Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Khóa luận Pháp luật về đánh giá tác động môi trường và liên hệ thực tế tới sự cố môi trường Formosa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.29 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------

TRẦN HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ LIÊN
HỆ THỰC TẾ TỚI SỰ CỐ MƠI TRƯỜNG FORMOSA

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L

HÀ NỘI, 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------

TRẦN HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ LIÊN
HỆ THỰC TẾ TỚI SỰ CỐ MƠI TRƯỜNG FORMOSA

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L



NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
Tiến sĩ Lê Kim Nguyệt
Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ
Khóa luận tốt nghiệp.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Huyền Trang


MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ...........................................................................................1
2.Tình hình nghiên cứu ...............................................................................................2
3.Mục đích nghiên cứu ................................................................................................3
4.Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................3
5.Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................4
6.Bố cục .......................................................................................................................4

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ
TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG ............................................................................................... 5
1.1.

Sự ra đời và phát triển của đánh giá tác động môi trường trên thế giới và ở

Việt Nam .....................................................................................................................5
1.2.

Khái niệm đánh giá tác động môi trường .........................................................6

1.3.

Khái niệm pháp luật đánh giá tác động môi trường..........................................9

1.4.

Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia trên thế giới

và gợi mở cho Việt Nam ...........................................................................................12
1.4.1.

Pháp luật đánh giá tác động môi trường Nhật Bản ...............................12

1.4.2.

Pháp luật đánh giá tác động môi trường Trung Quốc...........................14

1.4.3.


Gợi mở cho Việt Nam...........................................................................17

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA
................................................................................................................................................... 19
2.1.

Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật đánh giá tác động môi trường

ở Việt Nam ................................................................................................................19
2.1.1.

Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn trước

năm 1986 ............................................................................................................19

2.2.

2.1.2.

Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn sau năm

1986

...............................................................................................................20

Nội dung điều chỉnh của pháp luật đánh giá tác động môi trường .................25
2.2.1.

Đối tượng thực hiện đánh giá tác động môi trường ..............................25


2.2.2.

Quy định về lập báo cáo đánh giá tác động môi trường .......................26


2.2.3.

Thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường .............32

2.2.4.

Các nội dung bảo vệ môi trường sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt .
...............................................................................................................37

2.2.5.
2.3.

Xử lý vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam ...41

Liên hệ tới sự cố môi trường Formosa ............................................................45
2.3.1.

Tóm lược sự cố mơi trường Formosa ...................................................46

2.3.2.

Vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường của Formosa ...........47

2.3.3.


Xử lý vi phạm trong sự cố môi trường Formosa ..................................54

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
MÔI TRƯỜNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI Ở VIỆT
NAM......................................................................................................................................... 58
3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam58

3.2.

Các giải pháp hồn thiện pháp luật đánh giá tác động mơi trường ở Việt Nam .
.........................................................................................................................61
3.2.1.

Xây dựng và ban hành các quy định về đảm bảo chất lượng của báo

cáo đánh giá tác động mơi trường ......................................................................61
3.2.2.

Hồn thiện quy định pháp luật về tham vấn cộng đồng .......................62

3.2.3.

Quy định về cơ chế hậu kiểm rõ ràng, chặt chẽ....................................64

3.2.4.

Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm của các chủ thể tham gia


thực hiện đánh giá tác động mơi trường .............................................................65
3.2.5.

Hồn thiện pháp luật với quy định hai bước đánh giá tác động môi

trường cho dự án đầu tư .....................................................................................67
3.3.

Các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đánh giá tác động môi

trường ở Việt Nam ....................................................................................................68
3.3.1.

Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đánh giá tác

động môi trường .................................................................................................69
3.3.2.

Nâng cao năng lực chuyên môn của các chủ thể thực hiện đánh giá tác

động môi trường .................................................................................................70
3.3.3.

Công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường ................................70

3.3.4.

Tăng mức xử phạt vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường ...72


KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 75


DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐTM

: Đánh giá tác động môi trường

FDI

: Vốn đầu tư nước ngồi

TN&MT

: Tài ngun và Mơi trường

UBND

: Ủy ban nhân dân


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Mơi trường nước ta đang chịu nhiều áp lực lớn từ các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội trong nước, sức ép cạnh tranh của quá trình hội nhập quốc tế cùng
các tác động xuyên biên giới. Hàng năm, có hơn 2.000 dự án đầu tư thuộc đối tượng
phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nếu không được đánh giá một cách
đầy đủ, toàn diện và thực hiện các biện pháp phịng ngừa, kiểm sốt hiệu quả thì sẽ
là những nguy cơ rất lớn đến môi trường.

Với quy hoạch phát triển không ngừng của các ngành trong xã hội như công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thủy sản, du lịch – dịch vụ, đơ thị hóa,… nhằm
đáp ứng nhu cầu con người theo sự giao tăng dân số mà không chú ý đúng mực đến
công tác bảo vệ môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, suy giảm tài
ngun sinh vật, thay đổi khí hậu tồn cầu,… ngày càng nghiêm trọng. Để quản lý
môi trường được chặt chẽ hơn, ĐTM đã được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, ĐTM cũng được đưa vào trong Luật Bảo
vệ môi trường và xem đây là một trong những nội dung cần thiết phải có trong việc
xem xét phê duyệt cho phép dự án thực thi. Đây không những là công cụ quản lý
mơi trường mà cịn là một nội dung giúp quy hoạch dự án thân thiện với môi trường
và là một phần của chu trình dự án. ĐTM được kỳ vọng là công cụ hiệu quả để hạn
chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực mà con người gây ra cho môi trường.
Tuy nhiên, ĐTM đối với Việt Nam vẫn còn chưa thật sự đem lại hiệu quả
như đúng bản chất của nó. Các vấn đề mơi trường ở Việt Nam hiện vẫn đang rất
đáng báo động. Pháp luật ĐTM được áp dụng vào thực tiễn chưa cao, chưa thật sự
hiệu quả. Tình trạng các dự án khơng thực hiện ĐTM hay thực hiện không đúng với
ĐTM đã được phê duyệt còn rất phổ biến. Nhận thức về ĐTM đối với các chủ dự án
còn yếu, họ vẫn coi thường vai trò của ĐTM, chỉ chú trọng đến lợi ích kinh tế mà
không màng đến vấn đề môi trường, đến việc đảm bảo sự phát triển bền vững. Hạn
chế còn ở các những người mang vai trò quản lý, thẩm định, phê duyệt báo cáo
ĐTM, một bộ phận có trình độ chun mơn hay ý thức, trách nhiệm với nhiệm vụ
của mình chưa cao. Sự cố mơi trường Formosa là một vụ việc điển hình về mơi
trường của Việt Nam từ năm 2016, nhưng đến nay vẫn được coi là vụ việc nổi cộm
1


