Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN DỊCH vụ CHĂM sóc sức KHỎE SINH sản ở các HUYỆN PHÍA tây TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.62 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHĂM
SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN Ở CÁC HUYỆN PHÍA
TÂY THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các huyện phía Tây
thành phố Hà Nội
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHĂM SÓC
SỨC KHỎE SINH SẢN Ở CÁC HUYỆN PHÍA TÂY
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Tổng quan tình hình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
ở các huyện phía Tây thành phố Hà Nội thời gian qua
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra về phát triển
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các huyện phía Tây thành phố
Hà Nội
Chương 3. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHĂM SÓC
SỨC KHỎE SINH SẢN Ở CÁC HUYỆN PHÍA TÂY
THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm cơ bản đẩy mạnh phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản các huyện phía Tây thành phố Hà Nội
3.2. Các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản các huyện phía Tây thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHAO
PHỤ LỤC

3


11
11

22

35
35

41

59
59
68
87
89
94


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chăm sóc sức khỏe nói chung và CSSKSS nói riêng luôn được xã hội
đặc biệt quan tâm chú trọng. Việc chăm sóc sức khỏe và SKSS đã trở thành
sự nghiệp chung của toàn xã hội, là trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi gia
đình, mỗi cộng đồng và của các cấp ủy Đảng, chính quyền. Với mỗi quốc gia
chăm sóc sức cho người dân nói chung và CSSKSS nói riêng là một trong
những nhiệm vụ xã hội cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng của lực lượng
lao động thông qua nâng cao thể trạng, sức khỏe, chiều cao, cân nặng, trí tuệ
của người dân. Chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực có ảnh hưởng
rất lớn, quyết định đến năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, SX - KD,

ảnh hưởng lớn đến sự phát triển KT - XH của đất nước. Nhận thức được vấn
đề đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định:
“Tập trung phát triển mạnh hệ thống chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất
lượng dịch vụ y tế…Thực hiện tốt chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe,
tầm vóc con người Việt Nam… Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế
hoạch hóa gia đình…” [21].
Phía Tây thành phố Hà Nội gồm 14 quận, huyện, thị xã của Hà Tây cũ
là nơi có tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nhanh, nhiều khu
công nghiệp, khu đô thị, du lịch và dịch vụ đã và đang phát triển mạnh. Bên
cạnh dân số của từng địa phương, tốc độ tăng dân số cơ học đang có xu hướng
ngày càng tăng. Chính vì vậy, nhu cầu khám chữa bệnh nói chung và
CSSKSS ở khu vực này rất lớn. Trên cơ sở nhận thức đúng vị trí, vai trò quan
trọng của công tác chăm sóc sức khỏe nói chung và CSSKSS nói riêng cho
người dân, thời gian qua lãnh đạo, chính quyền Thành phố và các quận,
huyện, thị xã trên địa bàn phía Tây thành phố Hà Nội đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách đồng thời tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động
3


chăm sóc sức khỏe và CSSKSS cho người dân thành phố nói chung và ở phía
Tây thành phố Hà Nội nói riêng. Đặc biệt, ngành y tế đã rất quan tâm triển
khai nhiều biện pháp, đầu tư kinh phí cũng như mở rộng xã hội hóa dịch vụ
CSSKSS, do đó, công tác này đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng
và đáp ứng khá kịp thời nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, quá trình phát triển
dịch vụ CSSKSS cho người dân Thành phố nói chung và ở các quận, huyện,
thị xã phía Tây thành phố Hà Nội nói riêng đã và đang còn bộc lộ những hạn
chế, yếu kém, bất cập.
Nhằm góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát: Phát triển thể
lực, tầm vóc người Việt Nam trong 20 năm tới vấn đề nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; từng bước nâng cao

chất lượng giống nòi và tăng tuổi thọ khỏe mạnh của người Việt Nam và mục
tiêu cụ thể: “Tăng cường công tác chăm sóc SKSS, sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ
sinh, giảm mạnh tỷ lệ suy dinh dưỡng để cải thiện các chỉ số cơ bản của trẻ em
5 tuổi và đảm bảo các tiêu chí đánh giá thể lực, tầm vóc thân thể của thanh niên
Việt Nam lứa tuổi trưởng thành” đã xác định tại “Đề án tổng thể phát triển thể
lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 - 2030” theo quyết định số
641/QĐ-TTg ngày 28 tháng 4 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ, công tác
phát triển dịch vụ CSSKSS ở các huyện phía Tây thành phố Hà Nội đã và đang
đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải được nghiên cứu giải quyết.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các huyện phía Tây thành phố Hà Nội” làm đề
tài luận văn thạc sỹ kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều công trình của các tác giả tập trung
nghiên cứu về phát triển dịch vụ y tế nói chung và dịch vụ CSSKSS nói riêng
Các công trình đó, trên các mức độ khác nhau đã góp phần phân tích những
vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển dịch vụ y tế và dịch vụ CSSKSS.
4


