triển của xã hội, nhấn mạnh phát triển là mấu chốt để giải quyết mọi vấn đề
của Trung Quốc. Quan điểm này đã thể hiện tính biện chứng trong lý luận của Mác
về phát triển con người toàn diện, là sự vận dụng phép biện chứng trong vấn đề phát
triển con người và xã hội; là cơ sở và bản chất của sự nghiệp chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc, thể hiện tính ưu việt và sức hiệu triệu của chế độ xã hội chủ nghĩa
đặc sắc Trung Quốc, là sự kế thừa, làm phong phú và phát triển đối với tư tưởng
nhân học của triết học Mác, là biểu hiện tính thời đại của lý luận chủ nghĩa Mác về
phát triển con người toàn diện. Tác giả cho rằng, cùng với quá trình đi sâu cải cách
mở cửa và sự hoàn thiện của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Trung
Quốc đã bước vào thời kỳ quan trọng của giai đoạn phát triển lịch sử mới. Trong
giai đoạn phát triển lịch sử mới này, các loại mâu thuẫn và vấn đề tích lũy trong q
trình tìm tòi và thử nghiệm trước đây đã bộc lộ ra, sự phát triển của xã hội và sự
phát triển của con người đã bộc lộ rất nhiều tình huống mới, vấn đề mới, do đó
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra “quan điểm phát triển khoa học”
- quan điểm phát triển kiên trì lấy con người làm gốc, phát triển tồn diện, hài hịa,
bền vững. Nhiệm vụ đầu tiên của “quan điểm phát triển khoa học” là phát triển, hạt
nhân là lấy con người làm gốc, yêu cầu cơ bản là tồn diện, hài hịa, bền vững,
phương pháp căn bản là tính tốn tổng thể.
Bài viết “Tư tưởng phát triển con người tồn diện của Tổng Bí thư Tập Cận
Bình từ sau Đại hội XVIII và thực tiễn sinh động của nó” (十八大以来习近平总
书记关于人的全面发展思想及其生动实践), Mạng Guangming (光明网) (ngày

27-12-2017) của tác giả Wu Liguan, Zhao Hongwei (吴立官,赵宏伟). Tác giả
cho rằng “lấy nhân dân làm trung tâm”, “lập trường nhân dân”, “cảm giác có được
của người dân” là những từ ngữ mà Tập Cận Bình thường xuyên nhắc tới và là
chủ đề Tập Cận Bình quan tâm, cũng là nguyên tắc căn bản và logic rõ ràng trong
quá trình quản lý Đảng, quản lý đất nước của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tác


22
giả khái quát tư tưởng phát triển con người toàn diện của Tập Cận Bình từ ba
phương diện, một là tất cả vì sự phát triển tồn diện của con người, hai là vì sự
phát triển tồn diện của mỗi con người, ba là vì sự phát triển tồn diện của tất cả
mọi người. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra “đơn thuốc của Trung Quốc” nhằm thực
hiện phát triển con người tồn diện, đó là xây dựng cộng đồng chung vận mệnh,
tích cực tham gia quản trị tồn cầu và thực hiện sáng kiến “một vành đai, một con
đường”.
Ngoài những nghiên cứu nêu trên, liên quan đến quan điểm của Đảng Cộng
sản Trung Quốc về phát triển con người tồn diện, những nghiên cứu sau cũng có
ý nghĩa tham khảo đối với tác giả trong quá trình triển khai luận án: Song
Mengrong (宋萌荣), “Phát triển con người toàn diện với việc xây dựng xã hội hài
hòa xã hội chủ nghĩa” (人的全面发展与构建社会主义和谐社会), Tạp chí
Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội (số 202, 2006); Yao Saohua (妖少华), “Nghiên cứu
tiến trình lịch sử của Trung Quốc hóa lý luận của Mác về phát triển con người toàn
diện”(马克思关于人的全面发展理论中国化进程研究), Luận án tiến sỹ, Đại
học Nam Khai (2009); Zhou Wenfeng (周文峰), “Quan điểm phát triển khoa học:
Sự kế thừa và sáng tạo lý luận phát triển con người tồn diện” (科学发展观:人的
全面发展理论继承与创新), Tạp chí Kinh tế và văn học biên cương (2010); Xiao
Xiao (肖潇), “Thuyết minh từ góc độ đương đại nội hàm của phát triển con người
tồn diện” (人的全面发展内涵的当代中国诠释), Tạp chí Học báo Học viện Sư
phạm số 2 Hồ Bắc (2013), Wang Lei (王磊), Cao Jun, Liu Xiaoman, Yan Sisi (曹
钧,刘晓曼,颜思思), “Trung Quốc hóa lý luận của Mác về phát triển con người