và nhận được sự quan tâm rất lớn của mọi người dân. Formosa gây thiệt hại nghiêm
trọng với môi trường biển, môi trường đất,… gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh
hưởng lớn đến đời sống của người dân tại các tỉnh miền Trung. Hiện nay, sự cố cá
chết hàng loạt ở các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra về cơ bản đã được giải

quyết.Formosa cùng các cơ quan nhà nước đã tích cực khắc phục sự cố với kết quả
là các vấn đề trước mắt như đời sống người dân đã ổn định trở lại, môi trường phần
nào được khơi phục. Tuy nhiên, cịn những tác hại lâu dài đối với mơi trường biển
thì vẫn cần phải tiếp tục được quan tâm, giải quyết trong cả quá trình về sau.
Formosa gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho mơi trường do nhiều ngun nhân
và có lẽ ngay từ giai đoạn cấp phép đầu tư đã khiến nhiều người nghi ngờ, rồi trong
cả quá trình lên kế hoạch, triển khai, vận hành đều có nhiều điểm nghi vấn. Trong
phạm vi Khóa luận tốt nghiệp tác giả sẽ tập trung làm rõ những vi phạm trong hoạt
động ĐTM của Formosa. Theo tác giả, ĐTM chính là cơ chế quan trọng nhất để
quản lý vấn đề môi trường mà dự án Formosa tác động tới.
Như vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và tìm hiểu
thực tiễn áp dụng pháp luật về ĐTM ở Việt Nam; cùngcác vi phạm trong ĐTM của
sự cố môi trường tại các tỉnh miền Trung do Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa
Hà Tĩnh gây ra; từ đó, tìm ra đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật và một số
biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về ĐTM ở Việt Nam, góp phần vào
việc tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước về môi trường là lý do luận
chứng cho việc tôi quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về đánh giá tác động
môi trường và liên hệ thực tế tới sự cố môi trường Formosa” làm Khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
ĐTM là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các chuyên gia, nhà nghiên
cứu. Tính tới thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu về pháp
luật ĐTM tại Việt Nam, chủ yếu là thời kỳ Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cịn
hiệu lực và mới chỉ có một số ít các bài nghiên cứu theo luật Bảo vệ môi trường
hiện hành. Tuy vậy, các cơng trình nghiên cứuđó đều chứa đựng những vấn đề bản
chất và lý luận có giá trị khoa học pháp lý cao nên vẫn là một trong những cơng cụ
hữu hiệu để tìm hiểu, nghiên cứu, hồn thiện pháp luật ĐTM ở Việt Nam.
Các cơng trình nghiên cứu về đánh giá tác động môi trường được thực hiện
2



tại Việt Nam, tiêu biểu như: Lê Sơn Hải (2000), “Những vấn đềpháp lý của việc
đánh giá tác động môi trường của các dựán đầu tư”, Luận án Tiến sĩ; Phạm Hữu
Nghị (2000), “Những vấn đề đặt ra với pháp luật về đánh giá tác động môi trường
và các giải pháp hồn thiện”, Tạp chí Luật học, số 5/2000; Phạm Ngọc Hồ - Hoàng
Xuân Cơ (2001), “Đánh giá tác động môi trường”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia
Hà Nội; Vũ Duyên Thủy (2003), “Bàn về hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác
động mơi trường”, Tạp chí Luật học, số 2/2003; Lê Hồng (2004), “Thực trạng và
phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về đánh giá tác động
mơi trường”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; Trần Thị Quang
Hồng, Trường Hồng Quang (2011), “Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động
mơi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật học, số 6/2011; Chu Thế Quyền
(2013), “Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Lê Thanh Tùng
(2013), “Pháp luật về đánh giá tác động môi trường trong hoạt động đầu tư ở Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;…Một số
các cơng trình khoa học mới có nghiên cứu đến pháp luật ĐTM ở Việt Nam như: Lê
Kim Nguyệt (2018), “Pháp luật môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học Xã hội Việt Nam số 3-2018; PGS.TS Lê Trình (2015), “Tài liệu đào tạo về
Đánh giá tác động môi trường và xã hội”, Ngân hàng Thế giới.
Bên cạnh đó, cịn khá nhiều bài đăng trên các tạp chí điện tử, những tiểu luận
sinh viên,… nghiên cứu và đề cập tới vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Khái lược các vấn đề liên quan đến ĐTM; thực trạng áp dụng pháp luật ĐTM
ở Việt Nam hiện nay; phân tích, đánh giá sai phạm liên quan đến ĐTM trong sự cố
môi trường Formosa; từ đó đưa ra đề xuất, quan điểm nhằm hồn thiện pháp luật
ĐTM ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 và một số văn bản dưới luật điều chỉnh hoạt động ĐTM ở Việt

Nam hiện nay. Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo nội dung các quy định pháp luật
khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam hay các bải nghiên cứu, đánh giá của các
chuyên gia trong lĩnh vực môi trường liên quan đến ĐTM.
3


5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
phương pháp so sánh pháp luật, hệ thống, phân tích, tổng hợp, mơ hình hoá và tham
khảo những báo cáo tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các kết quả của các cơ quan quản lý nhà nước về
môi trường và hoạt động đầu tư (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư), các chuyên gia độc lập,…
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được kết cấu gồm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật đánh giá tác động môi
trường;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt
Nam và liên hệ tới sự cố mơi trường Formosa;
Chương 3: Giải pháp hồn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trườngvà
Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi ở Việt Nam.

4


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC
ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1.1. Sự ra đời và phát triển của đánh giá tác động môi trường trên thế giới

và ở Việt Nam
Đánh giá tác động môi trường đã được hình thành từ rất lâu trên thế giới, bắt
đầu từ nhận thức của con người về vai trò của môi trường, tác hại của ô nhiễm môi
trường và khởi đầu là ở Hoa Kỳ từ những năm 60 của thế kỷ XX. Con người dần
quan tâm đến tác hại của các dự án, cơng trình đến mơi trường, từ đó, yêu cầu đặt ra
là cần phải có một quá trình nghiên cứu để đưa ra các dự báo, đánh giá về tác động
tích cực và tiêu cực của một hoạt động nào đó đến mơi trường, kèm theo đó là
phương án, biện pháp để duy trì, phát triển các tác động tích cực và phịng ngừa,
hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình triển khai, thực hiện hoạt động, dự án.
Và đến năm 1969 dưới thời Tổng thống Richard Nixon, ĐTM đã chính thức được
đưa vào Pháp luật môi trường của Hoa Kỳ, cụ thể là trong Đạo luật Chính sách mơi
trường quốc gia (NEPA) - Chính sách quy định chính quyền liên bang phải tổ chức
nghiên cứu các tác động đến môi trường ở mức dài hạn khi họ muốn tu chỉnh hay
cho phép xây dựng một cơng trình nào đó. Có thể nói đây là một bước tiến quan
trọng đánh dấu tầm quan trọng của việc bảo vệ mơi trường của Hoa Kỳ cũng như
tồn thế giới. Từ đây, công tác ĐTM dần lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, các
quốc gia nhận thức được các vấn đề mơi trường và vai trị của ĐTM trong hoạt
động phát triển bền vững của mình.
Như vậy, với sự ra đời của Đạo luật Chính sách mơi trường của Hoa Kỳ, mục
tiêu, ý nghĩa, thủ tục thi hànhĐTM đã được xác định bằng văn bản. Hệ thống pháp
lý cùng với các cơ quan quản lý, điều hành được ban hành và thành lập đảm bảo
cho việc thực hiện ĐTM nhanh chóng đi vào nề nếp[22, Tr.22].
Tiếp sau đó là hàng loạt các quốc gia khác như Nhật Bản, Hồng Kông,
Singapore,…. đã yêu cầu các dự án cần thực hiện đánh ĐTM trước khi triển khai
thực hiên dự án.
Cho đến hiện tại, hầu hết các nước phát triển và đang phát triển đã áp dụng
hoạt độngĐTM. Việt Nam cũng đã bắt đầu được tiếp cận ĐTM vào năm 1985 chính
5