* Các sách chuyên khảo và tham khảo
Trong cuốn "Sự lựa chọn hợp lý: Nâng cao năng lực cho quá trình
chính sách y tế dựa trên bằng chứng" (2009) do Liên minh Nghiên cứu
chính sách và hệ thống y tế, Tổ chức Y tế thế giới và Trường Đại học Y tế
Công cộng hợp tác xuất bản năm 2009. Cuốn sách này chỉ ra sự không tương
xứng giữa những gì được biết về làm thế nào để ứng phó với các vấn đề sức
khỏe cụ thể ở những quốc gia kinh tế còn nghèo và thực tế những gì đã được
làm để giải quyết các vấn đề sức khỏe đó. Cuốn sách tập trung phân tích
nguyên nhân của sự không tương xứng này, đó là những hạn chế về năng
lực. Năng lực yếu trong các cơ quan và khoảng cách giữa việc tạo ra kiến

thức và việc sử dụng kiến thức trong hoạch định chính sách đang được Liên
minh nghiên cứu chính sách và hệ thống y tế xác định là một vấn đề chiến
lược quan trọng trong việc cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe ở những
quốc gia có thu nhập thấp.
Báo cáo nghiên cứu “Thực trạng quản lý dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà
mẹ tại Việt Nam” (2014) hay nghiên cứu HESVIC là một nghiên cứu phối
hợp đa phương với sự tham gia của nhiều đối tác, được triển khai trong vòng
3 năm (từ tháng 7/2009 đến tháng 6/2012) dưới sự tài trợ của Uỷ ban Châu
Âu theo chương trình khung số 7. Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu tổng
thể tại Việt Nam với mục tiêu nhằm tìm hiểu thực trạng quản lý và triển khai
các chính sách trong lĩnh vực sức khoẻ bà mẹ. Nghiên cứu áp dụng phương
pháp tiếp cận tổng hợp để đánh giá được thực trạng thực hiện chính sách
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ (CSSKBM), qua đó, sẽ đánh giá
được tác động của các chính sách đến khả năng tiếp cận công bằng với các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ. Nghiên cứu cũng tìm hiểu tác động của các
yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ y tế thông qua phân tích bối cảnh
và môi trường chính sách nói chung, cung cấp bằng chứng cho các nhà hoạch
định chính sách trong việc đưa ra các chính sách tăng cường khả năng tiếp
5


cận công bằng đối với các dịch vụ y tế tại Việt Nam. Nghiên cứu đã đưa ra
khuyến nghị: Tăng cường thực hiện chính sách. Một số chiến lược nhằm tăng
cường tiếp cận công bằng dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ có chất lượng đã
được đề xuất. Các chiến lược này bao gồm cải thiện hệ thống thông tin, các
quy chuẩn, trách nhiệm giải trình và cơ chế thưởng, phạt. Công tác vận động
thực hiện chiến lược để tăng cường vai trò của các bên liên quan trong quá
trình thực hiện chính sách [41].
"Báo cáo kết quả khảo sát thực trạng mạng lưới và năng lực cung cấp
dịch vụ CSSKSS Việt Nam 2010" (2012) do Vụ Sức khỏe Bà mẹ trẻ em, Bộ Y tế

thực hiện là cuộc điều tra trên quy mô toàn quốc về mạng lưới CSSKSS. Cuốn
sách đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về tình trạng cơ sở vật chất, trang thiết
bị, nhân lực và khả năng cung cấp dịch vụ CSSKSS của mạng lưới cung cấp
dịch vụ CSSKSS ở tuyến xã, TTYT huyện, TTCSSKSS tỉnh. Cuộc điều tra cũng
cung cấp một số thông tin quan trọng về tình hình nhân lực và khả năng cung
cấp dịch vụ CSSKSS của các bệnh viện từ tuyến huyện đến Trung ương. Từ đó
rút ra một số nhận xét chính và đưa ra khuyến nghị: Kết quả cuộc điều tra nên
được sử dụng làm cơ sở thực tế trong kế hoạch hành động quốc gia về CSSKSS
giai đoạn 2011 - 2015 đang được xây dựng. Trước thực tế là sản phụ đến đẻ tại
các bệnh viện có xu hướng tăng, nhiều TYT không có phụ nữ đến đẻ, cần tiến
hành một điều tra nghiên cứu xác định nhu cầu đỡ đẻ của các TYT và xây dựng
các tiêu chí xác định loại TYT không đỡ đẻ để trách lãng phí trong đầu tư phòng
dịch vụ và trang thiết bị [45].
Nhóm tác giả James C. Knowles, Nguyễn Thị Hồng Hà, Đặng Bội
Hương với cuốn sách "Tài chính y tế ở Việt Nam: Tạo điều kiện cho người
nghèo có khả năng chi trả cho dịch vụ y tế" (2005) đã phân tích về nguồn lực
tài chính cho phát triển dịch vụ y tế nói chung đồng thời đưa ra bản báo cáo
tổng hợp về chi tiêu công cho y tế trong giai đoạn 1991 - 2000. Tổng kết những
kinh nghiệm của Việt Nam trong việc thực hiện chế độ thu viện phí và các mô
6


