SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
MÃ SKKN
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1
trong các tiết tập đọc
Môn: Tiếng Việt
Cấp học: Tiểu học
Năm học: 2015 - 2016
Mục Lục
A: Phần mở đầu..........................................................................................................2
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................2
2. Mục đích và phương pháp nghiên cứu...............................................................2
2.1.Mục đích........................................................................................................2
2.2. Phương pháp.................................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................3
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.............................................................................3
B: Phần nội dung........................................................................................................4
1.Cơ sở lý luận........................................................................................................4
2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................................4
3. Thực trạng và những mâu thuẫn.........................................................................4
Đối với giáo viên....................................................................................................4
Đối với học sinh......................................................................................................5
Đối với phụ huynh..................................................................................................5
4. Các biện pháp giải quyết vấn đề.........................................................................5
4.1. Biện pháp thứ nhất:......................................................................................5
Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh................5
4.2. Biện pháp thứ 2:.........................................................................................13
Người giáo viên phải làm gì để học sinh nhận thức chậm, hay qn; học
sinh có hồn cảnh gia đình học tốt hơn.............................................................13
4. 3. Biện pháp thứ 3:........................................................................................15
Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình khơng khốn trắng
cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia dình là rất
cần thiết.............................................................................................................15
4.4. Ví dụ:..........................................................................................................15
4.5. Tổ chức thực hiện các giải pháp.................................................................16
C: Kết luận và khuyến nghị......................................................................................28
1. Kết luận :...........................................................................................................28
2. Khuyến nghị:...................................................................................................28
2/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
A: Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”. Vì vậy giáo dục trẻ em là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng , là quốc sách hàng đầu mà cả xã hội đều quan
tâm. Để ngày mai thế giới có những chủ nhân tốt, xã hội có những cơng dân tốt
thì ngay từ ngày hơm nay chúng ta phải đào tạo thế hệ trẻ có kiến thức cơ bản về
tự nhiên xã hội và có phẩm chất đạo đức của con người để các em được học lên
các cấp học trên dễ dàng. Nhiệm vụ giáo dục học sinh luôn luôn được xã hội
quan tâm nhưng quan trọng hơn cả vẫn là nhà trường, đặc biệt là trường tiểu
học. Bởi vì nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng là nơi kết tinh
trình độ văn minh của xã hội trong công tác giáo dục trẻ em. Đứa trẻ ngày hôm
nay và mai sau trở thành những người như thế nào là tuỳ thuộc rất nhiều vào cấp
tiểu học cácem được học .
Trong xã hội hiện nay rất nhiều người nói về giáo dục, về chất lượng học
sinh lên lớp,về những học sinh ngồi nhầm lớp từ khi có cuộc vận động “ hai
khơng” của Bộ trưởng Bộ giáo dục. Tôi không khỏi suy nghĩ phải làm gì, làm
như thế nào để “sản phẩm” của mình phải có chất lượng, những lí do trên đã thơi
thúc tơi cần phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể góp phần đưa chất lượng học
sinh trong nhà trường đạt hiệu quả tốt. Là một giáo viên dạy rất nhiều năm ở lớp
1 của trường.Tôi luôn luôn trăn trở về kết quả học tập của học sinh lớp 1. Nếu
các em khơng đọc thơng viết thạo thì các em làm tốn cũng rất khó khăn và học
các mơn học khác cũng rất chậm, như vậy các em học lên các lớp trên sẽ bị hỏng
kiến thức. Từ thực tế đó tơi rút ra kết luận nếu các em lớp 1 khơng đọc thơng
viết thạo thì sẽ khơng học tốt các mơn học khác.Vì vậy tơi đã chọn đề tài:“Một
số biện pháp đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc”
2. Mục đích và phương pháp nghiên cứu
2.1.Mục đích
Hình thành kỹ năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc
đúng, đọc nhanh. Dạy đọc giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp cho
các em thấy được đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc
sống trí tuệ phát triển. Tập đọc góp phần làm giàu vốn kiến thức ngơn ngữ, bồi
dưỡng cho học sinh lịng u cái thiện và cái đẹp, dạy cho các cách tư duy có
hình ảnh.