thức quy định về ĐTM trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993. Bên cạnh đó, các
thể chế - tổ chức quốc tế cũng rất quan tâm đến công tác ĐTM, như: Chương trình
mơi trường Liên hợp quốc (UNEP), Chương trình phát triển Liên hợp quốc
(UNDP), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Cơ quan
phát triển quốc tế của Mỹ (USAID), Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA), Cơ
quân phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), Cơ quan phát triển quốc tế Nhật Bản
(JICA),…[29, tr.3]
Tại Việt Nam, ĐTM được biết đến vào những năm 80 của thế kỉ trước thông
qua các hội thảo khoa học và các khóa học. Sớm nhận thức được vấn đề mơi trường,
Nhà nước ta thời kỳ đó đã rất khuyến khích, tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tiếp cận vấn đề ĐTM. Tiêu biểu là một nhóm các nhà khoa học Việt Nam
đã trực tiếp đến Mỹ để nghiên cứu về luật, chính sách mơi trường và cụ thể là về
Đánh giá tác động môi trường. Trong giai đoạn 1987 – 1990, Nhà nước đã đầu tư
vào chương trình điều tra cơ bản và được xem như cơng tác kiểm tra hiện trạng mơi
trường. Đó là các chương trình điều tra vùng Tây Nguyên, vùng ĐBSCL, Quảng
Ninh,…Sau năm 1990, mặc dù Luật Môi trường Việt Nam chưa thiết lập thì Nhà
nước đã yêu cầu một số dự án phải có báo cáo ĐTM như: Cơng trình xây dựng Nhà
máy Giấy Bãi Bằng, cơng trình Thuỷ lợi Thạch Nham, cơng trình Thuỷ điện Trị An,
Nhà máy lọc dầu Thành Tuy Hạ. Một số tổ chức quản lý Nhà nước như Cục Môi
trường, Sở Khoa học Công Nghệ và Môi trường, các trung tâm, Viện Môi trường
cũng đã được tập huấn công tác tư vấn cho lập báo cáo ĐTM và tổ chức thẩm định
các báo cáo ĐTM. Và đến năm 1993 Việt Nam chính thức đưa các quy định về
đánh giá tác động môi trường vào Luật Bảo vệ mơi trường.
Có thể thấy rằng ĐTM từ lâu đã được con người quan tâm, chú trọng tới như
là một trong những điều kiện tiên quyết để hạn chế tối đa tác động xấu tới môi
trường khi thực hiện các dự án, hoạt động phát triển kinh tế. Để từ đó, nhiều quốc
gia trên thế giới đều đã đưa ĐTM vào hệ thống pháp luật quốc gia, trở thành một
giai đoạn, thủ tục phổ biến, được ứng dụng rộng rãi để góp phần thiết thực bảo vệ
mơi trường của mỗi quốc gia và rộng hơn là cho toàn cầu.
1.2. Khái niệm đánh giá tác động môi trường

Đánh giá tác động môi trường – tiếng Anh là Environment Impact
Assessment (EIA) là một hoạt động phổ biến ở hầu hết các quốc gia. Mỗi quốc gia,
6


tổ chức lại đưa ra một định nghĩa về ĐTM khác nhau. Những định nghĩa này tuy có
nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau nhưng đều nêu lên điểm căn bản của ĐTM
là đánh giá, dự báo các tác động của dự án tới môi trường và đề xuất các biện pháp
giảm thiểu các tác động tiêu cực chủ yếu của dự án. Một số định nghĩa tiêu biểu
vềĐTM như:
Thứ nhất, Theo Tổ chức Kinh tế Xã hội châu Á – Thái Bình Dương
(ESCAP) thì: “ĐTM bao gồm ba thành phần: Xác định, dự báo và đánh giá tác động
của một dự án, một chính sách đến mơi trường”.
Thứ hai, Tổ chức quốc tế về Đánh giá tác động môi trường (IAIA) đưa ra
định nghĩa về việc ĐTM gồm các cơng việc như “xác định, dự đốn, đánh giá và
giảm thiểu các ảnh hưởng của việc phát triển dự án đến các yếu tố sinh học, xã hội
và các yếu tố liên quan khác trước khi đưa ra quyết định quan trọng và thực hiện
những cam kết”;
Thứ ba, Theo GS.Lê Thạc Cán (1994) – một trong những người đầu tiên
nghiên cứu chuyên sâu về ĐTM ở Việt Nam khái lược rằng: “ĐTM của một hoạt
động phát triển kinh tế xã hội là xác định, phân tích, dự báo những tác động lợi và
hại, trước mắt và lâu dài của việc thực hiện hoạt động đó đối với tài nguyên thiên
nhiên và chất lượng môi trường sống của con người. Trên cơ sở đó đề xuất các biện
pháp phịng tránh, khắc phục hoặc làm giảm nhẹ các tác động tiêu cực của dự án đối
với mơi trường”.
Thứ tư, Chương trình Mơi trường Liên hợp quốc (UNEP) đưa ra định nghĩa
ĐTM như sau: “Đánh giá tác động môi trường là một quá trình nghiên cứu được sử
dụng để dự báo những hiệu quả môi trường của một dự án phát triển quan trọng dự
kiến sẽ thực hiện trên thực tế”.
Và theo Luật Bảo vệ mơi trường năm 2014 của nước Cộng hịa Xã hội Chủ

nghĩa Việt Nam: “Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động
đến mơi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi
triển khai dự án đó”.
ĐTM là một q trình, trong đó người thực hiện phải tiến hành nghiên cứu,
dự báo, đánh giá các ảnh hưởng, tác động của dự án đó đến mơi trường, để từ đó
đưa ra những biện pháp, phương án nhằm hạn chế, giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng
xấu đến môi trường; đề xuất những ý kiến, lựa chọn tối ưu để dự án có thể phê
7


