Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

tiểu luận môn xây dựng văn hóa cộng đồng, mối quan hệ thầy – trò trong văn hóa học đường ở các trường đại học trên địa bàn thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.81 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong môn Xây dựng văn hóa cộng đồng, tơi lựa chọn đề tài “Mối
quan hệ thầy – trị trong văn hóa học đường ở các trường đại học trên
địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần
bởi những lý do chính như sau:
Thứ nhất, văn hóa học đường giữ vai trị vơ cùng quan trọng trong sự
nghiệp phát triển của đất nước bởi nó đóng góp một phần khơng nhỏ trong
q trình giáo dục nhân cách, giáo dục tri thức.
Văn hóa làm nên đặc trưng riêng của mỗi quốc gia. Nước Việt Nam ta
tự hào trước bạn bè năm châu với 4000 năm lịch sử hào hùng, với nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chính nền văn hóa đó đã phát huy sức
mạnh trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước. Bởi ngày nay, văn hóa đã
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của xã hội. Mỗi một lĩnh vực trong đời sống, xã
hội, góp phần làm nên sự phát triển của đất nước như: giáo dục, giao thơng,
giao tiếp, gia đình, cơng sở, kinh doanh,...đều mang những giá trị văn hóa
riêng của nó. Đặc biệt trong số đó vai trị của giáo dục luôn được đặt lên hàng
đầu. Một đất nước khơng thể nào phát triển nếu như khơng có tri thức. Giai
đoạn sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành cơng, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hịa được thành lập, nguy cơ lớn nhất đối với nhà nước non trẻ
khi đó là hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói, hơn 90% dân số mù chữ. Và nhiệm
vụ cấp bách khi ấy được Đảng xác định, bên cạnh việc giải quyết vấn đề sinh
tồn diệt “ giặc đói” chính là vấn đề diệt “ giặc dốt” xóa nạn mù chữ. Đảng và
Nhà nước ta luôn nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục và đưa nó
thành quốc sách. Đặc biệt là trong thời đại số 4.0 như hiện nay, nếu không coi
trọng giáo dục, trau dồi tri thức thì sẽ dẫn tới nguy cơ tụt hậu với quốc tế.
Khía cạnh của giáo dục chính là văn hóa học đường. Thực tế đã cho
thấy, văn hóa học đường là môi trường vô cùng tốt và phù hợp trong việc giáo
1



dục nhân cách, trang bị tri thức, giáo dục thế hệ trẻ về cả đức, trí, thể mỹ,
sống có hồi bão và ước mơ. Đặc biệt đối với sinh viên thời kỳ tồn cơng hóa,
thời kỳ nền cơng nghiệp 4.0 bùng nổ trên tồn cầu, thì mơi trường học đường
sẽ giúp trang bị những tri thức cũng như kỹ năng cần thiết để đáp ứng được
nhu cầu của thời đại. Nếu sinh viên trong thời kỳ này mà không được trang bị
đầy đủ những tri thức, kỹ năng cần thiết, đặc biệt là ngoại ngữ và tin học thì
sẽ dẫn tới nguy cơ bị đào thải rất cao. Vì thế, mơi trường học đường có vai trị
vơ cùng quan trọng và nếu như môi trường này thiếu đi yếu tố văn hóa thì sẽ
mất đi chức năng truyền tải tri thức, giáo dục nhân cách.
Thứ hai, mối quan hệ giữa thầy và trò là mối quan hệ then chốt trong
văn hóa học đường
Trong cấu trúc của văn hóa học đường có những mối quan hệ cơ bản
như mối quan hệ giữa thầy và trò, mối quan hệ giữa trò với trị, mối quan hệ
giữa trị với các cán bộ, cơng nhân viên trong nhà trường, mối quan hệ giữa
nhà trường với phụ huynh, mối quan hệ giữa nhà trường với các tổ chức,cơ
quan, thiết chế xã hội khác,... Với mỗi mối quan hệ lại mang những văn hóa
ứng xử khác nhau, làm nên những giá trị của văn hóa học đường.
Tuy nhiên, dẫu nói thế nào thì mối quan hệ giữa thầy và trị ln ln
là mối quan hệ cơ bản nhất và cũng nhận được nhiều sự quan tâm nhất. Thậm
chí đơi khi, văn hóa ứng xử giữa thầy và trò cũng đủ sức đại diện cho một nền
văn hóa học đường. Văn hóa ứng xử giữa thầy và trị ln ln nhận được sự
quan tâm của tồn xã hội. Người ta sẽ nhìn vào mối quan hệ này để đánh giá
bộ mặt của nền văn hóa học đường ấy có chuẩn mực hay khơng.
Thứ ba, mối quan hệ giữa thầy và trị ln nhận được sự quan tâm đặc
biệt của toàn xã hội.
Nếu hàng ngày theo dõi truyền thơng, báo đài thì ta có thể dễ dàng
nhận thấy những bản tin, thông tin, tin tức liên quan đến những vấn đề ứng xử
trong văn hóa học đường ln được xuất hiện thường xuyên. Dù là những mặt
tích cực hay tiêu cực, được tôn vinh hay bị lên án thì những vấn đề đó đều
2



nhận được sự quan tâm của xã hội. Điều này chứng minh vị trí của giáo dục
trong xã hội hiện nay.
Xã hội ngày càng phát triển hơn cùng với đó là trình độ dân trí cũng
được nâng cao. Từ đó, xã hội cũng sẽ có những nhận thức ngày một chính xác
hơn về tầm quan trọng của giáo dục cũng như văn hóa học đường. Điều này
có thể dễ dàng thấy được qua những thời kỳ lịch sử của dân tộc ta. Từ việc chỉ
cho cho một bộ phận rất nhỏ trong xã hội có cơ hội đi học như con vua, con
quan đến việc mở rộng giáo dục toàn dân. Thậm chí trong thời đại số ngày
nay cịn phải giáo dục nâng cao để tạo động lực cho sự phát triển của đất
nước. Hay như việc chỉ chú trọng vào giáo dục kiến thức thì ngày nay việc
giáo dục phát triển tồn diện về đức, trí, thể, mỹ cũng được phổ biến trong
nền giáo dục nước nhà.
Đảng và Nhà nước ln nhận thức được vai trị quan trọng của giáo dục
trong công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh tồn cầu hóa
hiện nay. Xun xuốt những kỳ đại hội Đảng, vấn đề giáo dục luôn được coi
là vấn đề trọng tâm. Đảng và Nhà nước đã sớm có nhận thức cần phải xây
dựng văn hóa học đường, lấy đó làm động lực cho sự phát triển. Phong trào “
Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa” được phát động trong đó yếu tố xây
dựng văn hóa học đường được xem là nhiệm vụ trọng tâm. Bộ Giáo dục –
Đào tạo và bộ Văn hóa – Thơng tin ( nay là Bộ Văn hóa thể thao và du lịch)
đã ký kế hoạch phối hợp số 2723 ngày 12/4/2001 về việc “ Phối hợp thực hiện
phong trào tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa trong trường học”.
Đến nay, sau 16 năm thực hiện, phong trào đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể, từng bước xây dựng văn hóa học đường văn minh, chuẩn mực.
Thứ tư, tuy nhiên trong thực tế đang diễn ra thì mối quan hệ thầy trị
đang có những mặt tích cực và hạn chế nhất định.
Từ ngàn đời nay, tôn sư trọng đạo luôn là truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam ta. Đến tận ngày nay, truyền thống ấy vẫn được gìn giữ và phát