hình tài chính y tế cho người nghèo. Đồng thời đưa ra phương án mở rộng
BHYT trong năm 2010 [27].
* Dưới góc độ luận văn, luận án
Luận văn thạc sỹ kinh tế: “Phát triển dịch vụ y tế thành phố Đà Nẵng”
(2013) của Hoàng Thị Thu Hương, trường Đại học Đà Nẵng năm 2013. Trên
cơ sở lý luận về dịch vụ y tế và phát triển dịch vụ y tế, tác giả đã đánh giá
thành tựu, hạn chế, chỉ rõ những nguyên nhân của phát triển dịch vụ y tế ở
thành phố Đà Nẵng và đề xuất một số giải pháp, biện pháp tiếp tục phát triển

loiạ hình dịch vụ này trên địa bàn Thành phố thời gian tới [28].
Luận văn thạc sỹ: "Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương"
(2013) của Hoàng Tuấn Anh, trường Đại học Y Hải phòng năm 2013. Căn cứ
vào những đặc thù của địa phương, dưới góc độ chuyên ngành y tế cộng đồng,
tác giả luận văn đã đánh giá những kết quả và hạn chế của phát triển dịch vụ y
tế ở tỉnh Hải Dương đồng thời đề ra những giải pháp, biện pháp chuyên ngành
y tế cộng đồng nhằm góp phần tiếp tục phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn
Tỉnh những năm tiếp theo [28].
* Các bài báo khoa học
Có rất nhiều bài viết nội dung xoay quanh các vấn đề về CSSKSS đăng
trên các tạp chí nghiên cứu Y học. Trên tạp chí Y học Việt Nam (Dân số và
sức khỏe nông thôn) năm 2005 có bài: "Đánh giá cơ sở vật chất, trang thiết bị
và thuốc thiết yếu phục vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản theo chuẩn quốc gia
tại một số trạm y tế xã" của nhóm tác giả Phạm Văn Tám, Lương Xuân Hiến,
Đinh Phương Hòa, "Nhận thức và thực hành về chăm sóc sức khỏe sinh sản
của phụ nữ 15 - 49 tuổi đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi" của Nguyễn Thu
Hà và Cộng sự.
Trên tạp chí Y học dự phòng năm 2005, Khương Văn Duy phân tích
về: "Tình hình sử dụng dịch vụ sức khỏe sinh sản và sức khỏe trẻ em ở một số
xã thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, Năm 2004".
7


Nghiên cứu về "Nhận thức về một số nội dung chăm sóc sức khỏe sinh
sản/ kế hoạch hóa gia đình của cộng đồng tại các địa bàn triển khai mô hình
nâng cao chất lượng dân số" của Đỗ Ngọc Tấn đăng trên tạp chí Tạp chí Y
học thực hành năm 2005. Cũng trên tạp chí Y học thực hành năm 2009,
Nguyễn Viết Tiến lại đi sâu tìm hiểu: "Hiểu biết về quyền của khách hàng
trong chăm sóc sức khỏe sinh sản".
Về CSSKSS cho phụ nữ độ tuổi tiền mãn kinh, Đoàn Kim Thắng có