duyệt, được triển khai mà không gây ra những áp lực, hậu quả nghiêm trọng cho
môi trường.
Bất kỳ một hoạt động phát triển nào của con người cũng có thể gây những
ảnh hưởng lớn hay nhỏ đến mơi trường. Vì thế, những ảnh hưởng này cần phải được
quan tâm, chú trọng, định hướng ngay từ đầu. Tác động tới môi trường chính là vấn
đề cốt lõi mà người quyết định cấp phép hoạt động dự án, chủ đầu tư dự án cần
quan tâm. Điều quan trọng để dự án được triển khai, hoạt động, đó là ảnh hưởng
gây ra cho môi trường là không quá nghiêm trọng, không vượt mức cho phép, phải
đảm bảo có thể khắc phục, hạn chế ảnh hưởng đó. Một dự án dù đem lại hiệu quả
kinh tế cao nhưng tác động tiêu cực tới môi trường là rất nghiêm trọng thì sẽ khơng
thể được phê duyệt cho triển khai. Bởi môi trường là một yếu tố cực quan trọng, là
một yếu tố thuộc về tự nhiên, khó có thể phục hồi, những hậu quả gây ra với môi
trường cũng sẽ tác động xấu tới sự sống của con người và các sinh vật khác. ĐTM
là một cơng cụ giúp phịng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng xấu tới môi trường
và đây là công cụ lồng ghép trong q trình kế hoạch hố về mơi trường. Thực hiện
ĐTM là cần phải xem xét tất cả những ảnh hưởng đối với sức khoẻ con người, hệ
sinh thái (bao gồm thực vật và động vật), khí hậu và khí quyển. Hoạt động ĐTM
phải đảm bảo rằng tất cả những hậu quả tới môi trường cần phải được xem xét trong
suốt quá trình thiết kế, thực hiện và vận hành của dự án. Vì thế ĐTM như một công
cụ để làm rào chắn, chọn lọc những dự án đủ tiêu chuẩn, dự án an toàn được phép

triển khai hoạt động, cũng như một bản cam kết tuân thủ công tác bảo vệ môi
trường khi dự án được đưa vào hoạt động.
Chủ dự án có nghĩa vụ thực hiện quá trình nghiên cứu, đánh giá khả năng tác
động đến môi trường của dự án để đề xuất giải pháp giảm thiểu các tác động đó.
Khi chủ dự án khơng thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ sẽ phải chịu các
chế tài xử phạt theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm ở đây không chỉ thuộc về
chủ dự án, mà là cả các cơ quan quản lý có thẩm quyền. ĐTM bản chất là nghĩa vụ
pháp lý mà các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đặt ra đối với dự án nhằm
bảo vệ môi trường.
ĐTM được đặt ra nhằm đảm bảo cân đối giữa sự phát triển kinh tế - xã hội
với việc bảo vệ mơi trường, mục đích lớn nhất là tạo ra sự phát triển bền vững. Cụ
thể: (1) ĐTM cung cấp một quy trình xem xét tất cả các tác động đến môi trường
8


của các dự án; tạo ra một lưới lọc các dự án đủ tiêu chuẩn; hạn chế việc quyết định
bừa bãi, thiếu khách quan trong quá trình phê duyệt dự án; (2) ĐTM khi được đưa
ra tham vấn, thẩm định là một phương thức để chủ dự án có thể nhận được những ý
kiến đóng góp cho q trình thực hiện dự án, để khắc phục, bổ sung cho những giải
pháp mà chủ dự án đã đưa ra; (3) ĐTM góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cũng như chủ dự án trong cơng tác
bảo vệ mơi trường, góp phần nâng cao mối quan hệ cộng đồng và đảm bảo hiệu quả
đầu tư; (4) ĐTM góp phần ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các chủ dự án, của cơ
quan quản lý nhà nước và các chủ thể khác. Trước tiên là trách nhiệm nghiên cứu,
đánh giá các tác động tới môi trường; sau là trách nhiệm thực hiệnbáo cáo ĐTM đã
được phê duyệt, và rồi có trách nhiệm theo dõi, sửa đổi báo cáo ĐTM cho phù hợp
với từng giai đoạn của dự án, nâng cao các biện pháp giảm thiểu tác động xấu đến
môi trường, cuối cùng là trách nhiệm kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện nghiêm
túc báo cáo ĐTM, bảo đảm sự an toàn của môi trường. ĐTM như một bản cam kết
của chủ dự án trong việc thực hiện những hoạt động, biện pháp đúng như những gì

đã đưa ra, từ đó làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết những
vi phạm gây ảnh hưởng xấu tới mơi trường.
ĐTM với vai trị là cơng cụ quản lý môi trường, trọng tâm trong việc đảm
bảo sự phát triển bền vững, cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi
trường. ĐTM là cơ chế kiểm tra và giám sát quá trình triển khai, thực hiện dự án
trên khía cạnh mơi trường. ĐTM là cho thấy trách nhiệm từ nhiều phía: chủ dự án,
cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực môi trường và cộng đồng tham vấn cho Báo
cáo ĐTM. ĐTM giúp cảnh báo những tác động xấu phát sinh từ dự án tới mơi
trường để rồi từ đó đề ra những biện pháp hạn chế tối đa những tác động xấu đó.
Có thể thấy, ĐTM mang ý nghĩa to lớn trong việc phê duyệt dự án một cách
nhanh chóng, thuận lợi và đúng hướng mà vẫn đảm bảo lợi ích kinh tế hài hịa với vấn đề
mơi trường; là bước khởi đầu cho quá trình thực hiện một dự án; là cơ sở tạo nên yếu tố
phát triển bền vững trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy mà ĐTM ngày
càng được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, nghiên cứu và phát triển.
1.3. Khái niệm pháp luật đánh giá tác động môi trường
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, mọi người có nghĩa vụ phải tuân theo các quy tắc đó. Pháp luật có giá trị
9


ràng buộc trong phạm vi lãnh thổ và được bảo đảm thực thi bởi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền bằng việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế và chế tài [33, pg.6].
Pháp luật góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đảm bảo xã hội phát triển một
cách ổn định có kiểm sốt, là cơng cụ của nhà nước để quản lý, duy trì trật tự xã hội.
ĐTM là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu về môi trường, để công cụ này
phát huy tác dụng cũng như được đảm bảo thực hiện đòi hỏi cần có sự điều chỉnh
của Nhà nước. Pháp luật về ĐTM ra đời với mục tiêu đó. Pháp luật ĐTM là hệ
thống các quy tắc do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nhằm quản lý các
hoạt động liên quan đến ĐTM. Pháp luật ĐTM kiểm soát tác nhân gây ô nhiễm
hoặc đe dọa gây ô nhiễm môi trường từ hoạt động đầu tư xây dựng các dự án phát