huy. Nhà giáo ln là nghề được xã hội kính trọng. Hàng năm, những ngày lễ
3


lớn để tỏ lịng biết ơn tới thầy giáo, cơ giáo như “ Ngày Nhà giáo Việt Nam
20-11” vẫn luôn được tổ chức long trọng, nhận được sự quan tâm của học
sinh, phụ huynh và thâm chí của tồn xã hội.
Môi trường học đường vẫn luôn được xem là môi trường văn mình, là
mơi trường giáo dục tốt nhất. Ở đó, học sinh, sinh viên khơng chỉ nhận được
tri thức mà còn được trang bị cả những kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử từ
những người thấy của mình. Đặc biệt là trong môi trường đại học, kỹ năng
thực hành được ưu tiên hàng đầu. Bước đổi mới đột phá trong các trường đại
học ở Việt Nam đó là thực hiện dạy và học theo hình thức tín chỉ thay cho
hình thức niên chế trước đây. Bước đổi mới này đòi hỏi yêu cầu cao hơn về
kỹ năng của sinh viên, giúp cho sinh viên được tăng cường khả năng tư duy,
phản biện.
Trong trường đại học, những người thầy đa phần là thạc sỹ, tiến sỹ,
thậm chí là phó giáo sư, giáo sư. Nhưng cũng khơng vì thế mà họ giữ thái độ
xa cách với sinh viên của mình mà thay vào đó là thái độ hịa nhã, hành vi
ứng xử chuẩn mực, chân thành, ln hết lịng vì sinh viên.
Nhưng, bên cạnh những yếu tố tích cực ấy thì mối quan hệ giữa thầy và
trò hiện nay xuất hiện khá nhiều những hạn chế, tiêu cực cần phải khắc phục
để trả lại những giá trị tốt đẹp cho văn hóa học đường.
Thời đại hội nhập, thời đại tồn cầu hóa tuy rằng mang đến cho đất
nước rất nhiều cơ hội phát triển. Nhưng kéo theo những cơ hội ấy cũng lại
xuất hiện đầy rẫy những nguy cơ và thách thức, đặc biệt trong lĩnh vực văn
hóa nói chung và văn hóa học đường nói riêng. Nguy cơ phai nhạt bản sắc
dân tộc, những tư tưởng lai căng, không lành mạnh dần dần xâm nhập vào
cuộc sống, đặc biệt là ở giới trẻ. Và những bạn học sinh, sinh viên cũng khơng
ngoại lệ.

Khơng biết vơ tình hay cố ý mà một bộ phận không nhỏ sinh viên đôi
khi quên mất câu “ Nhất tự vi sư bán tự vi sư” để rồi dẫn đến những hành vi
ứng xử vô cùng tồi tệ với những người thầy của mình. Hay khẩu hiệu “ Tiên
học lễ hậu học văn” đôi khi cũng bị lãng quên trong môi trường đại học.
4


Những yếu tố văn hóa ngoại lai xâm nhập, dẫn tới nhận thức sai lệch của một
bộ phận học sinh, sinh viên mà quên đi bản sắc văn hóa đậm đà của dân tộc,
Từ đó dẫn tới những hành vi ứng xử đáng buồn trong một môi trường chuẩn
mực, lành mạnh như học đường.
Bên cạnh đó thì cũng có một bộ phận những người thầy đôi khi đã quên
mất vị trí của mình để rồi dẫn tới những hành vi khơng đáng có. Những vấn
đề tiêu cực trong văn hóa học đường xuất hiện nhiều hơn, làm ảnh hưởng
không tốt tới sự phát triển của xã hội.
Thực tế đó đang rung lên hồi chng cảnh tỉnh tồn xã hội. Nếu như
mối quan hệ thầy – trò mất đi những giá trị, những chuẩn mực vốn có thì kéo
theo đó là mơi trường văn hóa học đường cũng bị hủy hoại. Một khi điều đó
xảy ra thì sẽ dẫn tới hậu quả khơn lường. Vì vậy, việc xây dựng văn hóa học
đường đang là nhu cầu cấp bách, quan trọng và cần thiết nếu như muốn đất
nước phát triển giàu mạnh hơn.
Bởi những lý do trên, tôi đã thấy được tầm quan trọng của văn hóa học
đường nói chung và hành vi ứng xử trong mối quan hệ giữa giảng viên, sinh
viên nói riêng. Cũng như thấy được những mặt tiêu cực, những nguy cơ,
thách thức mà mối quan hệ này đang phải đối mặt. Vì vậy, tơi lựa chọn đề tài
này nhằm mong muốn được đề xuất những giải pháp, góp phần xây dựng đề
tài này tốt hơn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tập trung nghiên cứu về mối quan hệ giữa giảng viên và sinh

viên trong văn hóa học đường.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tập trung nghiên cứu sinh viên và giảng viên các trường đại
học trên địa bàn thành phố Hà Nội
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài tiểu luận hướng tới làm rõ mối quan hệ thầy – trị dưới những
góc nhìn lý luận và làm rõ thực trạng về mối quan hệ này ở trong giai đoạn
hiện nay
5


- Với cơ sở lý luận đó, mục đích cuối cùng đề tài hướng đến chính là
xây dựng, hồn thiện mối quan hệ giữa thầy và trị trong văn hóa học đường.
Góp phần xây dựng nền văn hóa học đường văn minh, xanh – sạch – đẹp cả
về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu ra ở trên, đề tài này cần phải
thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Một là, cần phải xây dựng cơ sở lý luận về văn hóa học đường nói
chung và mối quan hệ thầy và trị trong văn hóa học đường nói riêng.
- Hai là chỉ ra được thực trạng của mối quan hệ thầy - trị trong văn
hóa học đường trong giai đoạn hiện nay. Trong đó cần phải bao gồm cả những
biểu hiện tích cực và những biểu hiện tiêu cực. Từ đó tìm ra những ngun
nhân của thực trạng ấy
- Ba là dựa trên cơ sở những cơ sở lý luận và thực trang về mối qua hệ
thầy trị trong văn hóa học đường để xây dựng hệ thống giải pháp cho vấn đề
này, nhằm phát huy những biểu hiện tích cực và hạn chế những biểu hiện tiêu
cực trong mối quan hệ thầy trò trong giai đoạn hiện nay.


