Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Trình bày chủ trương xây dựng Đảng trong HTCT thời kỳ đổi mới. Để phấn đấu trở thành một người đảng viên, anh (chị) cần phải làm gì?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.31 KB, 19 trang )

Câu hỏi tiểu luận: “Trình bày chủ trương xây dựng Đảng
trong HTCT thời kỳ đổi mới. Để phấn đấu trở thành một
người đảng viên, anh (chị) cần phải làm gì?”


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU................................................................................................ 1
NỘI DUNG............................................................................................ 2
1. Chủ trương xây dựng Đảng trong HTCT thời kỳ đổi mới...........2
2. Để phấn đấu trở thành một người đảng viên, anh (chị) cần phải
làm gì?................................................................................................. 7
2.1. Tại sao nhân dân ta ln mong muốn được vào Đảng?...............7
2.2. Để trở thành Đảng viên, cần phải phấn đấu như nào?..................8
2.3. Hướng phấn đấu của bản thân để trở thành Đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam...................................................................................... 9
KẾT LUẬN.......................................................................................... 11

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009, 2011, 2021), Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. />3. />


MỞ ĐẦU
Hệ thống chính trị là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng
phái, đoàn thể xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia, và mối quan
hệ giữa các lực lượng đó, chỉ phối sự tồn tại và phát triển đời sống chính
trị của một quốc gia, thể hiện bản chất của chế độ chính trị của quốc gia,
con đường phát triển của xã hội.
Chính trị là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, vì vậy các Vấn


đề về hệ thống chính trị cũng cần được xem xét trong mối quan hệ chung
giữa chính trị với kinh tế, văn hố và xã hội. Theo đó, ứng với mỗi mơ
hình kinh tế - xã hội, tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
có một mơ hình tổ chức chính trị và dân chủ tương ứng. Ở nước ta, mơ
hình kinh tế - xã hội trước thời kì đổi mới được đặc trưng bằng cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, bao cấp và tương ứng với nó là hệ thống chun
chính vơ sản. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng chủ xã
hội chủ nghĩa với những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể địi hỏi phải có
một hệ thống chính trị với những đặc trưng mới, phù hợp với yêu cầu
phát triển của kinh tế - xã hội trong tình hình mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay, nhất là trong thời
kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, coi đây
là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta,
chế độ ta. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, khơng có nhiệm kỳ nào
Trung ương Đảng khơng có nghị quyết về xây dựng Đảng. Từ trước đến
nay, Đảng luôn phấn đấu, rèn luyện xứng đáng là đội tiên phong và đại
biểu trung thành của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; các tổ chức
của Ðảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật; ln gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
của mình.
Do vậy, em chọn chủ đề "Trình bày chủ trương xây dựng Đảng

trong HTCT thời kỳ đổi mới. Để phấn đấu trở thành một người đảng
1


viên, anh (chị) cần phải làm gì" làm đề tài tiểu luận, hy vọng góp phần làm rõ
những vấn đề lý luận, thực tiễn trong chủ trương xây dựng đường lối phát triển Đảng

ta trong HTCT thời kì đổi mới và những yêu cầu, cách phấn đấu để trở thành một đảng
viên mẫu mực đứng trong hàng ngũ của Đảng.

2


NỘI DUNG
1. Chủ trương xây dựng Đảng trong HTCT thời kỳ đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy
nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp, ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của nhà nước này, đảng viên là những
người nắm giữ các cương vị chủ chốt trong các cơ quan lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam.Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng
lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng quan tâm xây
dựng củng cố Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã
hội, phát huy vai trò của các thành tố này trong quản lý, điều hành xã
hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế . Sự lãnh đạo
của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trị lãnh
đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao
sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường mối quan hệ của Đảng
với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Để bắt kịp xu thế phát triển của thế giới và phát triển đời sống nhân
dân, Đảng ta đã có những phương án:
• Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