triển kinh tế - xã hội. Pháp luật ĐTM điều tiết hành vi của các chủ thể liên quan đến
hoạt động ĐTM, định hướng hoạt động ĐTM diễn ra ổn định, đảm bảo đạt được
mục tiêu của ĐTM đối với sự phát triển bền vững, đảm bảo hài hòa giữa phát triển
kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường của quốc gia và rộng hơn là của toàn thế giới.
Pháp luật ĐTM thể hiện một số vai trò chủ đạo như:
Pháp luật Đánh giá tác động môi trường quy định quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể có liên quan đến hoạt động đánh giá tác động môi trường
Các chủ thể có liên quan đến hoạt động ĐTM bao gồm: cơ quan quản lý nhà
nước;chủ dự án; tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM; cộng đồng dân cư, cá nhân có
liên quan tới dự án, chịu tác động bởi dự án. Pháp luật ĐTM sẽ thực hiện nhiệm vụ
quy định quyền hạn, nghĩa vụ của các chủ thể này trong hoạt động ĐTM.
Đối với chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ĐTM chính là các
cơ quan có thẩm quyền tham vấn, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM; các cơ quan
có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện báo cáo ĐTM, thực hiện công tác
bảo vệ môi trường. Các cơ quan này hoạt động theo thể thức tổ chức gồm nhiều cá
nhân cùng hoạt động; chứ không phải đơn lẻ như một người, cá thể. Do đó, cần phải
có cơ chế quy định rõ cơ cấu tổ chức, hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
trong quá trình thực hiện ĐTM. Pháp luật ĐTM đóng vai trị thực hiện nhiệm vụ đó.
Pháp luật ĐTM quy định cụ thể cơ cấu tổ chức, thẩm quyền hoạt động của các cơ
quan nhà nước liên quan, từ đó xác định quyền, nghĩa vụ cụ thể của các cơ quan này
đối với từng khâu trong quá trình thực hiện ĐTM.
Với chủ thể khác, pháp luật ĐTM quy định quyền, nghĩa vụ trong từng giai
10


đoạn của quá trình thực hiện ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định quy tắc xử sự cho các
chủ thể trong hoạt động ĐTM; định hướng hành vi của các chủ thể theo hướng tích
cực cho mơi trường, hạn chế, loại trừ sự xâm phạm gây ảnh hưởng xấu tới môi
trường bằng việc quy định những hành vi các chủ thể phải làm, được làm.
Pháp luật là các quy tắc xử sự được nhà nước ban hành và đảm bảo thực

hiện, mang tính bắt buộc tn thủ. Do đó, pháp luật ĐTM sẽ ràng buộc trách nhiệm
của các chủ thể, các chủ thể buộc phải thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đã được
pháp luật đặt ra. Việc quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cũng có thể hiểu là
pháp luật ĐTM hướng dẫn các chủ thể thực hiện hoạt động ĐTM một cách phù hợp,
đảm bảo đem lại hiệu quả.
Pháp luật Đánh giá tác động môi trường quy định quy trình, thủ tục thực
hiện đánh giá tác động môi trường
Bất cứ một hoạt động nào để đạt hiệu quả tối ưu cũng cần phải có một quy
trình nhất định. Hoạt động ĐTM cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Để phát huy
hết tác dụng của hoạt động ĐTM thì ĐTM cần phải được thực hiện theo quy trình,
thủ tục nhất định. Thực hiện quy trình đó, các chủ thể tránh sự lãng phí thời gian,
tiền bạc, cơng sức mà lại không đưa đến hiệu quả bảo vệ môi trường như đúng mục
đích của hoạt động ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định từng giai đoạn của hoạt động
ĐTM, trong từng giai đoạn lại quy định những hành vi mà các chủ thể cần thực
hiện. Trình tự, thủ tục mà pháp luật ĐTM quy định là sự hướng dẫn, điều chỉnh để
quá trình ĐTM đạt hiệu quả.
Pháp luật đánh giá tác động môi trường là cơ sở thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm trong lĩnh vực đánh giá tác động môi trường
Pháp luật quy định việc thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động ĐTM thường
xuyên, định kỳ hay đột xuất cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành. Pháp luật ĐTM cũng quy định việc thực hiện thanh tra, kiểm tra
như thế nào; người thực hiện; quy trình, trình tự thực hiện hoạt động đó. Các cơ
quan quản lý nhà nước tuân theo pháp luật ĐTM, lấy pháp luật ĐTM là cơ sở, là
hướng dẫn trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động ĐTM.
Pháp luật ĐTM là cơ sở đối chiếu xác định vi phạm trong hoạt động ĐTM,
và cũng căn cứ vào đây để áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp với hành vi vi
phạm. Việc xử lý vi phạm được áp dụng cho mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có
11



những hành vi vi phạm các quy định của nhà nước trong lĩnh vực ĐTM.
Pháp luật ĐTM là công cụ cần thiết với mọi nhà nước, là công cụ chủ yếu để
Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình trong lĩnh vực mơi trường, cụ thể với
hoạt động ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
vào hoạt động ĐTM, là công cụ để Nhà nước kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường trong
hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò to lớn nhằm bảo đảm sự
phát triển bền vững cho quốc gia và cho toàn thế giới nên pháp luật ĐTM đã được
phần lớn các quốc gia quan tâm, hình thành và dần trở thành một ngành luật quan
trọng, không thể thiếu trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
1.4. Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia trên thế
giới và gợi mở cho Việt Nam
Tùy thuộc vào vị trí địa lý, vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội và các yếu
tố tự nhiên, con người khác mà pháp luật của mỗi quốc gia về ĐTM lại khác nhau.
Và việc áp dụng toàn bộ pháp luật của các quốc gia được đánh giá là tiên tiến, hoàn
thiện vào một quốc gia khác là điều rất khó khăn và không nên. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu trong pháp luật ĐTM của quốc gia khác
để học hỏi, rút ra bài học cho pháp luật ĐTM nước mình là một hoạt động tích cực,
cần được thúc đẩy và tạo điều kiện. Đối với pháp luật ĐTM của Việt Nam cũng
vậy, nước ta tiếp cận với pháp luật ĐTM muộn hơn nhiều nước khác, nên pháp luật
vẫn cịn hạn chế, nhiều điểm chưa thiết thực, tính khả thi chưa cao, cần phải học hỏi
một số quốc gia có pháp luật ĐTM tiến bộ như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Canada,…Hiện nay, Việt Nam có sự hợp tác về lĩnh vực môi trường với nhiều quốc
gia, với riêng lĩnh vực ĐTM thì sự hợp tác, học hỏi tiêu biểu có thể kể đến là với
Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
1.4.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Nhật Bản
Nhật Bản là một trong số những quốc gia Châu Á với hệ thống pháp luật về
ĐTM tiến bộ và phát triển hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng là quốc gia mà
Việt Nam rất quan tâm chú trọng hợp tác trong lĩnh vực kiểm sốt ơ nhiễm mơi
trường đặc biệt với loại hình dự án điện hạt nhân và khai thác mỏ[25].
Tại Nhật Bản, ĐTM được giới thiệu từ năm 1972 chỉ dành cho các công trình