6


NỘI DUNG
Chương I
Mối quan hệ thầy - trò trong văn hóa học đường từ góc nhìn lý luận
1. Một số quan niệm về văn hóa và văn hóa học đường.
1.1. Quan niệm về văn hóa
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, mỗi người
đều có cách nhìn, có phương pháp nghiên cứu riêng. Đồng thời họ cũng đưa
ra những quan niệm khác nhau về văn hóa:
Văn hóa theo từ gốc Latin “culture” lúc đầu chủ yếu nói về mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên. Sau đó, thuật ngữ này mới được mở rộng
sang lĩnh vực xã hội, nói về mối quan hệ giữa con người với con người, có
nghĩa là giáo dục, ni dưỡng, giáo hóa, rèn luyện, hồn thiện nhân cách.
Cách đây hai nghìn năm, ngay từ thời La Mã cổ đại, nhà hùng biện
XiXêzơn đã nói tới văn hóa tinh thần và ơng nhấn mạnh triết học là văn hóa
tinh thần. Ở Phương Đơng, Mạnh Tử cho rằng văn hóa chính là sự giáo hóa,
giáo dục con người.
Trong tác phẩm “ Văn hóa nguyên thủy” ( 1871) E.B.Tylor đã đưa ra
định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói
chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và
một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một
thành viên của xã hội”. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một,
nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người.
Ở một khía cạnh khác thì F.Boas đã đưa ra định nghĩa “Văn hóa là tổng
thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi
của các nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính
cá nhân trong mối quan hệ với mơi trường tự nhiên của họ, với những nhóm
người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên

này với nhau”.
7


Định nghĩa của UNESCO:
Nguyên giám đốc UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa thế giới ơng F. Mayor đã đưa ra khái niệm về văn hóa mang tính khái qt
“ Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc
khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục
tập quán, lối sống và lao động”. Khái niệm này sau khi đưa ra đã được hội
đồng quốc tế chấp nhận tại hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn
hóa tại Vơnidơ – Pháp năm 1970.
Năm 1988, nhân dịp lễ phát động Thập kỷ thế giới phát triển của văn
hóa ( 1988 – 1997), Tổ chức UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như
sau: “ Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị, bao gồm các mặt tình cảm, tri
thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Nó khơng thuần túy bó hẹp trong sáng tác
nghệ thuật, mà bao gồm cả phương thức sống, những quyền cơ bản về con
người, truyền thống tín ngưỡng”.
Định nghĩa văn hóa của một số nhà nghiên cứu Việt Nam:
Không như trên thế giới, ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa ở Việt
Nam ra đời khá muộn. Khái niệm về văn hóa trong lịch sử được đề cập đến
với những góc nhìn khác nhau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam đã khẳng
định: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo ấy là văn hóa. Văn
hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện
của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của
đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”. Trong quan niệm của Người cho thấy

văn hóa bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần, là sản phẩm hoạt động
của con người.

8


Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng quan niệm rằng: “Nói tới văn hóa là nói
tới một lĩnh vực vơ cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì
khơng phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình
tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm
cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài
năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản
và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ
mình và khơng ngừng lớn mạnh”
Cùng với đó rất nhiều những học giả nghiên cứu văn hóa cũng đều đưa
ra quan niệm của mình:
Trong cuốn “ Cơ sở văn hóa Việt Nam”, GS. TS Trần Ngọc Thêm đã
đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “ Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội”.
Trong quan niệm của học giả Đào Duy Anh, văn hóa được hiểu ở đây là văn
hóa sinh hoạt. Ơng cho rằng văn hóa khơng chỉ là riêng học thuật, có tính chất
cao thượng đặc biệt. Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các
phương tiện sinh hoạt của lồi người, cho nên có thể nói rằng văn hóa tức là
sinh hoạt.
Giáo sư Trần Quốc Vượng tiếp cận văn hóa theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp: “ Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử,
văn hóa theo nghĩa hẹp như văn hóa nghệ thuật, học vấn ...và tùy từng trường
hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau.”

Theo Nguyễn Đăng Duy, “ Văn hóa là hệ thống những giá trị chuẩn
mực xã hội biểu hiện ra trong mọi lối sống, nếp sống vật chất và tinh thần của
một cộng đồng người hay một quốc gia.” Nói như vậy, mối quan hệ giữa thầy
và trị trong văn hóa học đường chính là những giá trị chuẩn mực của xã hội

9


được biểu hiện ra trong môi trường học đường, thông quan hoạt động giáo
dục ở nhà trường.
Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã đưa ra một định nghĩa độc
đáo cho rằng: văn hóa khơng phải là một thực thể, một vật mà là một quan hệ
- quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại... Quan hệ ấy biểu hiện
thành kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc
người khác, một cá nhân khác.
Có thể thấy, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định
nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn
hóa. Như định nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập
hợp những thành tựu mà con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát
triển, từ tri thức, tơn giáo, đến đạo đức, pháp luật… Còn các định nghĩa của F.
Boas, tổ chức UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con
người trong cuộc sống là văn hóa.
Trên cơ sở kế thừa, phân tích kiến thức của các nhà khoa học trong và
ngồi nước, Nhóm tác giả Giáo trình lý luận văn hóa Mác – Leenin của khoa
Văn hóa xã hội chủ nghĩa, phân viện Báo chí và Tuyên truyền, nay là Học
viện Báo chí và Tuyên truyền đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “ Văn
hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích lũy trong lịch
sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị này được cộng
đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống xã hội và liên tiếp truyền lại cho thế
hệ sau. Văn hóa thể hiện trình độ phát triển và những đặc tính riêng của mỗi

dân tộc.”
1.2. Quan niệm về văn hóa học đường
Nếu như văn hóa đã được đi sâu nghiên cứu, tìm tịi từ hàng trăm năm
nay với rất nhiều những quan điểm và phương pháp tiếp cận khác nhau. Thì
văn hóa học đường lại là một lĩnh vực mới được nghiên cứu chuyên sâu. Mới
đây trên thế giới mới có những quan niệm về văn hóa học đường được đưa ra.
Thuật ngữ này xuất hiện trong những năm 1990 trong một số nước phát triển
10