toàn diện và giá trị thời đại” (马克思人的全面发展理论的中国化及当代价值),
Tạp chí Học lý luận (2017); Zhang Lipeng (张立鹏), “Nghiên cứu lý luận của Mác
về phát triển con người toàn diện và điều kiện thực hiện ở Trung Quốc hiện nay” (
马克思人的全面发展理论及其在当代中国实现条件研究), Tạp chí Đại học Tơ
Châu (2014); Liu Xinhuan (刘新环), “Nghiên cứu lý luận của Mác về phát triển


23
con người tồn diện và vấn đề Trung Quốc hóa lý luận phát triển con người tồn
diện” (马克思人的全面发展理论及其中国化研究), Tạp chí Đại học Công
nghiệp Liêu Ninh (2014); Shi Chengjie, Hou Yongzhi (施戍杰, 侯永志), “Đi
sâu tìm hiểu tư tưởng phát triển lấy con người làm trung tâm” (深入认识以人为
中心思想), Nhật báo Nhân Dân (ngày 22-6-2017); Li Ming (李明), “Logic triết
học của phát triển con người toàn diện trong thời đại mới” (新时代“人的全面发
展”的哲学逻辑), Nhật báo Quang Minh (ngày 11 tháng 02 năm 2019)…
Những nghiên cứu nêu trên đã trình bày một cách đầy đủ quá trình hình
thành quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc về phát triển con người toàn
diện cũng như nội dung của các quan điểm này, thể hiện thông qua tư tưởng của
năm thế hệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc qua các thời kỳ.
1.2. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐẶC SẮC TRUNG QUỐC
1.2.1. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến thành tựu phát triển
con người toàn diện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc
Trong suốt hơn 40 năm cải cách mở cửa, trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác về
con người và phát triển con người toàn diện, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có những
bổ sung và phát triển, đồng thời dùng lý luận đó để chỉ đạo thực tiễn và đã đạt được
những thành tựu to lớn trong phát triển con người tồn diện. Về nội dung này, có những
nghiên cứu tiêu biểu như sau:

Cơng trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng Việt:
Bài viết “Trung Quốc: Từ tăng trưởng bằng mọi giá tới phát triển hài hòa”,
(Vũ Thành Tự Anh, Tạp chí Tia Sáng, 2008) đưa ra những đánh giá về 30 năm cải
cách mở cửa của Trung Quốc. Tác giả Vũ Thành Tự Anh cho rằng, bên cạnh những
thành tựu đạt được về kinh tế, Trung Quốc phải đối mặt với các vấn đề như: mức
độ tiến bộ về chỉ số phát triển con người (HDI) chậm hơn tốc độ tăng trưởng kinh