cơng cộng [31, pg.2]. Đến năm 1984, Chính phủ mới quy định chính thức về thực
hiện ĐTM cho các Dự án. Luật về “Đánh giá tác động môi trường” được ban hành
12


tháng 6/1997 với mục đích thiết lập hệ thống quy trình, thủ tục thực hiện ĐTM
nhằm ngăn ngừa suy thối môi trường và thúc đẩu một xã hội bền vững [31, Pg.3].
Nhật Bản quy định 13 loại hình dự án cần lập ĐTM: đường bộ, chính trị
sơng, đường sắt, cảng hàng không, nhà máy điện, khu đổ thải, cải tạo đất, điều
chỉnh sử dụng đất, khu dân cư mới, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng
thành phố mới, tổ hợp trung tâm phân phối, phát triển đất ở và đất công nghiệp do
các tổ chức chuyên dụng. Mỗi loại hình dự án lại được phân cấp thành dự án cấp 1
và dự án cấp 2. Dự án loại 1 có quy mơ lớn hơn là các dự án buộc phải thực hiện
ĐTM và phải tuân thủ theo quy trình của Luật. Cịn các dự án cấp 2 việc tiến hành
ĐTM có thể linh động hơn, việc thực hiện ĐTM được thực hiện tùy theo phán quyết
của cơ quan có thẩm quyền cho từng dự án riêng lẻ [31, pg.4-5].
ĐTM tại Nhật Bản được thực hiện rất thận trọng trong giai đoạn nghiên cứu
lập báo cáo và giai đoạn thẩm định báo cáo ĐTM. Một báo cáo ĐTM cần trung bình
ba năm từ khi nghiên cứu đến khi được cấp phép thẩm định. Chính sự thận trọng
này giúp các dự án tại Nhật Bản hạn chế mức thấp nhất các tác động đến môi
trường tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, sự kéo dài quá trình ĐTM gây khơng ít khó
khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý môi trường do vậy đã có một số đề
xuất “hợp lý hóa/đơn giản hóa quy trình ĐTM” với một số loại hình dự án đặc thù.
Cụ thể như đối với dự án xây dựng nhà máy điện, Bộ Môi trường Nhật Bản đã cho
phép xây dựng quy trình đơn giản hóa (hợp lý hóa) với các nội dung: Rút ngắn thời
gian và rút gọn nội dung khảo sát môi trường, tận dụng tối đa số liệu/thông tin quan
trắc môi trường đối với nhà máy đã được thực hiện trong thời gian vận hành; Rút
ngắn thời gian xem xét, thẩm định báo cáo ĐTM. Với sự cải tiến này (chỉ áp dụng
đối với loại hình dự án tháo dỡ nhà máy điện) thời gian lập và thẩm định báo cáo
ĐTM chỉ cịn 1-1,5 năm [21].

Ngồi ra, một điểm rất tích cực trong hoạt động ĐTM của Nhật Bản đó khâu
tham vấn cộng đồng trong q trình lập báo cáo ĐTM. Sau khi hoàn thành khảo sát,
dự báo và đánh giá, thủ tục tiếp theo là lắng nghe ý kiến liên quan đến kết quả đánh
giá. Chủ dự án chuẩn bị dự thảo báo cáo ĐTM mô tả các kết quả đánh giá, cách tiếp
cận bảo vệ môi trường và gửi đến cơ quan quản lý về môi trường ở địa phương. Chủ
dự án cũng công khai tài liệu và cho phép người dân địa phương được trực tiếp xem
tại văn phịng chính phủ và tại nơi hoạt động của chủ dự án. Trong thời gian này,
13


các cuộc họp tham vấn cũng được tổ chức để giải thích nội dung của dự thảo báo
cáo ĐTM. Bất cứ ai có ý kiến về dự thảo báo cáo ĐTM có thể gửi bản ý kiến đánh
giá đến chủ dự án. Chủ dự án tổng hợp những ý kiến đó với chính quyền địa
phương. Sau đó, cơ quan quản lý tại địa phương cũng nêu ý kiến đánh giá của mình
về báo cáo ĐTM đối với dự án, trong đó có tính đến ý kiến từ cơng chúng. Chủ dự
án dựa vào những ý kiến tham vấn đó để hồn thiện báo cáo ĐTM và gửi đến cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt. Cho tới khi báo cáo ĐTM cuối cùng được công
khai, chủ dự án không được thực hiện bất kỳ giai đoạn nào khác của dự án
[31,Pg.12-13].Việc tham vấn cộng đồng của Nhật Bản không phải là hình thức đối
phó, thủ tục theo quy định của pháp luật ĐTM mà là rất thực chất, công khai đưa
đến những giải pháp thiết thực, đem lại hiệu quả ĐTM cao.
Ngồi Luật Đánh giá tác động mơi trường, hệ thống pháp luật ĐTM Nhật
Bản cịn được hồn thiện bởi hệ thống các văn bản do chính quyền địa phương ban
hành với các đặc điểm: (1) Bổ sung các dự án phải ĐTM, (2) quy định áp dụng cho
các dự án quy mô nhỏ, (3) quy định việc tổ chức các buổi điều trần công khai để hỏi
ý kiến người dân, (4) Cung cấp thủ tục thực hiện ĐTM của tổ chức tư vấn lập báo
cáo ĐTM, (5) Yêu cầu theo dõi giám sát sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt. Tuy
vậy, nhưng hệ thống pháp luật ĐTM Nhật Bản khơng hề bị chồng chéo, mà có sự
phân chia, phối hợp bằng cách không quy định trùng các đối tượng thuộc hạng mục
thực hiện ĐTM (các dự án được chỉ định thực hiện ĐTM theo luật, chính sách pháp

luật địa phương sẽ không thể yêu cầu các thủ tục bổ sung; luật địa phương chỉ quy
định thủ tục cho những dự án không được Luật Đánh giá tác động môi trường đề
cập) [31, pg.16].
So với các nước trong khu vực, pháp luật ĐTM Nhật Bản thuộc vào hàng
phát triển và hồn thiện nhất, tuy vậy các chun gia mơi trường nước này vẫn cho
rằng pháp luật ĐTM nước mình cịn hạn chế và vẫn ln trong tiến trình học hỏi
kinh nghiệm các nước phương Tây để ngày một tiến bộ và hoàn thiện hơn.
1.4.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Trung Quốc
Ở Trung Quốc, ĐTM là một phần của Luật Bảo vệ mơi trường được thơng
qua chính thức năm 1989. Tới năm 2002, Luật Đánh giá tác động mơi trường được
ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/9/2003. Luật này bao gồm 5 Chương và 38
Điều, quy định khá chặt chẽ quá trình ĐTM.
14