• Đổi mới hệ thống chính trị nhằm làm cho từng thành tố và cả hệ
thống hoạt động năng động hơn, hiệu quả hơn
• Đổi mới hệ thống chính trị một cách tồn diện, đồng bộ, có kế
thừa, với bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
• Đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành trong hệ thống
chính trị với nhau và với xã hội nhằm đạt được mục tiêu đổi mới toàn
diện
3


Với mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực
hiện tốt hơn dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân; Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong
giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa; Bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Mở đầu thời kỳ đổi mới, Đại hội VI của Đảng (1986) đã nêu bốn
nội dung cần phải đổi mới trong công tác xây dựng Đảng đó là: “Đổi
mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ
cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”. Vấn đề “đổi
mới phong cách lãnh đạo và công tác” đến Đại hội VII đã được điều
chỉnh thành “đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách cơng tác”.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, ngày 20/6/1988 đã ra Nghị
quyết về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực
hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Có thể nói đây là văn kiện đầu
tiên trong thời kỳ đổi mới Đảng đề cập đến những “vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng”. Điều này cũng cho thấy, Đảng đã ngày càng quán triệt
sâu sắc quan điểm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật” trong cơng tác xây dựng Đảng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VI đã thẳng thắn thừa nhận: Sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng
và tổ chức chưa ngang tầm nhiệm vụ cách mạng; năng lực tổ chức thực

hiện của nhiều cấp ủy đảng còn yếu; đội ngũ cán bộ, đảng viên đơng
nhưng nói chung khơng mạnh; một số cán bộ, kể cả ở cấp cao, không
gương mẫu; ở nhiều nơi, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng rất yếu; các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng không
được chấp hành nghiêm túc;… Trước thực trạng đó, Trung ương
nhấn mạnh: Cần phải đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng
của Đảng; tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ; nâng
cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; tập
trung xây dựng phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mới; khắc phục
bệnh quan liêu; thực hiện chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp dành thời gian
đi cơ sở, tiếp dân, giải quyết kịp thời tại chỗ những công việc cụ thể.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989), Đảng ta
chính thức sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” và chỉ rõ:
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị là nhằm tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
4


quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chun
chính vơ sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị
hoạt động năng động và có hiệu quả hơn.
Báo cáo chính trị tại Đại hội VII (năm 1991) nhấn mạnh,
thực chất của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị
nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Nghị

quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII)
ngày 23/01/1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một buớc nền hành

chính nhấn mạnh: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nghị quyết Trung ương ba khóa VII, ngày 26/6/1992 về một
số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng đã chỉ ra một số khuyết điểm
trong công tác xây dựng Đảng như: Tổ chức và kỷ luật của Đảng lỏng
lẻo; tình trạng mất đồn kết xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi; trong
Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao
động, mất lòng tin; bệnh quan liêu xa thực tế, xa quần chúng rất nặng...
Vì vậy, “đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn; thực
hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; ngăn chặn
và khắc phục tệ vô tổ chức, vô kỷ luật, chuyên quyền trong Đảng; chấn
chỉnh hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng ở các cấp; chỉnh đốn tổ chức cơ
sở đảng, xây dựng củng cố các chi bộ theo địa bàn dân cư... Đây là một
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với
tồn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế
độ ta và Đảng ta”.
Trước yêu cầu lãnh đạo đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội VIII của Đảng (1996) khẳng
định: “Để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới,
tự chỉnh đốn. Là đảng cầm quyền, lại hoạt động trong điều kiện mới hết
sức phức tạp, Đảng ta ý thức sâu sắc về điều đó, coi đây là một quy
luật phát triển của Đảng”. Như vậy, đến Đại hội VIII, tự đổi mới, tự
chỉnh đốn đã được xem là một quy luật phát triển của Đảng. Quan điểm
5


này xuất phát từ việc Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về
trọng trách trước lịch sử, giai cấp, dân tộc và những khó khăn, thách
thức, hạn chế, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo. Để tạo ra một