24
tế hay vấn đề mất cân bằng nghiêm trọng giữa thành thị và nông thôn, giữa các tỉnh
đồng bằng duyên hải phía Đơng và các tỉnh miền Tây. Bằng chứng là, mặc dù về
phương diện phát triển con người, Trung Quốc nằm trong nhóm có chỉ số HDI trung
bình/ cao, nhưng chỉ số HDI của 05 tỉnh miền Tây chỉ ở mức trung bình, thậm chí
Tây Tạng cịn thuộc nhóm có HDI thấp. Ngược lại, ba đơ thị lớn là Bắc Kinh,
Thượng Hải, Thiên Tân có chỉ số HDI trên 0,8, tức là thuộc nhóm có chỉ số HDI
cao theo tiêu chuẩn quốc tế.
Trong bài viết “Nhìn lại quá trình 40 năm cải cách mở cửa” đăng trên Tạp
chí Cộng sản, (số 912, tháng10-2018), tác giả Nguyễn Xuân Cường đã liệt kê những
thành tựu to lớn mà Trung Quốc đạt được sau 40 năm cải cách mở cửa, trong đó,
thành tựu về phát triển con người rất đáng ghi nhận: Mức thu nhập bình quân đầu
người tăng từ 7.311 NDT năm 2012 lên 23.821 NDT năm 2016, tỷ lệ tăng hằng
năm là 7,4%. Năm 2017, thu nhập bình quân cư dân đạt 25.974 NDT. Thu nhập
bình quân đầu người của người dân nơng thơn ở khu vực nghèo tăng bình quân
10,7% trong giai đoạn 2013 - 2016, tăng nhanh hơn mức bình qn 8% đối với tất
cả người dân nơng thôn. Số người nghèo ở nông thôn từ 97,5% năm 1978 giảm
xuống 3,1% năm 2017, còn khoảng 30,46 triệu người nghèo. Mạng lưới an sinh xã
hội đã được hình thành rộng khắp. Bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900
triệu dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân. Riêng trong năm 2017,
dân số Trung Quốc là 1,39 tỷ người, trong đó dân số đô thị khoảng 813,47 triệu
người. Năm 2017, Trung Quốc đứng thứ 25 trong bảng xếp hạng “sức mạnh mềm”

thế giới.
Bài viết “Một số đánh giá về 40 năm cải cách mở cửa ở Trung Quốc” của tác
giả Nguyễn Bỉnh Giang đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (số 2-2019)
điểm lại một số đặc điểm nổi bật trong phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
từ cuối năm 1978 tới nay, tập trung vào mơ hình tăng trưởng và đặc trưng của Trung
Quốc trong đường lối phát triển các hình thức sở hữu kinh tế. Mơ hình và đặc trưng
này một mặt đem lại những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, giúp Trung
Quốc từ chỗ là một “bệnh phu” vươn lên thành một thế lực kinh tế thách thức cả


25
Mỹ. Tác giả đánh giá cao vai trò của nguồn lực con người trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc với lập luận như sau: Mơ hình tăng trưởng
của Trung Quốc từ 1978 tới nay là mơ hình tăng trưởng dựa vào đóng góp của
nguồn lực con người, đầu tư nhờ tiết kiệm cao, năng suất tổng nhân tố tăng nhanh,
xuất khẩu thông qua cạnh tranh, và thúc đẩy cạnh tranh trong nước thông qua độc
quyền nhóm. “Đóng góp của nguồn lực con người trong tăng trưởng kinh tế ở Trung
Quốc đặc biệt cao. Đó là nhờ ngay từ khi mới cải cách mở cửa, người Trung Quốc
đã có một nền tảng giáo dục rất tốt và giáo dục ngày càng được chú trọng trong thời
gian từ cải cách đến nay” [13].
Cơng trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng nước ngoài:
Trong cuốn sách Phát triển con người toàn diện ở Trung Quốc (人的全面
发展在中国) (Nxb. Thời sự, 2009) của hai tác giả Zhang Shuyuan, Zhang
Weixiang (张述元,张维祥), các tác giả lấy lý luận phát triển con người toàn diện
của chủ nghĩa Mác làm tiền đề, lấy phát triển xã hội làm đầu mối, khảo sát và
nghiên cứu thực tiễn vấn đề phát triển con người ở Trung Quốc, hình thái biểu
hiện và quá trình diễn biến lịch sử, thể hiện quan điểm phát triển con người toàn
diện của Mao Trạch Đông, hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc,
nêu ra những sáng tạo về lý luận và thành tựu mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
đạt được. Tác giả đã miêu tả tình trạng và đặc điểm lịch sử phát triển con người

toàn diện qua các giai đoạn từ sau khi nước Trung Quốc thành lập, phản ánh rõ
quá trình tiến triển trong sự nghiệp phát triển con người toàn diện ở Trung Quốc.
Cuốn Phát triển con người toàn diện - Từ lý luận đến hệ thống chỉ tiêu (人
的全面发展——从理论到指标体系) (Nxb. Biên dịch Trung ương, 2011) của tác
giả Wan Zizi (万资姿). Tác giả cho rằng ở Trung Quốc hiện nay, vấn đề phát triển
con người toàn diện ngày càng nhận được sự coi trọng, phát triển con người toàn
diện đã trở thành quy định bản chất và mục tiêu giá trị cao nhất của xã hội hài hòa
xã hội chủ nghĩa. Tác giả Wan Zizi trên cơ sở tổng hợp những nghiên cứu các chỉ
tiêu liên quan đến phát triển con người toàn diện, xây dựng nên hệ thống chỉ tiêu