Theo đó, ĐTM là bắt buộc cho bất kỳ dự án nào có thể có tác động tiêu cực
đến mơi trường, không phân biệt ngành nghề, đặc biệt là các dự án có vốn đầu tư
nước ngồi càng được kiểm sốt về mơi trường nghiêm ngặt[32, Pg.10]. Tuy nhiên,
căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của dự án tới môi trường mà các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường quy định các hình thức thể hiện ĐTM như: báo cáo ĐTM đầy
đủ, ĐTM là một chương trong hồ sơ trình thẩm định và đăng ký ĐTM theo mẫu quy
định với dự án ít ảnh hưởng đến mơi trường[13, tr.26-27]. Quy định này tránh được
sự cồng kềnh về thủ tục cho chủ dự án mà có dự án ít tác động tới môi trường, hoạt
động đầu tư được kiểm sốt đơn giản hơn mà vẫn đảm bảo khơng tác động xấu tới
môi trường.
Điều 19 Luật ĐTM Trung Quốc quy định việc thẩm định báo cáo ĐTM sẽ do
một tổ chức độc lập chuyên thẩm định báo cáo ĐTM thực hiện mà không phải các
cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thực hiện như nhiều quốc gia khác trong
đó có Việt Nam. Báo cáo ĐTM do chủ dự án lập, sau đó sẽ thuê một tổ chức thẩm
định độc lập tiến hành thẩm định báo đó. Cơ quan nhà nước sẽ chỉ tiến hành thẩm

tra, phê duyệt báo cáo ĐTM, chứ không trực tiếp thẩm định báo cáo ĐTM. Các tổ
chức thẩm định báo cáo ĐTM phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động
thẩm định báo cáo ĐTM mình. Quy định này đảm bảo việc thẩm định được diễn ra
một cách khách quan, hạn chế tiêu cực phát sinh trong quá trình thẩm định, cũng
phần nào giảm bớt khối lượng công việc cho cơ quan nhà nước.
Pháp luật ĐTM cũng quy định chặt chẽ về năng lực chuyên môn của người
lập báo cáo ĐTM. Cụ thể, người lập báo cáo ĐTM phải có chứng chỉ hành nghề, để
được cấp chứng chỉ cá nhân phải trải qua kỳ thi do Nhà nước tổ chức và cứ 4 năm
một lần phải thi lại để được gia hạn. Chứng chỉ hành nghề còn được chia thành 2
loại: loại một được phép thành lập báo cáo ĐTM cho tất cả các dự án, loại 2 là dành
cho người lập báo cáo ĐTM ở cấp địa phương. Điều này sẽ nâng cao chất lượng
ĐTM ngày từ khâu lập báo cáo ĐTM ban đầu, kéo theo đó việc thẩm định, phê
duyệt cũng sẽ thuận lợi, nhanh chóng hơn.
Pháp luật ĐTM Trung Quốc chú trọng đảm bảo sự tham gia của cộng đồng
và công khai thông tin về báo cáo ĐTM. Việc tham gia của người dân được quy
định trong các giai đoạn: lập báo cáo, thẩm định, thực hiện và giám sát thực hiện
báo cáo ĐTM. Chủ dự án phải tiến hành tham vấn ý kiến người dân trong quá trình
15


lập báo cáo ĐTM, trong quá trình thẩm định báo cáo cần công bố thông tin về báo
cáo ĐTM để người dân thực hiện quyền tham vấn. Mọi ý kiến tham vấn được tiếp
thu hay từ chối đều phải có văn bản giải trình. Việc thực hiện báo cáo cũng phải
được tham vấn ý kiến của người dân và người dân có quyền phản ánh những sai xót
của chủ dự án trong q trình thực hiện dự án. Tồn bộ phản ánh của người dân đều
phải lưu trữ lại và người dân có quyền tiếp cận miễn phí. Nhìn chung, q trình thực
hiện ĐTM đều được cơng khai và người dân được tham gia vào hầu hết các giai
đoạn của q trình này, đảm bảo sự cơng bằng, khách quan, cũng nâng cao chất
lượng báo cáo ĐTM một cách tối đa nhất.
Nói đến pháp luật Trung Quốc khơng thể khơng nhắc tới cơ chế xử lý vi

phạm cực kỳ nghiêm minh, khắt khe. Pháp luật ĐTM cũng không ngoại lệ khi quy
định rất rõ ràng các hành vi vi phạm của các chủ thể liên quan tới hoạt động ĐTM.
Người lập báo cáo ĐTM có thể bị tước thẻ hành nghề, chủ thể thực hiện thẩm định
báo cáo ĐTM có thể bị loại khỏi danh sách thành viên thẩm định do Bộ Bảo vệ mơi
trường quản lý nếu có sai sót trong q trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu gây
hậu quả nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người phê duyệt báo
cáo ĐTM nếu thực hiện không đúng quy định của pháp luật sẽ bị cách chức. Và
thực tế cho thấy, việc thực thi các quy định xử phạt này được Trung Quốc tiến hành
tương đối nghiêm túc, do đó mà các chủ thể có liên quan đến hoạt động ĐTM cũng
phải chấp hành đúng quy định của pháp luật [17].
Trung Quốc phát triển pháp luật ĐTM sớm và đặc biết coi trọng công tác này
nên pháp luật ĐTM mang rất nhiều điểm tiến bộ, hoàn thiện với hiệu quả thực thi
cao. Việt Nam nên xem xét, tham khảo để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật về ĐTM nói riêng.
Các quốc gia nêu trên đều là những quốc gia có pháp luật về ĐTM phát triển
mà Việt Nam cần học tập, tham khảo. Ngoài ra Việt Nam hiện cũng đẩy mạnh quan
hệ hợp tác trong lĩnh vực môi trường với nhiều quốc gia khác như Hàn Quốc,
Canada, Hoa Kỳ, Thụy Điển,…Việt Nam với mong muốn hợp tác nhằm trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm trong công tác ĐTM và công tác quản lý, giám sát trong quá
trình các dự án, cơ sở sản xuất đi vào vận hành; nâng cao năng lực cho các nhà quản
lý, các nhà khoa học trong công tác ĐTM. Pháp luật về ĐTM của Việt Nam còn non
trẻ nên rất coi trọng quan hệ hợp tác quốc tế để có thể học hỏi nhằm hồn thiện hệ
16


thống pháp luật ĐTM của mình, xây dựng hệ thống pháp luật mơi trường tồn diện,
thiết thực góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của quốc gia.
1.4.3. Gợi mở cho Việt Nam
ĐTM là một quá trình tương đối phức tạp, với nhiều giai đoạn, thủ tục, thời
gian thực hiện tương đối dài. Do đó, pháp luật về ĐTM cũng cần phải mang tính