chuyển biến mới trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong
nhiệm kỳ Đại hội VIII, Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết, đề ra
những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng nhằm khắc phục một
số hạn chế, yếu kém trong Đảng, đồng thời nhấn mạnh quan điểm coi
công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; quyết tâm thực hiện cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình
trong các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt từ Trung ương đến cơ
sở.
Chủ trương tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
Đại hội IX của Đảng (2001) đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là giáo dục
tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng, củng cố các tổ chức cơ
sở đảng; kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Có
thể thấy rằng, trong việc xác định các nhiệm vụ trọng tâm xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, Đại hội IX nhấn mạnh nhiệm vụ giáo dục tư tưởng
chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Nhận
thức này xuất phát từ thực trạng những yếu kém và khuyết điểm
trong công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan điểm
đề cao nhiệm vụ giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân của Đại hội IX cũng đã bao trùm các nội
dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức.
Xuất phát từ yêu cầu lãnh đạo và thực trạng công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, Đại hội X khẳng định: Phải dành nhiều công sức tạo
được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách
mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây
dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đồn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân. Đây là nhiệm
vụ then chốt, có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta. Cụ thể hóa nghị quyết của Đại hội, ngày 02/02/2008,

Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã ra Nghị quyết về nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ
6


cán bộ, đảng viên. Đây là lần đầu tiên trong thời kỳ đổi mới Trung ương
có một nghị quyết chuyên đề bàn về tổ chức cơ sở đảng. Trong Nghị
quyết này, Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém
về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của tổ
chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Ðảng với nhân dân, củng cố cơ sở chính trị, xã
hội của Đảng.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng xác định mục
tiêu, quan điểm, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở
nước ta nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Đảng ta xác định mục tiêu tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị là: “Tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi
mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân
chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, Đại hội cũng chỉ
rõ: “Cơng tác xây dựng Đảng cịn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được
khắc phục”. Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tiếp tục
bàn và ban hành Nghị quyết Trung ương 4: “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”.
Nghị quyết Trung ương 4 được viết rất ngắn gọn, nhưng chứa đựng
nhiều nội dung cơ bản và quan trọng với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là
kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống
chính trị, gắn với thực hiện tổng thể các nghị quyết khác của Đảng để

khắc phục những khuyết điểm, yếu kém kéo dài trong Đảng và tạo bước
đột phá về công tác cán bộ. Điểm mới trong nhận thức và cũng là tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt thể hiện trong Nghị quyết là kiên quyết, kiên
trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, trọng
tâm là nhận diện, giải quyết 3 vấn đề cấp bách, 4 nhóm giải pháp, trong
đó nhấn mạnh nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao
tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng
đầu.
7


Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, liên quan đến sự tồn vong của Đảng và sự sống còn
của chế độ. Đại hội đã nêu bật những kết quả quan trọng trong cơng tác
xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất là đã triển khai
và thực hiện nghiêm túc, mang lại kết quả bước đầu Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Chỉ thị số 03-CT/TW của
Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bổ sung thêm nội dung về đạo đức
trong công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết thể hiện quyết tâm chính trị
cao, mạnh mẽ của Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết
yêu cầu cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc nguy cơ,
nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp; nói đi
đơi với làm, xây đi đơi với chống; kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị
quyết, phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong
bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp và
khó lường; đất nước đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, đan xen nhiều
khó khăn, thách thức; với nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết.

Các văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã được chuẩn bị công phu, phát
huy được trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân. Chủ đề Đại hội XIII đã thể
hiện rất rõ việc nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn mối quan hệ giữa xây
dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng. Xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng được
tiến hành đồng thời và đan xen nhau; xây dựng Đảng là nhiệm vụ thường
xuyên; trọng tâm của chỉnh đốn Đảng là tập trung vào các vấn đề quan
trọng và cấp bách. Việc xử lý hài hòa giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng
sẽ đem lại kết quả tồn diện trong cơng tác xây dựng Đảng, nhất là đột
phá vào những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng
nêu rõ một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội
XIII: Tiếp tục đẩy mạnh XD, CĐĐ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị tồn diện, trong sạch, vững mạnh.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức
8


bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. Củng cố lịng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa
xây dựng, chỉnh đốn Đảng tồn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn
thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước
hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong
sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách

nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và
quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung; có uy tín cao và thật sự tiên
phong, gương mẫu, là hạt nhân đồn kết; nâng cao hiệu lực, hiệu quả
cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; thắt chặt hơn nữa mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng,
có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới; kiên quyết,
kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm
chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn; tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
mới.
2. Để phấn đấu trở thành một người đảng viên, anh (chị) cần phải
làm gì?
2.1. Tại sao nhân dân ta ln mong muốn được vào Đảng?
Khi chúng ta được kết nạp Đảng chúng ta sẽ được trở thành Đảng
Viên. Đây được xem như một niềm vinh hạnh cho gia đình, bạn bè cũng
như chính cá nhân được kết nạp Đảng. Để nước ta có nước như ngày
nay, cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, no đủ, trẻ em
được cắp sách đến trường, người lớn có cơng ăn việc làm ổn định và
được tự do vui chơi, phát triển kinh tế không thể không kể đến công lao
9


của Đảng ta, cũng những Đảng viên ưu tú đã khơng quản ngại qn mình
bảo vệ và phát triển tổ quốc.
Công tác phát triển Đảng viên là một nhiệm vụ rất quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng. Công tác phát triển Đảng viên nhằm tăng thêm
nguồn sinh lực mới cho Đảng, trẻ hóa đội ngũ Đảng viên và nhằm đảm
bảo sự kế thừa về lực lượng chính trị trong đấu tranh cách mạng. Từ khi
thành lập Đảng (ngày 3-2-1930) đến nay 91 năm, Đảng ta không ngừng

phát triển, việc phát triển đảng viên mới diễn ra thường xuyên gần như ở
tất cả các tổ chức đảng. Đó như một quy luật của sự phát triển không thể
ngừng. Dù không phải lớp đảng viên mới nào cũng vinh dự được Bác Hồ
đến thăm và động viên nhưng những lời dạy của Người về mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, về việc phấn đấu thể hiện sự tiên phong, gương mẫu
của mỗi đảng viên vẫn cịn ngun vẹn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Vì sao chúng ta vào Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không
phải! … Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục
vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Bác cịn căn dặn
nếu sợ khơng phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng
vào hay là khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ
mệnh cao cả đồn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ
nghĩa xã hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu
hái lợi lộc. Lời huấn thị của Người, đã là đảng viên, trong bất cứ thời
điểm, hoàn cảnh nào cũng đều phải tỏ tường để tu dưỡng, rèn luyện,
trưởng thành. Soi xét lại cả chặng đường lịch sử dân tộc kể từ khi có
Đảng, bao thế hệ đảng viên đã trọn đời trung thành với lý tưởng, cống
hiến, hy sinh cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Phấn đấu vào Đảng là để được đứng trong một tổ chức của những
người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vào Đảng là dấn
thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi
theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là
được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, được Đảng và nhân dân tin
cậy, yêu mến. Trong nhiều năm qua, Đảng ta phát triển được nhiều đảng
viên mới ở mọi lĩnh vực: quân nhân, công chức, viên chức, công nhân,
10