26
phát triển con người toàn diện đồng thời tiến hành nghiên cứu ứng dụng đối với
hệ thống này.
Con người luôn giữ vị trí trung tâm trong các q trình phát triển kinh tế xã hội, nhân tố con người chiếm vị trí hàng đầu trong tổng thể các nhân tố tác động
đến sự phát triển xã hội. Nhân tố con người đóng vai trị quan trọng, góp phần làm
nên những thành tựu to lớn chưa từng có trong q trình cải cách mở cửa, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Khẳng
định vai trò của con người, trong cuốn sách Nghiên cứu về phát triển con người
tồn diện từ góc độ quan điểm phát triển khoa học (科学发展观视野下人的全面
发展研究) (Nxb. Thế giới, 2012), tác giả Yi Dong (易东) cho rằng nhân tài có vai
trị quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo thống kê của Tổng cục
Thống kê Nhà nước Trung Quốc năm 2010, nhân tài đóng góp 26,6% cho tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc. Tác giả cho rằng đây là thành quả to lớn trong
chiến lược “Nhân tài làm phồn vinh đất nước”, cũng thể hiện tư tưởng mục tiêu
phát triển con người toàn diện. Tuy nhiên, những thành quả này còn cách xa so
với mục tiêu về phát triển con người toàn diện mà hệ thống lý luận chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc, đặc biệt là “quan điểm phát triển khoa học” đã đưa ra.
Cuốn Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc và sự phát triển toàn diện
của con người (中国特色社会主义与人的全面发展) (Nxb. Khoa học xã hội

Trung Quốc, 2016) của tác giả Ren Guozhong, Li Bingqing, Zhong Aiping (任
国忠,李丙清,仲爱萍). Các tác giả cho rằng: Lý luận của Mác về phát triển
con người toàn diện là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, lý luận này thống nhất với lý luận phát triển xã hội, tạo nên chỉnh thể
lý luận của quan điểm duy vật lịch sử. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã Trung
Quốc hóa lý luận của Mác về phát triển con người toàn diện, coi đây là nguyên
tắc quan trọng trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Ở
phần thực tiễn phát triển con người tồn diện ở Trung Quốc, đóng góp của
nghiên cứu này là phân tích được mối quan hệ giữa sự phát triển toàn diện của


27
con người với sự thay đổi quan niệm giá trị trong xã hội đương đại, sự cấu
thành phương thức sống đương đại và đời sống tinh thần của người Trung Quốc
đương đại.
Sách trắng Sự phát triển tiến bộ của sự nghiệp nhân quyền Trung Quốc sau
40 năm cải cách mở cửa (改革开放 40 年中国人权事业的发展进步) của Văn
phịng thơng tin Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, 2018. Tổng
kết thành tựu của Trung Quốc về nhân quyền sau 40 năm cải cách mở cửa, “Sách
trắng” khẳng định: Kiên trì lấy nhân dân làm trung tâm là ý tưởng hạt nhân của sự
nghiệp nhân quyền; nhân dân là động lực căn bản thúc đẩy tiến bộ của lịch sử; cần
kiên trì lấy nhân dân làm trung tâm, làm cho nhân dân có cuộc sống tốt đẹp là tâm
nguyện ban đầu và mục tiêu rõ ràng của sự nghiệp cải cách mở cửa ở Trung Quốc;
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ Trung Quốc xuất phát từ lợi ích của
nhân dân, đưa ra con đường cải cách, hoạch định các bước đi của cải cách; nhân
dân quan tâm điều gì, mong muốn điều gì, cải cách sẽ đáp ứng điều đó, thúc đẩy
điều đó.
Văn phịng Thơng tin Quốc vụ viện, Sách trắng Mưu cầu hạnh phúc cho
nhân dân: 70 năm phát triển sự nghiệp nhân quyền của Trung Quốc mới (为人民
谋幸福:新中国人权事业发展 70 年) (Nxb. Nhân Dân, 2019). Sách trắng đưa ra