chuyên biệt, cụ thể, chi tiết hơn. Việt Nam nên có Luật Đánh giá tác động môi
trường – một đạo luật cụ thể quy định riêng về hoạt động ĐTM để việc thực hiện
ĐTM được quản lý chi tiết, chặt chẽ hơn, các chủ thể của pháp luật ĐTM cũng theo
đó mà thuận tiện trong việc tuân thủ, tìm hiểu các quy định pháp luật hơn.
Một điểm chung của các quốc gia có hệ thống pháp luật ĐTM tiến bộ nêu
trên đó là các quốc gia này đều cực kỳ coi trọng các cơng trình nghiên cứu về ĐTM.
Việc nghiên cứu ĐTM được thực hiện rất nghiêm túc thu hút nhiều viện, trường đại
học và nhà khoa học tham gia. Việc nghiên cứu là hoạt động được tồn thế giới ghi
nhận và khuyến khích. Bất kỳ một ngành, lĩnh vực nào cũng cần có sự nghiên cứu
chun sâu để góp phần phát triển và hồn thiện hơn. Và Việt Nam nên có cơ chế,
chính sách khuyến khích, hỗ trợ các cơng trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về
ĐTM để thu hút các nhà khoa học tích cực đầu tư, thực hiện nghiên cứu về vấn đề
này để góp phần hồn thiện pháp luật ĐTM của Việt Nam hơn nữa.
Chất lượng tham vấn và tính cơng khai thơng tin có lẽ cần được Việt Nam
đẩy mạnh hơn. Dựa vào những thành công trong hoạt động ĐTM mà các quốc gia
khác đạt được, có thể thấy vai trị của sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân là
rất lớn. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần chú trọng tới vấn đề này hơn, đảm bảo cho
người dân được phát huy hết vai trị của mình, người dân được thể hiện quan điểm,
được tiếp nhận thông tin ĐTM một cách tối đa, thuận lợi nhất.
Chất lượng hoạt động ĐTM nên được cải thiện. Pháp luật ĐTM góp phần
nâng cao chất lượng ĐTM khi quy định chặt chẽ về năng lực của các chủ thể lập,
thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM; có sự phân chia thẩm quyền rõ ràng hơn và
nâng cao trách nhiệm của các chủ thể với quyền, nghĩa vụ của mình; đảm bảo sự
độc lập giữa các giai đoạn, giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện ĐTM;…
Cần chú trọng giai đoạn “giám sát hậu thẩm định”. ĐTM là công cụ lựa chọn
những dự án đảm bảo không gây ô nhiêm môi trường được hoạt động, là cam kết
của chủ dự án trong việc hạn chế, phòng ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của dự án
17



tới môi trường, là công cụ quan trọng nhằm bảo vệ mơi trường. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra đó là các chủ thể có liên quan có nghiêm túc thực hiện đúng với trách nhiệm
của mình, có thực hiện đúng những cam kết, những biện pháp bảo vệ môi trường đã
được nêu trong báo cáo ĐTM đã phê duyệt không? Và cơ chế hậu kiểm chính là
cơng cụ để quản lý vấn đề này. Cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện báo cáo
ĐTM đã được phê duyệt là một bộ phận đóng vai trị quan trọng trong pháp luật
ĐTM. Có thể thấy, những nước có hệ thống pháp luật ĐTM hoàn thiện, hiệu quả
đều là các nước quy định nghiêm ngặt, đầy đủ cơ chế kiểm tra, giám sát sau khi báo
cáo ĐTM được phê duyệt. Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo hoạt động ĐTM
phát huy được đúng vai trị của nó nhằm giảm thiểu tác động xấu của dự án đến môi
trường. Pháp luật ĐTM cần có quy định quản lý khâu lập, tham vấn, thẩm định, phê
duyệt báo cáo ĐTM đồng thời cũng phải quy định vềgiám sát sự tuân thủ yêu cầu
bảo vệ mơi trường trong suốt q trình thực hiện dự án. Công tác này không chỉ là
giám sát chất thải và quan trắc môi trường trong quy định về cấu trúc và nội dung
báo cáo ĐTM hiện hành mà là giám sát, đánh giá việc thực hiện của chủ dự án/nhà
thầu xây dựng đối với từng biện pháp bảo vệ mơi trường đã được thẩm định [21].
Do đó, pháp luật ĐTM của Việt Nam cần chú trọng khâu giám sát hậu thẩm định để
đảm bảo cho ĐTM được thực hiện và phát huy vai trị bảo vệ mơi trường, đảm bảo
sự phát triển bền vững của đất nước.

18


Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ TỚI SỰ CỐ MƠI TRƯỜNG FORMOSA
2.1. Q trình hình thành và phát triển của pháp luật đánh giá tác động
môi trường ở Việt Nam
2.1.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn
trước năm 1986

Đây là giai đoạn Việt Nam đang trong tiến trình giải phóng đất nước và xây
dựng, khôi phục lại đất nước. Tuy nhiêm, vấn đề ĐTM vẫn được Nhà nước triển
khai và các nhà khoa học sớm quan tâm nghiên cứu. Ngay từ những năm 1980
nhiều nhà khoa học bắt đầu tiếp cận với công tác ĐTM thơng qua các hội thảo và
các khố đào tạo do các tổ chức Quốc tế thực hiện (UNEP, UNU). Chính phủ Việt
Nam cũng sớm nhận thức được vấn đề bảo vệ môi trường và ĐTM nên đã tạo điều
kiện cho các cơ quan, cá nhân tiếp cận các lĩnh vực này. Đầu những năm 80, một
nhóm các nhà khoa học Việt Nam, đứng đầu là Giáo sư Lê Thạc Cán đã đến Trung
tâm Đông - Tây ở Ha - Oai nước Mỹ nhằm nghiên cứu về luật, chính sách mơi
trường nói chung và ĐTM nói riêng[20, tr.8]. Chương trình nghiên cứu khoa học
cấp nhà nước về tài nguyên thiên nhiên và môi trường do Uỷ ban Khoa học và Kỹ
thuật Nhà nước triển khai và đặt nền móng quan trọng cho việc nghiên cứu, thực
hiện ĐTM tại Việt Nam. Tháng 4/1984, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi
trường của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội kết hợp với Chương trình nghiên cứu
quốc gia về Mơi trường, đã tổ chức khoá huấn luyện về ĐTM cho các giảng viên từ
các trường Đại học và Viện nghiên cứu TW đầu tiên tại Việt Nam. Sau đó, ĐTM đã
được xác định cụ thể trong các văn bản quan trọng của Nhà nước về đẩy mạnh công
tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, cụ
thể là: Nghị quyết số 246 – HĐBT ngày 20/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ)[8].
Trong giai đoạn này, các trường đại học, các viện nghiên cứu đã thực hiện
một số nghiên cứu xem xét, đánh giá ban đầu về môi trường (IEE: Initial
environmental examination) hoặc theo “hướng” ĐTM đối với một số dự án lớn. Tuy
nhiên, tại thời điểm đó, q trình quy hoạch phát triển hồn tồn khơng có những
19


×