như Anh, Mỹ, Úc…và dần dần trở nên phổ biến trên thế giới với ý nghĩa tổng
quát:Văn hóa học đường là những giá trị, những kinh nghiệm lịch sử của xã
hội lồi người đã tích lũy trong q trình xây dựng hệ thống giáo dục và quá
trình hình thành nhân cách.
Trong cuốn “ Văn hóa học đường”, PGS. TS Phạm Ngọc Trung đã nói:
Ở Việt Nam, khái niệm về văn hóa học đường khá mới mẻ và vẫn chưa có
nhiều hướng tiếp cận. Minh chứng rõ nhất cho điều này đó là khơng tìm thấy
được một định nghĩa hoặc quan niệm cụ thể nào về văn hóa học đường trong
các bộ từ điển lớn được lưu thông rộng rãi ở nước ta hiện nay như: Từ điển
triết học, Từ điển Bách khoa Việt Nam,...
Dù vậy, trong những năm trở lại đây vấn đề văn hóa học đường đã nhận
được sự quan tâm rất lớn đồng thời cũng có nhiều nhà nghiên cứu đã bắt đầu
đi sâu, tìm hiểu về vấn đề này. Dễ thấy được vấn đề này đã thường xuyên
được đề cập tới trong những bài nghiên cứu, những bài luận văn trên tạp chí
khoa học.
Trong q trình tìm hiểu nghiên cứu về đề tài này, tôi thấy được một số
ý kiến của các tác giả Việt Nam về văn hóa học đường như sau:
Tác giả Trần Thị Tùng Lâm trong luận văn thạc sỹ về giáo dục văn hóa học
đường cho sinh viên trường Cao đẳng Cơng nghiệp đã cho rằng: văn hóa học
đường là một bộ phận của văn hóa, bao gồm 3 thành tố cơ bản là văn hóa

nhận thức, văn hóa tổ chức và văn hóa ứng xử. Dễ dàng thấy được, mối quan
hệ giữa giảng viên và sinh viên trong văn hóa học đường tơi muốn đề cập đến
nằm trong văn hóa ứng xử.
Văn hóa ứng xử là tồn bộ các nhân tố văn hóa được chủ thể ứng xử
chọn lọc, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động ứng xử, thể hiện bản sắc ứng
xử của chủ thể đó nhằm tạo nên những giá trị, những khn mẫu ứng xử.
Trong văn hóa ứng xử học đường, các thành viên phải ứng xử một cách có
văn hóa, đề cao tinh thần đồn kết, tơn trọng lẫn nhau để đạt được những kết
quả đào tạo như mong muốn. Cùng với đó trong văn hóa ứng xử, trong văn
11


hóa nhận thức, tác giả cũng nhấn mạnh đến việc các thành viên trong trường
từ thầy đến trò đều phải nhận thức rõ được mục tiêu đào tạo để từ đó có
những hành vi ứng xử tương ứng, mang tính chuẩn mực sư phạm. Trong đó,
tác giả luận văn đã nêu ra những biểu hiện cụ thể của văn hóa học đường
trong trường đại học, bao gồm: Trang phục và Giao tiếp ứng xử.
Vậy ở đây, muốn thấy rõ được mối quan hệ giữa giảng viên – sinh
viên thì cần phải tập trung vào những biểu hiện giao tiếp, ứng xử.
Theo Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc thì: “Văn hóa học đường là hệ
các chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, thầy cô giáo, các vị
phụ huynh và các em học sinh, sinh viên có các cách thức suy nghĩ, tình cảm,
hành động tốt đẹp”.
Nói một cách khái qt thì văn hóa học đường chính là những nét đẹp
được thể hiện ở nơi học đường. Nhưng, dù là mơi trường nào đi chăng nữa thì
vẫn tồn tại song song những mặt tích cực và tiêu cực, mơi trường học đường
cũng khơng nằm ngồi trong số đố. Vì vậy, cần phải xây dựng văn hóa học
đường, cụ thể là phát huy những mặt tích cực đồng thời đấu tranh ngăn chặn
những mặt tiêu cực.
Dù là góc nhìn nào thì chúng ta cũng phải khẳng định, văn hóa học

đường là một bộ phận của văn hóa, là văn hóa được thể hiện trong khơng gian
trường học. Và ở đề tài này tôi muốn đề cập đến văn hóa trong khơng gian
trường đại học.
Trường đại học là cơ sở giáo dục đại học . Đó là nơi làm việc của thầy và trò
là chủ yếu. Nhưng khác với môi trường trung học phổ thông, đại học như một
xã hội thu nhỏ mà ở đó cũng chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều nhân tố
khác trong xã hội.
2. Mục tiêu của văn hóa học đường
Mục tiêu chung nhất của văn hóa học đường là xây dựng trường học
lành mạnh, tạo lập các mối quan hệ thân thiện, chuẩn mực và đạt được mục
đích đó là giáo dục cả về kiến thức lẫn nhân cách.
12


Văn hóa học đường ở mỗi nhà trường, nhất là trong những trường đại
học sẽ tạo niềm tin cho xã hội trong việc thực hiện chức năng giáo dục và sứ
mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần đào
tạo, cung ứng cho xã hội những người công dân tốt, một nguồn nhân lực có
phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
3. Nội dung văn hóa học đường
Xét theo những quan niệm, định nghĩa cũng như mục tiêu của văn hóa
học đường, có thể thấy rằng nội dung của văn hóa học đường được thể hiện
trong những khía cạnh dưới đây:
Thứ nhất là văn hóa mơi trường:
Mơi trường trong văn hóa học đường có vai trị vơ cùng quan trọng.
Học đường là nơi để tiến hành những hoạt động dạy và học, truyền đạt tri
thức, đạo đức cũng như kinh nghiệm sống. Với sự tham gia của cơ sở vật chất
trường học, cán bộ quản lý giáo dục, thầy, trò, chương trình, nội dung giáo
dục… để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đào tạo của từng trường học.
Do vậy, nói đến văn hóa học đường trước hết phải nói đến môi trường

như cảnh quang sư phạm, cây xanh, hoa kiểng, nơi chỗ vui chơi, giải trí, sinh
hoạt, hội họp, học tập, thực hành thí nghiệm, vệ sinh an tồn…như thế nào.
Tổng quan tồn cảnh nhà trường đều tốt lên nét văn hóa của trường học. .
Mơi trường có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý cũng như ứng xử của người học.
Vì thế, cần phải xây dựng mơi trường học đường theo đúng khẩu hiệu “
Xanh – Sạch – Đẹp” cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tức là khơng chỉ tạo ra
một khơng gian đẹp về hình thức mà cịn cần cả đẹp trong văn hóa, thể hiện
qua cách ứng xử.
Ở đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu về mối quan hệ giữa thầy và trị
trong mơi trường đại học, vì thế mà cũng cần đi sâu hơn về văn hóa mơi
trường với vấn đề này. Sinh viên đại học thời kỳ ngày nay rất cần môi trường
học tập tốt, đầy đủ tiện nghi như thư viện phịng học, phịng đọc, phịng thực
hành, phịng tin học,...và khơng gian học tập lành mạnh, thoải mái. Từ đó
13


người học có thể thỏa sức tìm tịi, sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức. Những người
giảng viên cũng cần có môi trường dạy học chuẩn mực, đầy đủ trang thiết bị
để hỗ trợ giờ học được thành công.
Dĩ nhiên trong tình hình hiện nay nhiều trường học cịn khó khăn về cơ sở vật
chất nhưng cũng cần phải đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của giảng
viên và sinh viên về mơi trường học đường, để có thể theo kịp với bước tiến
công nghệ số của thế giới.
Thứ hai là văn hóa tổ chức:
Trường học là một tổ chức, văn hóa học đường là văn hóa tổ chức. Một
tổ chức sau khi được hình thành, tồn tại và phát triển thì tự khắc nó sẽ dần dần
hình thành nên những nề nếp, chuẩn mực, lễ nghi, niềm tin và giá trị. Đó là
sợi dây vơ hình gắn kết các thành viên trong tổ chức lại với nhau cùng phấn
đấu cho những giá trị chung của tổ chức. Đó là nghi lễ, đồng phục, khơng khí
học tập trật tự, sinh hoạt nề nếp, đi học đúng giờ, tôn trọng luật giao thơng…