Giúp học sinh đọc thơng được văn bản và đọc đúng ngữ điệu , ngắt giọng
đúng nhằm nâng cao chất lượng của 1 giờ dạy tập đọc ở lớp 1.
3/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
2.2. Phương pháp
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
Phương pháp thu nhận và tham khảo tài liệu;
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế;
Dạy thực tiễn trên lớp 1
Trao đổi, toạ đàm với đồng nghiệp.p
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng dạy đọc của lớp 1 ở trường tiểu học hiện nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
Phương pháp thu nhận tài liệu;
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế;
Dạy thực nghiệm;
Trao đổi, toạ đàm với đồng nghiệp.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Lớp 1 Năm học: 2015 – 2016
4/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
B: Phần nội dung
1.Cơ sở lý luận
Trong công cuộc đổi mới giáo dục và thực hiện nghiêm túc chủ chương
chính sách của đảng và nhà nước nói chung của ngành giáo dục nói riêng về
việc nói khơng với tiêu cực và bệnh thành tích từ năm học 2006-2007 đã thể
hiện rất rõ.Theo thống kê trên tồn quốc nói chung và của các trường tiểu học
nói riêng đã có biết bao học sinh ở lại lớp và học sinh yếu kém ngồi nhầm chỗ.
Học sinh bỏ học do quá yếu không theo học được . Điều đó khiến tơi rất trăn trở
làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém giúp học sinh nắm được
kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp 1 bởi lớp 1 là nền móng cho sự phát triển của
học sinh sau này với lớp 1 điều quan trọng nhất là đọc, viết được có đọc được tốt
học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên lớp trên học sinh mới học tốt
được các môn học khác .Mà từ xưa các nhà trường nói chung trường tiểu học
nói riêng chỉ chú trọng tổ chức bồi dưỡng thêm cho học sinh giỏi mà chưa tổ
chức phụ đạo riêng cho đối tượng học sinh yếu đọc chính vì lẽ đó bản thân mỗi
giáo viên chủ nhiệm phải có biện pháp để phụ đạo học sinh yếu của lớp mình .
2. Cơ sở thực tiễn
Đối tượng học sinh của tôi là học sinh lớp Một. Ở lứa tuổi này khả năng
tập trung chú ý của trẻ chưa cao, tư duy chưa phát triển nên việc bồi dưỡng kĩ
năng đọc cho các em ở giai đoạn này rất khó khăn. Để giải quyết khó khăn ban
đầu đấy thì trong hoạt động dạy học của mình, tơi đã sử dụng một số biện pháp
để giúp trẻ tăng thêm hứng thú trong q trình học ,thích thú trong giờ học
Tiếng Việt để tiến tới đọc thậtđúng và chính xác, tạo đà cho những năm học sau.
3. Thực trạng và những mâu thuẫn
3.1.Thuận lợi
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu trường.
Được sự quan tâm của Ban Đại Diện cha mẹ học sinh.
Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên tổ khối Một .
Phịng học thống mát, đầy đủ ánh sáng, bàn ghế đúng tiêu chuẩn.
Đa số học sinh đã qua mẫu giáo và ở tại địa phương
3.2. Khó khăn
Đối với giáo viên: Vận dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp với từng đối
tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một số giáo viên chưa nhiệt tình giúp
đỡ học sinh.
5/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Đối với học sinh: Học sinh Mẫu giáo khi mới vào lớp Một các em còn rất bỡ
ngỡ, rụt rè và mọi thứ còn rất mới lạ. Một số em chưa biết cầm bút, chưa đi vào
nề nếp, chưa nghiêm túc khi nghe cô giáo giảng bài. Bị bệnh lý bẩm sinh, học
hay quên; lười học; do hồn cảnh gia đình khó khăn.
Đối với phụ huynh: Một số gia đình chưa quan tâm đến việc học con em mình,
phó mặc khốn trắng cho nhà trường.
Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu tơi đã phân loại học sinh lớp mình vào
cuối tháng 9 như sau:
Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
TSH
S
Hoàn thành tốt
Hồn thành
Chưa hồn thành
31
10
10
11
Từ những số liệu về tình hình học tập của học sinh mà tơi đã kiểm tra
được và tìm hiểu rõ nguyên nhân nào các em lại đọc, viết cịn chậm so với u
cầu chuẩn, tơi lập kế hoạch và đưa ra biện pháp giải quyết.
4. Các biện pháp giải quyết vấn đề
4.1. Biện pháp thứ nhất:
Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh. Giáo viên
hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần phải ngồi ngay
ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35 cm, cổ và đầu
thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp, khi được cô giáo gọi đọc,
học sinh phải bình tĩnh, tự tin, khơng hấp tấp đọc ngay.
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế
khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc
thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt này thường được
nhấn mạnh - là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết; vai thứ hai là người
trung gian để truyền thông tin đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ
hai này, người đọc đã thực hiện việc tái văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng,
người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng
với phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ
em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo
cho các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các em phải tính đến người
nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc khơng phải chỉ cho mình
6/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
cô giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho tất cả
những người này nghe rõ. Nhưng như thế khơng có nghĩa là đọc q to hoặc gào
lên. Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ "lí nhí", giáo viên cần tập cho các em
đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên cho
học sinh đứng trên bảng để đối diện với những người nghe. Tư thế đứng đọc
phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai
tay.Giáo viên làm mẫu, đây là đối tượng HS vùng nông thôn , GV cần nắm bắt
sự khéo léo , tâm lý của HS, giúp HS mạnh dạn, tự tin trong lúc đọc.
4.1.1 Biện pháp dạy học theo nhóm đối tượng
- Tơi đã phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối tượng như sau:
Nhóm 1: Gồm những học sinh chậm, yếu
Nhóm 2: Gồm những học sinh trung bình
Nhóm 3: Gồm những học sinh khá
Nhóm 4: Gồm những học sinh giỏi
Tơi có thể thay tên nhóm 1,2,3,4 thành tên khác như nhóm A,B,C,D…
Trong quá trình dạy giáo viên vẫn phải lấy chuẩn để làm thước đo nhưng ở các
tiết ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều giáo viên yêu cầu các em thực hiện nhiệm
vụ với 4 mức khác nhau trong cùng một giờ học.
Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 3 và 4. Các
dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương này. Chẳng hạn bài 46
vần ÔN, ƠN các em chỉ cần viết ôn, ơn, con chồn, sơn ca, mỗi vần, mỗi từ chỉ
một dịng, trong khi đó các em ở nhóm 3, 4 viết nhiều hơn mỗi loại như trên từ 2
đến 3 dòng. Các em ở nhóm 2 chỉ cần viết theo u cầu chuẩn.
Tơi thống qua BGH trong các giờ học âm nhạc,thể dục, mĩ thuật…cho
những em học sinh chậm, yếu ở lại phòng học, tôi tiếp tục kèm cho các em đọc
nội dung nào các em còn yếu.
4.1.2. Biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật thật….cho
học sinh học chậm
Lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng tư duy trừu
tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mơ hình vật thật, tranh ảnh, do
vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không
thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện
chuyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn
luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của
học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho
7/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ khơng sợ học mà chỉ sợ
những tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn
trong q trình dạy mơn Tiếng Việt đọc cho học sinh, nhất là các em học sinh
học chậm.
Ví dụ: Ở những bài học về vần. Chẳng hạn như Bài 41 trang 86 Sách giáo khoa
Tiếng Việt 1 Tập 1: Dùng tranh vẽ ( hoặc vật thật) trái lựu; Tranh con hươu sao
để học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau khi các em đã nhận diện vần ưu và
ươu ở phần đầu tiết học. Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ
chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật
đến vần của bài học.
Hình ảnh: trái lựu ( dạy bài 41 ưu – ươu )
8/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Hình ảnh: hươu sao ( dạy bài 41 ưu – ươu )
Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt đọc giúp học sinh
nhớ vần và từ tốt hơn.
- Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trị rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết tập
đọc mơn Tiếng Việt lớp 1 – học kì II.
Ví dụ: Bài Chuyện ở lớp – Trang 100 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập II –
Phần luyện nói: Tìm tiếng ngồi bài: Có vần uôt. Giáo viên treo tranh một người
đang tuốt lúa – Giáo viên hỏi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói câu có
vần t, động viên các em học chậm nói trước, nhìn vào tranh tự các em có thể
nói được như: Mẹ (cơ, chị, dì) đang tuốt lúa hoặc là máy tuốt lúa. Dùng tranh,
ảnh trong các phần này tơi nghĩ rằng có tác dụng rất lớn đối với các em học
chậm, các em vừa nói được câu có vần cần tìm và cịn hiểu được nghĩa của câu
đó. Tuy nhiên các em học sinh khá, giỏi nói các câu khác cũng có vần t như
con chuột, sáng suốt mà không cần dựa vào tranh.
9/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Hình ảnh bài Tập đọc : Chuyện ở lớp. (tìm tiếng ngồi bài có vần t)
Ví dụ: Bài 19 ( r - s) Sách Giáo Khoa Tiếng Việt 1-Học kì I giáo viên sử dụng
các hình ảnh trực quan như tranh cá rơ, vật thật cái rế, cái rổ để giúp học sinh
gợi nhớ và nhận diên được âm r, đọc được âm r, tiếng rô, rế, rổ.
Ở giai đoạn này, trong lúc giảng giải phần khó hiểu, giáo viên cần nhìn thẳng
vào em để nói, ngụ ý động viên khuyến khích nhờ đó em học tốt hơn.
Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo tranh,
ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh khá giỏi lại vừa
tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm.
10/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Hình ảnh: cái rổ (dạy bài 19 r – s)
Hình ảnh: cá rơ ( bài 19 r – s )
11/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
+ Luyện đọc đúng
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
khơng có lỗi. Đọc đúng là đọc khơng thừa, khơng sót từng âm, vần, tiếng. Đọc
đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là
khơng đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc
đúng các âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu).
Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị tiếng
Việt.Với HS TH cần rèn đọc đúng các yếu tố sau:
Đọc đúng các phụ âm đầu: Ví dụ: có ý thức phân biệt để khơng đọc: “dảy
dây”, “khoẻ khắn” mà phải đọc là “nhảy dây” ,“khỏe khoắn”, chú ý phân biệt
giữa âm d và âm nh., âm x và âm s như : “chim sẻ” thành “chim xẻ”.v.v…
Đọc đúng các âm chính: Ví dụ: có ý thức phân biệt để không đọc “iu tin,
quả lịu” mà phải đọc “ưu tiên, quả lựu”.
Đọc đúng các âm cuối: Ví dụ: có ý thức khơng đọc: “lng lng” mà
phải đọc “ln luôn”.
Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điều câu. Ngữ
điệu là hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ
với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm điệu, âm nhịp
và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm chủ những yếu tố này.
Đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy
đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc.
Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ
pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc khơng được tách một từ ra
làm hai. Ví dụ khơng ngắt hơi.
“Con/ cị mà đi ăn đêm
Đậu phải cành/ mềm lộn/ cổ xuống ao”
Ông già bẻ gãy từng chiếc đũa một / cách dễ dàng. Không tách giới từ với
danh từ đi sau nó.
Thí dụ khơng đọc:
“Như con chim chích
Nhảy trên / đường vàng”
Khơng tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
Thí dụ: khơng đọc
Cá heo là / tay bơi giỏi nhất của biển
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu
hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng
12/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu
cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ giọng khi đọc bộ
phận giải thích của câu.
Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
+ Luyện đọc nhanh
* Đọc nhanh (cịn gọi là đọc lưu lốt, trơi chảy) là nói đến phẩm chất đọc
về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau
khi đã đọc đúng.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phần dạy đọc
của phân môn học vần phải đảm nhận), đọc không ê a, ngắc ngứ, không vừa đọc
vừa đánh vần. Về sau tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức
bài đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ đọc
nhanh nhưng để cho
người nghe hiểu kịp được. Vì vậy, đọc nhanh khơng phải là đọc liến
thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc
độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều.