nơng dân, trí thức, sinh viên... Họ đã từng tun thệ và thực hiện tốt lời
tuyên thệ của mình khi vào Đảng, trung thành với mục tiêu lý tưởng của
Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ người đảng viên, cống hiến trọn đời mình
cho Đảng, cho nước, cho dân.
Tuy nhiên, bây giờ đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trở
lên ấm lo, hạnh phúc và đang dần chuyển mình với sự nghiệp cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì bắt đầu nảy sinh ra rất nhiều vấn
đề làm nhiễu thông tin và làm ảnh hưởng không cho đến Đảng Cộng Sản
Việt Nam ta. Có một bộ phận nhỏ những Đảng viên có sự thái hóa và
biến chất đã làm ảnh hưởng đến thanh danh, uy tín của Đảng hay những
thơng tin Đảng viên ở đâu đó bị khai trừ, bị kỷ luật hình sự,... Đây là một
trong những điều khiến cho những thế lực thù địch, phản động của nước
ta dựa vào để khiêu khích lịng dân để khiến các thông tin bị xáo nhiễu
khiến cho rất nhiều người Việt Nam ta khơng cịn tin vào Đảng.
Nhưng, nếu bạn là một người thông minh, hiểu biết bạn sẽ không
bao giờ bị những thông tin xấu làm ảnh hưởng đến suy nghĩa của mình
về Đảng. Bởi trên thực tế chúng ta có thể nhìn thấy rõ những điều mà
Đảng của chúng ta đã và đang làm để giúp cuộc sống của chúng ta trở
nên tươi đẹp hơn, ấm lo hơn. Nếu như chúng ta nhìn ở mặt tích cực thì
những gì Đảng và Nhà nước đã làm và đang thực chất vẫn tiếp nối
truyền thống, mục đích của cha ơng ta bảo vệ an tồn, an ninh quốc gia,
từng bước đưa nước ta trở thành một đất nước vững mạnh có thể sánh
vai với các cường quốc năm châu khác.
2.2. Để trở thành Đảng viên, cần phải phấn đấu như nào?
Đảng viên là những người tiên phong của giai cấp cơng nhân, ln
phấn đấu vì lợi ích của giai cấp, lợi ích của tồn dân tộc. Khơng những
thế, Đảng viên còn là những người gương mẫu trong lời nói và hành
động, góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, người vào Đảng phải
có đủ các điều kiện: Động cơ vào Đảng đúng đắn, có giác ngộ chính trị,

thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nhiệm vụ của đảng viên; hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng và phải
là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm; mỗi đảng viên phải gắn mình
11


với tổ chức đảng, coi tổ chức đảng là chỗ dựa vững chắc cho mình thực
hiện nhiệm vụ đảng viên.
Thứ nhất: Cần xác định động cơ vào đảng đúng đắn. Phấn đấu để
vào hàng ngũ của Đảng phải xuất phát từ động cơ trong sáng, xuất phát
từ ý nghĩa cống hiến, chứ không phải lợi dụng vào Đảng để tranh giành
quyền lợi, thỏa mãn tham vọng cá nhân.
Mỗi người khi phấn đấu để vào Đảng phải xem đây là một nhiệm
vụ cao cả, một nghĩa vụ một trách nhiệm để được đóng góp sức mình
nhiều hơn cho non song đất nước.
Phấn đấu vào Đảng là để được đứng trong một tổ chức của những
người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân
giầu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vào Đảng là phải dấn
thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, phấn đấu đi theo con
đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Cái được lớn nhất khi
vào Đảng là được phục vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, được
Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến.
Thứ hai: Cần phấn đấu để rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức cách mạng. Bản lĩnh chính trị thể hiện thông qua sự vững vàng,
kiên định cùng nhận thức đúng đắn, kiên định với mục tiêu, lý tưởng đã
lựa chọn.
Muốn có bản lĩnh vững cần nỗ lực học tập, rèn luyện hơn nữa, cần
biết cách kết hợp hài hịa giữa 3 lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và
lợi ích cá nhân. Song phải biết đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc lên
trên lợi ích của cá nhân, ln vững vàng trước mọi khó khăn.

Thứ ba: Cần phấn đấu nâng cao năng lực, hồn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Trong q trình là người con của đảng, người Đảng viên phải
luôn ý thức trong việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao đồng thời biết
cách phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập
giỏi
Thứ tư: Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt
động đồn thể, cơng tác xã hội. Như chúng ta đã biết truyền thống của
nhà nước ta là gắn bó mật thiết máu thịt với nhân dân, vậy nên muốn trở
thành đảng viên, phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, với bà con làng
xóm, đồng nghiệp,.. ln tơn trọng, chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau.
12


Hơn nữa trong các phong trào đoàn thể mỗi người phải nhiệt tình
tham gia sinh hoạt qua đó thể hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp
quần chúng.
Thứ năm: Tích cực tham gia xây dựng đảng cơ sở. Mỗi cá nhân
khi muốn đứng trong hàng ngũ của Đảng phải luôn ý thức trong việc
tham gia xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh thông
qua việc thực hiện đường lối chính sách, pháp luật của đảng và Nhà
nước…
2.3. Hướng phấn đấu của bản thân để trở thành Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam
- Em đã xác định cho mình động cơ vào Đảng: Đảng là tổ chức các
mạng có sứ mệnh cao cả đồn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho
độc lập và chủ nghĩa xã hội. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là
được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng
đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn mình. Động cơ vào Đảng của em là muốn góp sức mình
xây dựng đất nước ta ngày càng tốt đẹp hơn nữa.