Có thể nói, văn hóa tổ chức là yếu tố cơ bản trong văn hóa học đường,
nó hiện diện trong khắp các hoạt động của nhà trường.
Thứ ba là văn hóa ứng xử:
Xét trên nhiều khía cạnh, văn hóa ứng xử tương đồng với văn hóa giao
tiếp, văn hóa hành vi (trong mơi trường học đường). Văn hóa học đường là
hành vi ứng xử của các chủ thể tham gia hoạt động giáo dục đào tạo trong nhà
trường, là lối sống văn minh trong trường học. Và những hành vi ứng xử đó
được thể hiện rõ nét qua hành vi ứng xử của những mối quan hệ cơ bản như:
-

Hành vi ứng xử của thầy, cô giáo với học sinh, sinh viên: Được thể hiện

như sự quan tâm đến học sinh, sinh viên, biết tôn trong người học, biết phát
hiện ra ưu điểm, nhược điểm người học để chỉ bảo…Thầy, cô luôn gương
mẫu trước học sinh, sinh viên. Trong môi trường đại học, những người thầy
cần phải trang bị cho sinh viên của mình những tri thức, kỹ năng cần thiết. Và
từ đó hướng dẫn sinh viên thực hành, sáng tạo, tạo sự thích cực, chủ động của
sinh viên trong thời kỳ mới.
14


-

Hành vi ứng xử của học sinh, sinh viên với thầy, cơ giáo: thể hiện bằng

sự kính trọng, u q của người học với thầy, cô giáo. Hiểu được những chỉ
bảo giáo dục của thầy, cô và thực hiện điều đó tự giác, có trách nhiệm.
-

Hành vi ứng xử giữa thầy cô, nhà trường với phụ huynh học sinh: Cần


phải có mối liên hệ cần thiết giữa nhà trường và phụ huynh để giúp cho công
tác giáo dục, đào tạo đạt được mục tiêu mong muốn. Từ hai phía cần phải
nhận được sự tôn trọng lẫn nhau, phụ huynh cũng cần nắm bắt được bước đi,
kế hoạch giáo dục của nhà trường.
-

Hành vi ưng xử giữa lãnh đạo với giáo viên, nhân viên: thể hiện người

lãnh đạo phải có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Người lãnh đạo có
lịng vị tha, độ lượng, tơn trọng giáo viên, nhân viên xây dựng được bầu
khơng khí lành mạnh trong tập thể nhà trường.
-

Hành vi ứng xử giữa các đồng nghiệp, học sinh, sinh viên với nhau phải

thể hiện qua cách đối xử mang tính tơn trọng, thân thiện, giúp đỡ lẫn nhau.
-

Hành vi ứng xử giữa nhà trường với các thiết chế xã hội khác, đặc biệt

là với gia đình. Vì đây là hai mơi trường cơ bản nhất góp phần giáo dục nhân
cách, đạo đức, hồi bão của con người. Với mơi trường đại học, nhà trường
cần có nhiều mối liên hệ với các thiết chế xã hội khác như những trường trung
học, đại học hay những cơ quan truyền thơng, cơ quan nghề nghiệp,... Nhằm
giúp ích cho việc thực hành của sinh viên như thực tập, kiến tập, tích lũy kinh
nghiệm, tăng cơ hội nghề nghiệp.
4. Mối quan hệ thầy ( cô) – sinh viên trong văn hóa học đường
Như đã nói ở trên, trong văn hóa học đường có rất nhiều mối quan hệ
giữa các cá nhân với nhau, hoặc những mối quan hệ giữa cá nhân với một

thiết chế xã hội. Và trong một trường đại học, bao giờ sinh viên cũng là lực
lượng đông đảo nhất, là đối tượng đáng được quan tâm nhất trên mọi phương
diện. Vì vậy, trong suốt quá trình ngồi trên ghế nhà trường, sinh viên sẽ có
những mối quan hệ cơ bản như: mối quan hệ với thầy cô, mối quan hệ giữa
các bạn sinh viên với nhau, mối quan hệ với cán bộ viên chức,... Nhưng, mối
15


quan hệ cơ bản nhất trong văn hóa học đường ở các trường đại học vẫn là mối
quan hệ giữa thầy cơ và sinh viên.
Thầy cơ chính là người trực tiếp chỉ dạy, truyền thụ kiến thức cho sinh
viên. Thông qua mỗi buổi học, sinh viên sẽ được tiếp nhận lượng kiến thức
cần thiết cả về đại cương và đặc biệt là những kiến thức về chuyên ngành.
Hơn thế, qua những giờ giảng đó, sinh viên cịn được học tập về phương
pháp, cách tư duy,...từ đó hình thành thế giới quan đúng đắn, có thể nhận
thức, đánh giá được những sự vật hay hiện tượng trong xã hội.
Trong môi trường đại học khác hẳn với môi trường trung học phổ thông.
Ở đây, thầy cô không chỉ chú trọng đến truyền dạy tri thức mà còn đề cao khả
năng tư duy cũng như kỹ năng làm việc.
Hiện nay, chủ trương cải cách giáo dục ở nước ta đó chính là “ lấy người
học làm trung tâm” Trong vài năm trở lại đây, các trường đại học ở Việt Nam
nói chung và thủ đơ Hà Nội nói riêng đã dần dần áp dụng thực sự học chế tín
chỉ, tức là lấy người học làm trung tâm. Thực hiện chủ trương này đồng nghĩa
với việc sinh viên không được học một cách thụ động như trước kia mà cần
phải tích cực, chủ động trong học tập cũng như rèn luyện đạo đức, phẩm chất
chính trị. Với 2/3 thời lượng mơn học là thực hành, giảng viên chỉ có vai trị
hướng dẫn, định hướng thì sinh viên cần phải làm việc thực sự nghiêm túc,
tìm tịi, nghiên cứu tài liệu để có lượng tri thức tốt nhất.
Ở đại học, thầy cô không chỉ làm nhiệm vụ bổ sung tri thức mà còn
phải giúp sinh viên nâng cao khả năng tư duy qua những giờ học thực hành.