* Biện pháp luyện đọc nhanh
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu
để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn,
bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngồi ra, cịn có
biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để
điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng
cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc như thế nào cịn phụ
thuộc vào độ khó của bài đọc.
4.1.3. Người giáo viên cần có lịng nhiệt tình, ln quan tâm giúp đỡ học
sinh.
Là giáo viên dạy lớp 1 nên tôi luôn hiểu rằng các em học sinh lớp Một
mới từ mẫu giáo chuyển lên nên việc tiếp thu kiến thức thơng qua hình thức:
Học mà chơi, chơi mà học, giáo viên phải nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em
ln tạo khơng khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời nhận xét động viên
các em giúp các em thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần
thiết, tránh quát mắng các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt
không được ngồi một chỗ bảo các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi xuống
bên học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa được nhắc nhở các
em, chỉ cụ thể cho các em nhất là với các em học chậm cần nhắc lại hay bắt tay
các em để các em viết cho đúng. Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một
ngày vui. Giáo viên phải gần gũi với học sinh thì mới hiểu được về học sinh của
13/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
mình, để hình ảnh ân cần của cơ ln là hình ảnh đẹp trong ánh mắt của các em,
bản thân các em cũng thấy cơ giáo như người thân trong gia đình sẵn sàng kể
cho cơ nghe những niềm vui hoặc những khó khăn của mình trong học tập hay
trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cơ giúp đỡ.
Ví dụ: Em Thành lớp tơi, em đọc rất chậm hay sai, một số chữ đọc hay
lẫn lộn trong 3 tháng đầu năm học. Nhưng tôi luôn đến tận nơi chỉ cho em từng
âm , từng chữ cho em cùng với lời khen dù chỉ là tiến bộ nhỏ nhất, tôi theo dõi
hàng tháng để xem em đó tiến bộ như thế nào, quả thật đến nay em Thành đã
tiến bộ rõ rệt, đọc đúng âm, chữ cỏn đọc được cả câu.
Tóm lại: Qua việc dạy học phân nhóm đối tượng học sinh tơi nhận thấy
nếu người giáo viên biết lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp với từng trình
độ học sinh của một lớp cùng với lịng nhiệt tình, quan tâm giúp đỡ học sinh học
chậm thì chất lượng học sinh ngày một nâng lên.
4.2. Biện pháp thứ 2:
Người giáo viên phải làm gì để học sinh nhận thức chậm, hay quên; học sinh
có hồn cảnh gia đình học tốt hơn.
Có lẽ ngun nhân này là nguyên nhân lớn làm giảm chất lượng học sinh,
qua dự giờ chéo của các lớp khối Một, điều làm tôi thật sự băn khoăn và trăn
trở bởi số học sinh này khơng phải chỉ có 1 hay 2 em, nên tơi nghĩ cần có kế
hoạch cụ thể để giúp giáo viên khối Một dạy những học sinh này như thế nào
cho đạt kết quả tốt, không phải trong một tháng mà trong cả một năm học, có
khi cả trong hè.
4.2.1. Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên
Tôi đã phân loại và nắm được số lượng dạng học sinh này, tôi lựa chọn
phương pháp dạy và dạy một lượng kiến thức phù hợp cho các em. Tuy nhiên
với học sinh cả lớp giáo viên vẫn lấy chuẩn để làm mục tiêu phấn đấu, còn
những em này nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra thì các em
khơng thể theo kịp, vì thế trước hết sắp xếp chỗ ngồi cho các em phù hợp và có
tác dụng thúc đẩy.
Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự giúp đỡ từ
bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn nói,
được các bạn nhắc nhở ln với hình thức này là điều kiện rất tốt cho các em
hoạt động nhóm đơi, tránh cho các em cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi
cuối cùng của lớp, cần tạo điều kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy
những ưu điểm của mình.
14/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: Về đọc chỉ yêu cầu các em đọc
một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể đọc nhiều dịng trở lên.