các con số cụ thể về tất cả các tiêu chí nhân quyền để đi đến khẳng định: 70 năm
từ khi Trung Quốc mới thành lập, trình độ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, mơi
trường của nhân dân khơng ngừng nâng lên, các tiêu chí về nhân quyền được nâng
lên một cách tồn diện.
1.2.2. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến hạn chế của phát
triển con người tồn diện trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc
Cơng trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng Việt:
Một số cơng trình tiêu biểu có thể kể đến: Nguyễn Xuân Cường, “Trung
Quốc với việc xây dựng nông thơn mới xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu


28
Trung Quốc (2006); Đỗ Tiến Sâm, “Trung Quốc với quy hoạch quốc gia về phát
triển văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (2007), Nguyễn Văn Vượng,
“Trung Quốc trên con đường cải cách, mở cửa và hội nhập nhìn từ dịng chảy lịch
sử”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (2009), Phùng Thị Huệ, “Trung Quốc xây
dựng toàn diện xã hội khá giả: Quan điểm, giải pháp và thực trạng”, Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc (2015), Nguyễn Xuân Cường, “Trung Quốc: Nhìn lại quá
trình 40 năm cải cách, mở cửa”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước (2018).
Nghiên cứu những hạn chế trong phát triển con người tồn diện, các cơng
trình nêu ra một số những khó khăn, tác động đến việc thực hiện mục tiêu xây dựng
toàn diện xã hội khá giả, trong đó có mục tiêu phát triển con người tồn diện, đó là
tình trạng bất bình đẳng xã hội: tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng
miền, giữa thành thị với nông thôn và giữa các tầng lớp nhân dân, sự phân cực trong
các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội, nhất là giữa thành thị và nông thôn; vấn đề ô
nhiễm môi trường; vấn đề nông nghiệp, nơng thơn… Những tình trạng này đã trở
thành lực cản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, đòi
hỏi Trung Quốc phải hết sức gắng gỏi, khống chế các vấn đề tồn đọng và nhân rộng
thành tựu để đảm bảo mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.

Cơng trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng nước ngoài:
Trải qua hơn 40 năm cải cách mở cửa, mặc dù Trung Quốc đã đạt được
nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có phát triển con người tồn diện,
tuy nhiên, phát triển con người toàn diện ở Trung Quốc hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế, vẫn tồn tại sự khác biệt tương đối lớn giữa thực trạng với mục tiêu phát
triển của con người theo tư tưởng của Mác và Ăng-ghen; cịn rất nhiều vấn đề phải
hồn thiện trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để tạo ra cơ hội và
không gian cho sự phát triển tự do, tồn diện của con người. Có thể kể đến các
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu đề cập đến hạn chế trong phát triển con người toàn
diện ở Trung Quốc sau đây:
Bài viết “Thách thức và đối sách nhằm thúc đẩy phát triển con người
toàn diện” (促进人的全面发展的挑战与对策) của tác giả Chen Shaoxu (陈绍


29
徐) đăng trên Học báo Học viện sư phạm Đường Sơn (2006). Nghiên cứu cho
rằng, vấn đề mà Trung Quốc gặp phải trong quá trình thúc đẩy phát triển con
người toàn diện là: khoảng cách thu nhập ngày càng lớn, điều kiện vật chất
phục vụ cho sự phát triển tự thân của con người khơng cân bằng; trong q trình
cải cách doanh nghiệp nhà nước, số người thất nghiệp ngày càng tăng, làm cho
một bộ phận người dân mất đi cơ hội lao động sản xuất; sự gia tăng của các sản
phẩm kém chất lượng đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mệnh của
người dân.
Tác giả Ju Bailei (鞠佰蕾) với bài viết “Nghiên cứu vấn đề phát triển con
người toàn diện ở Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay” (我国现阶段人的全面发
展问题研究) đăng trên Học báo Đại học Thanh Đảo (2014). Tác giả cho rằng trong
tiến trình lịch sử xây dựng xã hội khá giả toàn diện của Trung Quốc, trong thực hiện
nhiệm vụ lịch sử vĩ đại hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, vấn đề phát triển con người
toàn diện vẫn chưa được coi trọng một cách đầy đủ; tố chất văn minh, trình độ đạo
đức của nhân dân Trung Quốc vẫn cần được nâng lên so với mức độ phát triển kinh