Cùng với đó, các thầy cơ cũng sẽ trang bị cho sinh viên của mình những kỹ
năng sống, kỹ năng làm việc nhiều hơn. Bởi sau khi bước chân ra khỏi giảng
đường đại học, sinh viên sẽ phải trực tiếp lao động, làm việc. Vì vậy, đơi khi
những kỹ năng sống mà giảng viên truyền thụ còn hữu ích hơn so với những
lý thuyết trên trang giấy.
Trong cuốn “ Văn hóa học đường” PGS. TS Phạm Ngọc Trung có nói:
Thầy và trị phải cùng nhau xây dựng được một khơng gian văn hóa học
16


đường vừa thân thiện, vừa cởi mở, vui vẻ, có khơng gian cho sự sáng tạo. Để
có những giờ học nhiệt huyết, hiệu quả thì cần phải xây dựng khơng gian văn
hóa học đường hiện đại. Khơng gian văn hóa học đường văn minh, hiện đại,
chuẩn mực phải đáp ứng một số yêu cầu như:
-

Yêu cầu với sinh viên: Trong giờ học, sinh viên cần giữ trật tự, nghiêm

túc lắng nghe, ghi chép bài đầy đủ và tham gia xây dựng bài; thực hiện đúng
quy chế, đặc biệt là cần phải gia vào lớp theo đúng hiệu lệnh.
-

Yêu cầu với giảng viên: Cần phải tạo ra những tiết học thực sự bổ ích,

nhiệt huyết, truyền được cảm hứng và tạo hứng thú cho người học
Có thể thấy được rằng, mối quan hệ thầy cơ và sinh viên chính là mối quan
hệ hạt nhân, đồng thời nó cũng chi phối những mối quan hệ khác để tạo nên
những sắc thái cơ bản nhất của văn hóa học đường.

17



Chương II
Thực trạng và nguyên nhân của mối quan hệ giữa thầy cơ và sinh viên trong
văn hóa học đường tại các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay
1. Thực trạng
Theo số liệu thống kê của Wikipedia thì hiện nay trên địa bàn thành
phố Hà Nội có khoảng gần 100 trường đại học, cao đẳng cùng với đó là
khoảng gần 500.000 sinh viên.
Trong phần thực trạng về mối quan hệ giữa thầy cô và sinh viên, tôi sẽ
đề cập đến những mặt tích cực và tiêu cực ở trường đại học trên địa bàn thành
phố Hà Nội nói chung và sẽ nêu đến thực trạng cụ thể tại trường Đại học
Thương mại.
1.1. Tích cực
1.1.1. Hành vi ứng xử của trị đối với thầy
Đặc trưng trong văn hóa ứng xử của người Việt nói chung đó là cách
cư xử nặng về tình cảm hơn lý trí. Trong ứng xử thì người Việt thường lấy
tình cảm, sự yêu ghét làm nguyên tắc ứng xử. Đặc trưng đó cũng thể hiện
trong văn hóa ứng xử trong học đường, tạo nên những truyền thống tốt đẹp
như “ uống nước nhờ nguồn” , “ tôn sư trọng đạo”. Và đến tận ngày hơm nay
thì đặc trưng ấy vẫn là truyền thống tốt đẹp và đáng tự hào.
Sinh viên hiện nay với đặc điểm trẻ tuổi, có trình độ, năng lực sáng tạo,
lại được trang bị ngoại ngữ, tin học, đặc biệt là có sự hỗ trợ của cơng nghệ
thơng tin hiện đại nên họ có khả năng tiếp nhận cái mới nhanh và linh hoạt,
thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại trên tiến
trình hội nhập, giao lưu quốc tế. Nhưng khơng vì thế mà họ bỏ qua vai trò của
người thầy mà vẫn bày tỏ lịng tơn kính, sự biết ơn, kính trọng với những
người thầy của mình.
Những lễ nghi, quan niệm trong các mối quan hệ giữa thầy – trị vẫn
được giữ gìn. Đa phần học trị đều gìn giữ được truyền thống “ tôn sư trọng

18


đạo” – nét đẹp văn hóa ngàn đời này của dân tộc ta. Dù đã vào môi trường đại
học nhưng những lễ nghi cơ bản thể hiện sự tôn trọng của trị với những
người thầy của mình vẫn hiệ hữu mỗi ngày trên giảng đường.
Chào hỏi, kính trên nhường dưới là nét đẹp trong văn hóa ứng xử của
người Việt hiện nay vẫn được các bạn sinh viên thể hiện trong văn hóa học
đường. Mỗi khi gặp thầy cơ, một câu chào hay một động tác cúi người chào
luôn thể hiện sự tơn kính của sinh viên dành cho thầy cơ của mình. Qua khảo
sát tại Trường Đại học Thương Mại, tôi thấy được đa phần các bạn sinh viên
khi gặp thầy cơ của mình đều cất tiếng chào hỏi với thái độ chân thành, kính
trọng. Đi trên sân trường ta có thể dễ dàng thấy được những cái cúi chào lễ
phép hay những câu chào “ em chào thầy ạ” , “ em chào cô ạ” đầy chân thành.
Và đó khơng chỉ là biểu hiện của riêng đại học thương mại là là biểu hiện
chung của sinh viên theo học ở thành phố Hà Nội nói riêng và sinh viên trên
tồn quốc nói chung. Điều đó ln là niềm tự hào trong văn hóa học đường.
“ Nhất tự vi sư bán tự vi sư” ( Một chữ là thầy nửa chữ cũng là thầy),
sinh viên luôn giữ thái độ kính trọng đối với giảng viên của mình. Dù đơi khi
có những người thầy, người cơ chỉ hơn sinh viên của mình vài tuổi. Tơn trọng
giảng viên cịn được sinh viên thể hiện qua những giờ học trên lớp. Thực hiện
đúng quy chế của nhà trường. Đặc biệt là trong giờ học khơng nói chuyện,
làm việc riêng mà tập trung nghe giảng, tích cực phát biểu xây dựng bài, cùng
với thầy cô đứng lớp tạo nên một giờ học hiệu quả chính là sự tơn trọng nhất
mà sinh viên dành cho giảng viên của mình.
Thực tế cho thấy, trong các giờ học tại trường Đại học Thương mại nói
riêng và các trường đại học khác nói chung, đa phần những tiết học đều rất sôi
nổi, văn minh bên cạnh sự nhiệt huyết của giảng viên là nhờ có sự hăng hái,
tích cực của sinh viên.
“ Một ngày làm thầy cả đời làm cha” vì vậy dù là trong trường học hay

ra ngoài xã hội, dù đang là sinh viên hay đã tốt nghiệp ra trường, những người
học trò khi gặp thầy cơ của mình vẫn ln giữ thái độ kính trọng cùng với sự
19