Ví dụ: Tiết tập đọc bài: Mèo con đi học - Trang 105 Tiếng Việt II, yêu cầu
chuẩn học sinh đọc bài thơ nhưng khơng u cầu các em học thuộc lịng, nhưng
bên cạnh đó giáo viên phải theo dõi sát các em, uốn nắn và hướng dẫn cụ thể
cho các em.
Về đọc tăng cường gọi các em nhắc lại nhiều lần nếu là vần, đọc nhiều
lần nếu là câu ứng dụng hay một đoạn văn, đoạn thơ.
Ngồi ra tơi có kế hoạch về thời gian để kèm cặp, phụ đạo học sinh này,
cụ thể các tiết ôn tập buổi chiều các em học giỏi, khá tự làm các yêu cầu giáo
viên giao và các em ngồi cùng bàn theo dõi lẫn nhau, khi đó tơi quan tâm đặc
biệt tới những em học chậm theo dõi sát khi các em đọc, viết, cho các em đọc
nhiều hơn, động viên các em mỗi khi các em đọc tốt. Vào các tiết học đàn có thể
cho các em này ngồi tại lớp để hướng dẫn các em đọc nhiều lần. Đối với học
sinh đọc yếu này chúng ta hết sức kiên trì và phải có lịng nhiệt tình.
4.2.2. Đối với những học sinh có hồn cảnh gia đình như mồ cơi, cha mẹ bất
hồ, cuộc sống khó khăn.
Nguyên nhân này cũng là yếu tố làm giảm chất lượng học sinh, trong quá
trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết bài, ngồi ngơ ngác
có khi cịn ngủ gật, khơng chú ý cô giảng bài…Đối tượng học sinh này cần được
quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy muốn các học sinh này học
tốt giáo viên phải nắm được hoàn cảnh thực tế của các em từ đó mới có biện
pháp cụ thể để dạy các em.
Để giúp các em học tập tốt, tôi bàn với BGH, Ban Đại Diện cha mẹ học
sinh của lớp, Hội khuyến học của trường kịp thời giúp đỡ về vật chất như tập
sách, đồ dùng học tập, quần áo…
Cần động viên các em trong mọi hoạt động nhất là với những em mồ côi,
gần gũi quan tâm các em khi các em bệnh, ốm, tạo khơng khí thoải mái trong
học tập, để các em thấy cô giáo là người mẹ thứ hai của mình, các em khơng cịn
thấy cơ đơn khi tới trường.
Ví dụ: Lớp tơi có em Quyền mẹ em và chị gái đều bị bệnh phải chạy
thận hoàn cảnh khó khăn, em hay nghỉ học, đến lớp ngồi một mình khơng tham
gia hoạt động cùng với các bạn, em học kém, hay quên tập vở. Tôi luôn gần gũi,
động viên em, khi thấy em nghỉ học khơng lí do tơi đến nhà gặp gia đình của
em, giúp em cùng chơi và hồ nhập với các bạn. Đồng thời tơi cho em để một số
sách vở ở lớp để em khỏi quên như tập hát, tự nhiên xã hội, vở bài tập các loại.
15/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Một vài lần kiểm tra, tôi thấy em Quyền cũng đã tiến bộ nhiều, em vui hơn khi
tham gia chơi cùng bạn bè và khơng cịn ngồi buồn nữa.
Tóm lại: Đối với học sinh có hồn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan tâm,
giúp đỡ, động viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với
cộng đồng, cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh thần
4. 3. Biện pháp thứ 3:
Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình khơng khốn trắng
cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia dình là rất cần
thiết.
Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là xong
nhiệm vụ cịn trách nhiệm dạy, giáo dục con mình là phần thầy cơ giáo, có
những em bị bệnh nhưng cha mẹ khơng hề biết vẫn cho con đi học có khi các
em đi học cả buổi mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả khi các em bị ốm mà phụ huynh
cũng không quan tâm tới các em. Với các trường hợp này đòi hỏi giáo viên cần
phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu
rằng kết quả học tập của các em có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
gia đình và nhà trường. Yêu cầu quan tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần kiểm
tra bài vở của các em sau mỗi buổi học ở trường xem con mình đã học những
mơn nào, các em có ghi chép đủ không, giúp các em soạn sách vở trong thời
gian đầu và theo dõi kiểm tra nhắc nhở các em việc soạn sách vở khi cho các em
đã tự làm, hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần ở nhà, chuẩn bị cho bài mới. Cịn
giáo viên ngồi họp phụ huynh theo kế hoạch chỉ đạo định kì chung 3 lần/ năm
học, phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh bằng phiếu liên lạc hay
trực tiếp trao đổi với phụ huynh khi cần thiết. Bên cạnh đó giáo viên cần phối
hợp với hội phụ huynh của lớp nhờ hội trưởng của lớp giúp đỡ.
4.4. Ví dụ:
Lớp tơi có 4 em thường xuyên quên mang tập vở, không học bài ở nhà,
lần họp phụ huynh đầu tiên cha mẹ của các em không đi. tôi đã liên lạc trực tiếp
với phụ huynh, đến tận nhà thơng báo tình hình học tập của các em và nhờ phụ
huynh tiếp tay với nhà trường, bản thân tôi gặp trực tiếp hai lần trao đổi với bố
mẹ của các em đó để phụ huynh hiểu được vai trị của gia đình trong việc dạy
các em là rất quan trọng, mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình khơng thể
tách rời nhau. Thời gian sau cha mẹ 4 em đó đã quan tâm tới các em hơn và
thường xuyên liên lạc với tơi, kì họp phụ huynh lần hai cha mẹ các em đi đầy
đủ. Sau một thời gian tôi thấy 4 học sinh đó có tiến bộ rõ rệt, cho đến nay cả 4
em đều học khá tốt.
16/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Tóm lại: Giáo viên cần giữ mối liên hệ thường xuyên với phụ huynh học
sinh, cần nhiệt tình, mềm dẻo trước những phụ huynh khó tính, phải thường
xun trao đổi và tư vấn cho phụ huynh hiểu được quá trình học tập của các em
tốt phải có sự hỗ trợ quan tâm từ phía gia đình.
4.5. Tổ chức thực hiện các giải pháp
4.5.1. Mục đích
* Tác động giáo dục:
Phối kết hợp với phụ huynh đưa con em đến trường đầy đủ, thường
xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng
dẫn phụ huynh cơ bản nắm được về cách đọc, các phát âm chữ cái, cách đánh
vần vần, …để phụ huynh nắm rõ cách dạy học, hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em
mình ở nhà.
Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng
dạy học, tự làm thêm tranh ảnh, mơ hình, sưu tầm thêm những mơ hình vật thật
để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời tạo điều kiện cho các em có đầy đủ sách
giáo khoa, đồ dùng học tập cần thiết .
Xây dựng mơ hình đơi bạn cùng tiến kèm cặp nhau.
Giáo viên có thể cho học sinh học yếu, đọc yếu để ngồi gần với một học
sinh đọc thành thạo. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh
vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh, ngay từ
đầu năm giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức
giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các học sinh trung bình yếu. Các em chưa
nhận được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 29 chữ cái đơn giản, giáo viên nên
dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ cái
cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
* Phần học âm:
Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản
một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới
có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép
các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu.
Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con
chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác
nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thì tơi phân tích cho học sinh hiểu
và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong
sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
17/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Trong từng tiết học, từng bài ơn tơi ln tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện
sự tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ….. từ đó củng cố
thêm kiến thức cho học sinh.
* Phần học vần:
Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được
làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh
nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
Để giúp trẻ học tốt phần vần, tơi tập cho học sinh thói quen:nhận diện,
phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.
VD:
Học vần ăm :
Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ăm: vần ăm gồm 2 âm:
âm ă và âm m đứng sau
Vị trí âm trong vần: âm ă đứng trước, âm m đứng sau.
Đánh vần vần ăm:
Hướng dẫn học sinh: âm ă đứng trước , ta đọc ă trước, âm m đứng sau ta
đánh vần vần ăm như sau : á - mờ - ăm.