tế; cơ cấu về nhu cầu, quan hệ giao tiếp, cơ cấu kỹ năng của người dân cũng cần được
hoàn thiện hơn nữa, đặc biệt sức khỏe và tính mệnh của con người càng cần được bảo
đảm.
Tác giả Zhang Lipeng (张立鹏) với bài viết “Nghiên cứu những nhân tố
xã hội kìm hãm sự phát triển tồn diện của con người Trung Quốc đương đại”
(当代中国人的全案发展社会制约因素研究), đăng trên Tạp chí Phía trước
(2014). Bài viết chỉ ra những nhân tố xã hội kìm hãm sự phát triển tồn diện
của con người Trung Quốc đương đại bao gồm: giai đoạn con người phụ thuộc
vào vật chất chưa kết thúc, giai đoạn phát triển tự do hài hịa chưa hình thành,
điều kiện sản xuất xã hội kiểu mới chưa hoàn toàn được xác lập. Nguyên nhân
là do Trung Quốc hiện nay và một thời gian dài sắp tới vẫn ở giai đoạn đầu của
chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên trong thực tiễn xã hội vẫn còn hiện tượng theo đuổi
vật chất mà xem nhẹ sự phát triển toàn diện của con người, xa rời ý nghĩa bản
chất của “quan điểm phát triển khoa học” mà cốt lõi là lấy con người làm gốc.


30
Tác giả cho rằng hiện tượng này vừa có nguyên nhân khách quan là do hạn chế
của yếu tố sản xuất vật chất xã hội trong quá trình phát triển, cũng có nguyên
nhân chủ quan là do nhân tố khác biệt của mỗi cá thể.
Bài viết “Nghiên cứu vấn đề phát triển con người tồn diện trong phân cơng
xã hội hiện nay” (当代社会分工中人的全面发展问题探索) của tác giả Liu
Yanxin (刘艳新), Tạp chí Nghiên cứu lý luận (2016). Tác giả xuất phát từ góc độ
phân cơng trong xã hội đương đại để chỉ ra những tồn tại trong phát triển con
người toàn diện ở xã hội đương đại. Nghiên cứu cho rằng, phân công xã hội thúc
đẩy sự phát triển của lịch sử nhân loại, sự phát triển toàn diện của con người in
đậm trong dấu tích của phân cơng xã hội; trước phân công xã hội phức tạp và mới
mẻ hiện nay, sự phát triển toàn diện của con người phải đối mặt với những vấn đề
mới. Các đặc điểm mới đa dạng, phức tạp của phân công xã hội hiện nay khiến sự
phát triển toàn diện của con người gặp phải những vấn đề khó khăn như: sự phát

triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật ảnh hưởng đến đời sống con người,
khoảng cách giàu nghèo lớn, sự khác biệt về nghề nghiệp, sự khác biệt giữa các
nhóm người.
1.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CƠNG TRÌNH VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những kết quả đạt được
Một là, trong lĩnh vực nghiên cứu về quan điểm triết học Mác về phát triển con
người toàn diện, các cơng trình đã phân tích được nội dung của phát triển con người
toàn diện theo quan điểm chủ nghĩa Mác, cụ thể là: (1) Phát triển con người toàn diện
là phát triển toàn diện hoạt động, nhu cầu và năng lực của con người. (2) Phát triển con
người tồn diện là phát triển tồn diện cá tính của con người. (3) Phát triển con người
toàn diện là phát triển toàn diện quan hệ xã hội của con người.
Hai là, những cơng trình nghiên cứu liên quan đến quan điểm của Đảng Cộng
sản Trung Quốc về phát triển con người toàn diện đã thể hiện được những nội dung
chủ yếu sau: (1) Các cơng trình đã nêu được một số luận điểm chủ yếu về phát triển
con người toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua quan điểm của các


×