chân thành, sự biết ơn với những gì mà thầy cô đã truyền dạy lại, không chỉ
về mặt tri thức mà cịn về tình cảm, về những kỹ năng khi bước vào cuộc
sống.
“ Tơn sư trọng đạo” cịn thể hiện ở việc hàng năm, trong những ngày lễ
kỷ niệm nhà giáo như ngày “ Nhà giáo Việt Nam 20/11” nhiều sự kiện được
tổ chức để tri ân thầy cô cũng như thể hiện tấm long của học sinh đối với thầy
cô. Sinh viên dùng lời ca tiếng hát hay những thành tích tốt trong học tập như
một món q ý nghĩa nhất để gửi lời tri ân đối với người thầy của mình.
1.1.2. Hành vi ứng xử của thầy đối với trị
Đa phần các thầy, cơ giáo đều mẫu mực, có cách ứng xử khéo léo, tế
nhị. Sau giáo dục gia đình thì giáo dục trong nhà trường có ảnh hưởng rất lớn
tới nhân cách của con người. Và ở đó thầy cơ chính là những tấm gương sáng
để học trị noi theo.
Dù là xưa hay nay thì thầy cơ ln ln hết lịng vì sinh viên của mình.
Thầy cơ ln đem đến những gì tinh hoa nhất đã tích lũy được để truyền dạy
lại cho sinh viên của mình. Trong văn hóa ứng xử giữa thầy với trị, người
thầy khơng hề có thái độ cao ngạo, xa cách mà ln ln có sự liên kết với
sinh viên của mình. Và mối quan hệ thầy - trị duy trì được tốt đẹp cho tới
ngày nay mà do có sự tơn trọng từ cả hai phía. Khơng chỉ sinh viên dành sự
tôn trọng cho thầy cô mà thầy cô cũng rất tôn trọng sinh viên, thể hiện ở chỗ:
- Luôn dùng lửa, dùng nhiệt huyết của nhà giáo để truyền đạt lại cho sinh
viên những kiến thức bổ ích nhất dù là về lý thuyết hay thực hành
- Luôn giữ thái độ hòa nhã, thân thiện với sinh viên. Đi liền sau câu em
chào thầy ( cô) ạ là những cái mỉm cười và câu “ chào em” đầy thân thiện. Từ
đó tạo được sự thoải mái giữa thầy và trị. Điều đó sẽ giúp cho q trình

truyền thụ cũng như tiếp thu kiến thức diễn ra một cách hiệu quả hơn
- Tôn trọng sinh viên thể hiện ở chỗ xây dựng nội dung bài giảng thật
phong phú và hữu ích, luôn cung cấp những thông tin cần thiết cũng như

20


những kỹ năng chuyên ngành, chuẩn bị hành trang đầy đủ để sinh viên của
mình tự tin bước ra xã hội
- Thầy cơ cũng ln tạo mối quan hệ bình đẳng với sinh viên, sinh viên
cũng được phép nêu ý kiến, được phép tự do sáng tạo. Và bước đổi mới trong
tư duy đó là sinh viên cũng có quyền tranh luận với thầy cô. Hành vi ứng xử
đẹp ở đây là thầy cô luôn luôn sẵn sàng lắng nghe ý kiến của sinh viên, thậm
chí là những ý kiến phản biện.
Có thể nói, dù ở thời kì nào, xã hội nào thì những người thầy vẫn
ln giữ được sự chuẩn mực của mình, góp phần xây dựng văn hóa học
đường chuẩn mực, văn minh, hiện đại.
1.2. Tiêu cực
Bên cạnh những mặt tích cực thì văn hóa ứng xử giữa thầy và trị vẫn
tồn tại song sóng rất nhiều tiêu cực đáng báo động.
Theo ý kiến của bà Phạm Thị Thúy - một nhà xã hội học, là nhà giáo,
nhà tư vấn tâm lý thì “Văn hố ứng xử học đường ở Việt Nam đã ở vào cấp
độ báo động đỏ. Quá nhiều hành vi thiếu văn hoá của học sinh và của cả giáo
viên. Văn hoá học đường đang xuống cấp trầm trọng, là sự xuống cấp đáng sợ
nhất của cả một nền giáo dục!” . Ý kiến này đã nhận được rất nhiều sự đồng
tình. Và sự thật hiện hữu trước mắt đó là văn hố học đường tại các trường
học đang bị xem nhẹ, đặc biệt là trong mối quan hệ thiêng liêng nhất đó là
mối quan hệ giữa thầy và trò.
Thực tế hiện nay , trong mơi trường học đường, nơi văn hố được coi
trọng, xây dựng và phát huy, lại đang diễn ra những hành vi đi ngược lại với

nét đẹp truyền thống “ Tôn sư trọng đạo” của dân tộc. Trị gặp thầy khơng
chào, coi thường thầy, chửi thầy, đánh thầy... Ngày xưa, không bao giờ có
cảnh học trị vơ lễ với thầy. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (Một chữ cũng là
thầy, nửa chữ cũng là thầy), học sinh phải biết tơn kính, biết ơn người dạy
bảo. Một bộ phận khơng nhỏ sinh viên đã quên đi mất khẩu hiệu “ Tiên học lễ
hậu học văn” quên đi truyền thống uống nước nhớ nguồn tốt đẹp của dân tộc.
21


Chưa bao giờ truyền thống tôn sư trọng đạo lại bị xem nhẹ như hiện
nay. Chính những bạn sinh viên đã đánh mất những nét đẹp, xa rời các chuẩn
trong cách ứng xử với thầy cô giáo vốn đã được giáo dục từ thời phổ thông.
Nhiều thầy cô lấy làm buồn và không chịu nổi trước những hành vi thô tục,
vô lễ của một bộ phận các bạn sinh viên. Đó là thái độ khơng tơn trọng giảng
viên trong giờ học mà những biểu hiện cụ thể là mất trật tự, tự do ra vào lớp
học, đi học muộn, cãi lại lời giảng viên khi bản thân có lỗi, bị phê bình; là
khơng đứng dậy chào giảng viên khi họ vào lớp; là trả lời câu hỏi của giảng
viên một cách cộc lốc, thờ ơ cho qua; ….
Ngồi lớp thì trên giảng đường một số sinh viên gặp không chào thầy
cơ, khơng nhưịng đường cho thầy cơ đi qua; một số sinh viên cịn dùng
những từ ngữ khơng tơn trọng khi bàn luận với nhau về tính cách của thầy cơ.
Có trường hợp trị vì giảng viên nghiêm khăc hay do những mâu thuẫn nhỏ,
xung đột ý kiến hoặc bị giáo viên phạt mà quay ra thù thầy cô.
Từ trước đến nay, chúng ta vẫn nghe nhiều về đạo thầy - trò (Đạo làm
thầy và đạo làm trò). Quan hệ thầy trị xưa kia là mối quan hệ đáng kính và
đáng chân trọng. Người xưa có câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là dạy
một chữ cũng là thầy mình mà dạy nửa chữ cũng là thầy và lấy ơng thầy làm
trung tâm, học trị nhất nhất phải nghe theo, coi thầy là tấm gương để học
theo. Nhưng ngày nay học trị của chúng ta đã khơng thể làm đủ lễ nghi với
thầy cơ họ lại cịn xuyên tạc, làm biến tướng các nghi lễ, thiếu sự tơn trọng