Đọc trơn vần:
: ăm
Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh để ghép vần
Yêu cầu các em: chọn đúng hai con chữ: ă và m
Ghép đúng vị trí
: ă trước m sau
Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn
vần như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ăm.
Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như
thế , nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho
các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn
vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt.
Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa Tiếng Việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ
ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học
sinh đọc được các từ và câu ứng dụng trong bài, giáo viên cho học sinh nắm
chắc các vần, sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học, để đọc tiếng,
đọc từ của bài.
VD: dạy vần ăm có từ con tằm.
Sau khi học sinh nắm vững vần ăm, nhìn và đọc được vần ăm một cách
chắc chắn. Giáo viên đưa ra từ con tằm và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng
trước vần ăm (âm t) dấu thanh gì ở trên vần ăm (dấu huyền) vậy ta có thể ghép
và đánh vần : tờ - ăm - tăm- huyền - tằm, đọc trơn : tằm, ghép từ : con tằm.
Các vần khó phát âm: ưu, ươu, ươ, uya, uynh, uych, uyên, uyêt,
oan, oang, oăn, oăng, oa, ao. Tôi cho các em phát âm theo GV bằng cách nghe
18/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
và nhìn theo khẩu hình để phát âm cho đúng. Sau đó, tơi cho học sinh phát âm
và nhận xét theo nhóm đơi, nhóm bốn….
Giáo viên có thể sử dụng Hình ảnh để cho học sinh hứng thú nhìn vào
tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tị mị, ham học hỏi của học sinh
giúp các em chủ động trong giờ học.
* Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh
trung bình, yếu. Học sinh khá- giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần,
chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả
năng nhận biết tốt. Cịn học sinh trung bình, yếu các em nhận biết cịn chậm,
chưa nắm chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc
từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập
đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp
các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Giáo viên tránh nóng vội đọc
trước cho các em đọc lại, dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của
học sinh. Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu,
đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần
tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là
nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
dạy đọc ở tiểu học. Do vậy dể khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu
điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng dẫn
học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói riêng và
ở tiểu học nói chung. Đó là:
Đọc mẫu:
Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc
của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và
diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý nghe
đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên
đứng ở vị trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh thoảng mắt
phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng khơng để bài đọc bị gián đoạn.
Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 3 bài đầu) giáo viên
chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở giai
đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để tạo
cho các em có thói quen làm việc với sách.
Hướng dẫn đọc
Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài:
Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng
Dạng văn xuôi
19/29
Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc
Cụ thể là trong 42 bài đọc thì có:
23 bài dạng văn xi
19 bài dạng thơ
Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1
Luyện đọc từ ngữ
Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi
luyện đọc đúng tồn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong
phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn
khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc cần lựa chọn
thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm
sai để cho các em luyện đọc. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp tơi vẫn thực hiện
điều này.
Thí dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan”
Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau
“ Hoa lan, lá dày, lấp ló”
Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngồi những từ trên tơi đã tìm
thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh thẫm, nụ
hoa, cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà…” Sở dĩ tôi đã
lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tơi dạy vần cịn một số ít em
đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh. Cụ thể như:
Từ
Học sinh đọc nhầm
Xanh thẫm
Sân thấm
Nụ hoa
Nụ hao
Cánh xoè ra duyên dáng
Cánh xèo ra duyên dáng
Ngan ngát
Ngan ngác
Toả khắp vườn, khắp nhà
Toả khắc vườn, khắc nhà
Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm thấy
khó đọc trong khi phát âm.
Thí dụ: Bài “Chú công”
SGK chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng lánh”
nhưng các em học sinh lớp tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là khó đọc đó
là: “màu sắc, x trịn” vì khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc” với “màu xắc”, “xoè
tròn” với “xèo tòn”
Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, giáo viên nên kết hợp phân tích tiếng để
giúp học sinh nhớ lại những âm vần đã học. Tuy nhiên chúng ta cần tập trung
gọi những học sinh đọc còn yếu, song để giúp những em này đọc được đúng thì
20/29