bài: "Hiểu biết về chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ quanh tuổi mãn
kinh tại cộng đồng: Nghiên cứu trường hợp Hà Nội" đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Gia đình và Giới năm 2009.
Bài viết "Dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - Giải pháp nâng cao chất
lượng dân số" (2010) của tác giả Thúy Ngọc, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 29 tháng 12 năm 2010 nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản là cách trực tiếp nhất để nâng cao chất lượng dân
số”. Bài báo cho biết: Thời gian qua, ngành y tế đã rất quan tâm triển khai
nhiều biện pháp, đầu tư kinh phí cũng như mở rộng xã hội hóa dịch vụ
CSSKSS, do đó, công tác này đã đáp ứng khá kịp thời nhu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, tác giả cũng đã chỉ rõ một số hạn chế, bất cập của công tác
CSSKSS như: đến nay một số dịch vụ vẫn chưa được cung cấp đầy đủ, đặc
biệt ở hệ thống chăm sóc sơ; CSSKSS người cao tuổi, SKSS vị thành niên và
cung cấp dịch vụ có tính đến yếu tố giới còn hạn chế; y tế tư nhân có tham gia
vào cung cấp dịch vụ, nhưng chưa được tham gia vào đào tạo cập nhật, chưa
được giám sát, chất lượng dịch vụ và thông tin của y tế tư nhân chưa được cập
nhật vào hệ thống thông tin chung của ngành y tế; tình trạng sử dụng dịch vụ
y tế ở tuyến cơ sở rất thấp. Ngược lại, cơ sở y tế tuyến trên ngày càng quá tải.
Cũng trong bài viết của mình, tác giả đã tổng hợp ý kiến của giáo sư
Nguyễn Duy Khê về một số giải pháp chủ yếu, quan trọng góp phần nâng cao
chất lượng dịch vụ CSSKSS trong thời gian tới ở nước ta.
8


Kết quả nghiên cứu của các tác giả nói trên là những tài liệu quý giá mà
luận văn này có thể kế thừa. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về phát triển dịch vụ
CSSKSS ở các huyện phía Tây thành phố Hà Nội dưới góc độ bộ môn kinh tế
chính trị. Đề tài luận văn:“Phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở
các huyện phía Tây thành phố Hà Nội” của học viên không trùng với các

công trình khoa học của các tác giả khác đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển dịch vụ CSSKSS ở các
huyện phía Tây thành phố Hà Nội; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và một số
giải pháp đẩy mạnh phát triển dịch vụ CSSKSS trên địa bàn trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển dịch vụ CSSKSS các
huyện phía Tây thành phô Hà Nội.
Đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ CSSKSS ở các huyện phía Tây
thành phố Hà Nội trong thời gian qua; chỉ rõ nguyên nhân của những thành
tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra.
Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu góp phần đẩy mạnh
phát triển dịch vụ CSSKSS ở các huyện phía Tây thành phô Hà Nội trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển dịch vụ CSSKSS dưới góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Phát triển dịch vụ CSSKSS
Về không gian: Phát triển dịch vụ CSSKSS ở huyện phía Tây thành phố
Hà Nội.
9


Về thời gian: từ năm 2008 khi tỉnh Hà Tây cũ sáp nhập vào thành phố
Hà Nội đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật

mácxít; tác giả đứng trên lập trường, quan điểm duy vật để luận giải, phân
tích cơ sở lý luận phát triển dịch vụ CSSKSS cũng như đánh giá, chứng minh
thực trạng phát triển dịch vụ CSSKSS ở các quận, huyện phía Tây thành phố
Hà nội và đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển dịch vụ CSSKSS trên địa
bàn thời gian tới.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết
hợp phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, trừu
tượng hóa khoa học đang được vận dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị.
Luận văn cũng chú trọng nghiên cứu, phân tích các tư liệu, dữ liệu, số liệu báo
cáo về công tác quản lý và cung cấp dịch vụ CSSKBM của 14 quận, huyện, thị
xã, về SKSS từ 2008 đến nay được gửi về Trung tâm CSSKSS Hà Đông.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
địa phương, Sở Y tế thành phố Hà Nội trong việc hoạch định cơ chế, chủ
trương, chính sách phát triển dịch vụ CSSKSS trên địa bàn Thành phố và các
địa phương phía Tây thành phố Hà Nội.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy Kinh tế chính
trị trong các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm có: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤCHĂM SÓC SỨC KHỎE
SINH SẢN Ở CÁC HUYỆN PHÍA TÂY THÀNH PHỐ HÀ NỘI