với thầy cơ, coi thường việc học. Ví dụ như: Cách chào của một bộ phận sinh
viên khi gặp thầy cơ, họ vừa đi thậm chí là chạy ù ù qua thầy cô vừa chào “cô
ạ”, “thầy ạ” để tiết kiệm từ và nói cho nhanh, chào đối phó, nói có hình thức,
khơng hề có sự tơn trọng trong đó. Rồi thậm chí nói năng với thầy cơ cộc lốc
như nói chuyện với bạn bè, thiếu sự tơn trọng.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường mà chúng ta phải gánh chịu đó là
rất nhiều tiêu cực nảy sinh trong cuộc sống. Những năm gần đây hiện tượng
tiêu cực trong giáo dục khơng phải là ít. Hiện tượng sinh viên quà cáp, biếu
22


phong bì cho thầy cơ đổi lại là những điểm số cao chot vót dù bài làm rất
kém. Biếu xén thầy cơ để tránh bị kỷ luật…nó đã góp phần làm biến tướng và
thương mại hố quan hệ thầy trị, làm cho thầy khơng cịn là thầy, khơng được
tơn trọng, khơng uy nghiêm, được học trị coi là tấm gương để noi theo học
tập, trò cũng chẳng phải trò, chẳng lễ phép, kính trọng thầy và chăm chỉ học
hành tu dưỡng.
Một sự thật đáng buồn là ở đâu đó chúng ta cịn thấy những thầy giáo
khơng đủ tư cách làm tấm gương, những cô giáo thiếu tinh thần trách nhiệm,
những học trò bàng quan với việc học với tương lai, cuộc đời, chúng ta có thể
thấy rằng việc giáo dục giới trẻ hiện nay đang là vấn đề cấp thiết được cả xã
hội quan tâm.
2. Nguyên nhân
Dẫn đến thực trạng nêu ở trên phải kể đến những nguyên nhân chủ
quan và nguyên nhân khách quan như sau:
Thứ nhất, về phía nhận thức sai lệch của một bộ phận không nhỏ sinh
viên đã quên đi đạo làm trò, quên đi bổn phận của mình phải tơn sư trọng đạo.
Họ nghĩ rằng học đại học chỉ là hình thức để lấy bằng, vì vậy khơng hề có thái
độ học tập nghiêm túc, dẫn tới việc không tôn trọng thầy cô giáo.
Thứ hai, một phần nguyên nhân có lẽ là do “ đạo thầy” cũng chưa tốt

và cách ứng xử khơng có văn hóa của một số thầy cơ. Các thầy cơ phải luôn
giữ được tác phong sư phạm. Bởi mỗi hành động, lời ăn tiếng nói hay thậm
chí là trang phục trên giảng đường của thầy cơ đều có thể trở thành giáo cụ
trực quan mà sinh viên trực tiếp nhìn vào, mang tính giáo dục to lớn khi thầy
cơ đứng trên bục giảng. Thế nhưng ngày nay đã có khơng ít những thầy cô coi
đây là chuyện nhỏ, nên tùy tiện, cẩu thả khi đứng lớp. Hay ngôn ngữ giữa
thầy và trị ngày càng suồng sã. Có lẽ một phần cũng do mơi trường đại học
có phần thoải mái và khơng bị éo buộc, gị bó như mơi trường phổ thơng.
Thứ ba, mặt trái của nền kinh tế thị trường làm cho mơi trường văn hóa
nói chung và văn hóa học đường nói riêng có nhiều thay đổi, làm cho nhiều
23


giá trị bị đảo lộn, kéo theo sự xâm lấn của văn hóa ngoại lai, đặc biệt là sự bạo
lực. Trong đó có thể nhìn thấy rõ các tác động tiêu cực trong mối quan hệ
giữa giảng viên với sinh viên trong văn hóa học đường hiện nay.
Thứ tư, sự phát triển chóng mặt của cơng nghệ thơng tin, của Internet
vừa có tác động tích cực vừa tác động tiêu cực đến mối quan hệ thầy và trị
trong văn hóa học đường. Xã hội ngày càng phát triển và đi lên, Internet ngày
càng phổ biến hơn, chúng biến thế giới trở thành thế giới phẳng, rút ngắn mọi
khoảng cách với nhau. Nhờ có Internet, việc trao đổi, tìm kiếm thơng tin của
người học diễn ra dễ dàng hơn và người học có thể tiếp cận với những cái mới
nhanh hơn. Những internet có một nhược điểm chí mạng đó là thơng tin
khơng có chọn lọc, khơng được kiểm duyệt. Vì vậy mà người học rất có thể sẽ
gặp phải những thơng tin sai lệch, khơng chính thống, làm sai lệch tư duy.
Bên cạnh đó Internet đặc biệt là mạng xã hội sẽ kéo theo những tư tưởng lai
căng, tư tưởng không lành mạnh mà đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất lại
chính là sinh viên. Đây là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhận thức sai lệch,
những giá trị văn hóa truyền thống bị đảo lộn thâm chí là biến tướng. Nhiều
yếu tố tiêu cực từ ngoài xã hội do mặt trái của cơ chế thị trường, sự “xâm

lăng” của văn hố khơng lành mạnh, lai căng, đồi truỵ, khơng phù hợp với
văn hoá truyền thống… nên đã đánh mất nhiều chuẩn mực ứng xử, trong đó
có ứng xử với thầy cơ giáo.
Thứ năm đó là nhận thức sai lệch về tầm quan trọng của văn hóa học
đường. Ngày nay, vai trị của văn hóa học đường bị lãng qn, do vậy tình
trạng văn hóa học đường và đặc biệt là mối quan hệ thiêng liêng giữa thầy và
trò cũng bị coi nhẹ, từ đó dẫn tới những hành vi khơng đáng xuất hiện từ phía
cả thầy và trị.
Thứ sáu đó là sự quan tâm, giáo dục về phía gia đình cũng như nhà
trường có nhiều hạn chế. Có lẽ là phía phụ huynh cũng như nhà trường đều
cho rằng sinh viên đại học thì khơng cần quản chặt như học sinh phổ thơng.
Từ đó mà mối liên hệ giữa nhà trường và phụ huynh trở nên lỏng lẻo. Cha mẹ
24


khơng biết ở đại học con mình học tập như thế nào. Ở một số trường đại học
vấn đề giáo dục đạo đức, tư tưởng bị coi nhẹ.
Bên cạnh những nguyên nhân nêu trên còn rất nhiều những nguyên
nhân khác dẫn tới sự xuống cấp của văn hóa học đường nói chung và mối
quan hệ thầy trị trong văn hóa học đường nói riêng.

25


×