- Để trở thành một đảng viên, em xác định bản thân phải rèn luyện
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Em quyết kiên định
mục tiêu, lý tưởng đã chọn, trong bất cứ tình huống khó khăn nào cũng
không giao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Đồng thời, em
rèn luyện cho mình tinh thần độc lập, sáng tạo. Bản thân em đã nỗ lực
học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng
tư tưởng của Đảng. Em tự rèn luyện mình qua thực tế hoạt động chính
trị, xã hội; trau dồi đạo đức cách mạng, đi đôi với chống chủ nghĩa cá
nhân. Đạo đức cách mạng cần phải tu dưỡng rèn luyện suốt đời, bởi vậy
em sẽ củng cố hàng ngày để có được phẩm chất đạo đức cách mạng
trong sáng. Em nhận thức được, trong bối cảnh ngày nay, đạo đức cách
mạng là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thốt khỏi tình trạng
kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm
chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Em quyết tâm đi
theo đường lối của Đảng: kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích tồn xã
13


hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá
nhân, ích kỷ.
- Để phấn đấu trở thành một người đảng viên, em không quên nâng
cao năng lực, hoàn thành tốt những nghiệm vụ được giao. Đối với một
sinh viên như em – còn ngồi trên ghế nhà trường, thì nhiệm vụ trọng tâm
là việc học. Em phấn đấu học tập thật tốt, hoạt động ngoại khố hăng say
và hồn thành tốt những nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó em cũng rất
coi trọng việc học tập chính trị. Đó là việc tham gia đầy đủ và có hiệu
quả các buổi sinh hoạt chính trị công dân sinh viên, tham gia lớp bồi
dưỡng nhận thức về Đảng…

KẾT LUẬN

Đất nước ta đã trải qua nhiều năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Những thành tựu đạt được có ý nghĩa lịch sử, là nền tảng quan trọng đưa
đất nước tiếp tục phát triển nhanh và toàn diện. Đồng chí Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước đã nhấn mạnh rằng, những thành tựu đó là sản phẩm kết
tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ,
liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta… Với
tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể khẳng định: Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Chúng tơi thấm thía thành quả đó và vơ cùng tự hào, tin tưởng vào
đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng; sự lãnh đạo của Đảng là sáng
14


suốt, là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến
sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của tồn Đảng,
tồn dân và tồn qn vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh". Nhìn tổng thể, qua nhiều năm đổi mới, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đồng thời cũng còn
nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung
giải quyết, khắc phục để tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền
vững hơn. Thành tựu và những kinh nghiệm bài học đúc kết từ thực tiễn
đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và
phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.
Đảng chính là niềm tin để mỗi thành viên của Đảng cố gắng chiến
đấu Cịn ở thời bình hiện nay, Đảng cũng đóng góp ý nghĩa cực kì quan
trọng. Nhờ có sự soi sáng của Đảng, chúng ta mới có được cuộc sống no
ấm như ngày hơm nay, mới đánh bại được nhiều kẻ thù nguy hiểm, to
lớn như thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Trách nhiệm dựng nước, giữ

nước là bổn phận, là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Vì vậy, hãy ln cố gắng
và phấn đấu, rèn luyện nhân cách và tư chất, trí tuệ và đạo đức của bản
thân để có thể trở thành một thành viên trong đội ngũ của Đảng trở thành
một người phục vụ cho mục tiêu chung của cả nước, chung sức góp phần
biến quê hương ta ngày một giàu mạnh và tươi đẹp!

15


16



×