1.1. Những vấn đề chung về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
1.1.1. Khái niệm dịch vụ và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
Khái niệm về dịch vụ
Theo từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho
những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [23,
tr.256]. Theo C.Mác thì nhu cầu là đòi hỏi khách quan của mỗi con người
trong những điều kiện nhất định, đảm bảo cho sự sống và sự phát triển của
mình. C.Mác cho rằng: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa,
khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông, thông
suốt, trôi chảy, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao đó của con người
thì dịch vụ ngày càng phát triển” [14].
Như vậy, với quan niệm trên C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và sự
phát triển của dịch vụ là do sự phát triển kinh tế hàng hóa, đồng thời C.Mác
cũng nhấn mạnh một đặc tính của dịch vụ, đó là: “Trong những trường hợp
mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một lao động không sản xuất ra tư bản, tức
là trao đổi lấy một lao động không sản xuất, thì lao động đó được mua với tư
cách là một sự phục vụ lao động đó cung cấp những sự phục vụ không phải
với tư cách là một đồ vật, mà với tư cách là một sự hoạt động” [14].
Dịch vụ theo nghĩa rộng là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết
quả của chúng không tồn tại dưới hình dạng vật thể. Hoạt động dịch vụ bao
trùm lên tất cả các lĩnh vực với trình độ cao, chi phối rất lớn đến quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, môi trường của từng quốc gia, khu vực nói riêng và
toàn thế giới nói chung. Ở đây dịch vụ không chỉ bao gồm những ngành
truyền thống như: giao thông vận tải, ngân hàng, du lịch, thương mại, bảo
hiểm, bưu chính viễn thông mà còn lan tỏa tới các lĩnh vực rất mới như: dịch
11


vụ văn hóa; hành chính, bảo vệ môi trường, dịch vụ tư vấn. Như vậy, dịch vụ
là những dạng hoạt động thuộc lĩnh vực, một ngành kinh tế.

Từ những phân tích trên có thể hiểu dịch vụ là hoạt động lao động xã
hội, tạo ra sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới dạng vật chất (sản phẩm vô
hình) nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống thuận lợi và hiệu quả hơn.
Như vậy, dịch vụ là một lĩnh vực rộng lớn, xuất hiện ở mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực Y tế, bởi vì:
Sức khỏe là nhân tố đặc biệt quan trọng hình thành thể chất của con
người, theo WHO, sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái cả về thể
chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh. Sức khỏe vừa
là phương tiện, vừa là mục tiêu của mọi quá trình phát triển. Đã từ lâu chăm
sóc sức khỏe là một trong các yếu tố cấu thành cơ bản của hai chỉ tiêu quan
trọng phản ánh sự phát triển của quốc gia: chỉ số phát triển con người HDI và
chỉ số nghèo khổ HPI. HDI được UNDP sử dụng để đo lường chất lượng sống
của con người ở các quốc gia. Chỉ số này dựa trên 3 tiêu chí: tuổi thọ mong
đợi; trình độ học vấn; điều kiện kinh tế (thu nhập bình quân đầu người) [35].
Khái niệm dịch vụ y tế
Dịch vụ y tế là hoạt động lao động tương tác giữa người cung cấp dịch
vụ và khách hàng để đáp ứng nhu cầu về sức khỏe như: Khám chữa bệnh,
phòng bệnh, giáo dục sức khỏe, tư vấn sức khỏe do trạm xá các cơ quan, trạm
y tế xã, trung tâm y tế huyện/quận, các cơ sở y tế tuyến tỉnh và Trung ương và
các cơ sở YTTN ( phòng khám, bệnh viện tư, hiệu thuốc) cung cấp.
Dịch vụ y tế là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử
dụng quan hệ với nhau thông qua giá dịch vụ.
Dịch vụ y tế là tất cả các loại hình dịch vụ chăm sóc, tư vấn liên quan
đến sức khỏe con người. Các loại hình dịch vụ phổ biến như là: Dịch vụ
khám, phòng chống và chữa bệnh, dịch vụ bảo hiểm y tế, hệ thống hành nghề
dược, y học cổ truyền....
12


Các dịch vụ y tế mang tính chất của hàng hóa vì có nhu cầu, có người

cung cấp và có người sử dụng thì phải trả tiền (có thể người trả tiền là cá
nhân, có thể là tập thể, Nhà nước). Dịch vụ y tế mang tính chuyên môn cao
nên người tiêu dùng hoàn toàn bất lợi về mặt thông tin so với người bán (bệnh
nhân và bác sỹ). Với một số hàng hóa khác, người tiêu dùng có thể có hiểu
biết nhất định về sản phẩm hoặc có được thông tin về sản phẩm bằng kinh
nghiệm. Nhưng đối với dịch vụ y tế, người bệnh biết rất ít về hiệu quả hay
hậu quả của điều trị, thậm chí người ta còn không biết mình bị ốm. Chính vì
thế, dịch vụ y tế là loại hàng hóa mà người sử dụng (người bệnh) thường
không tự mình lựa chọn được mà chủ yếu do bên cung ứng (cơ sở y tế) quyết
định. Nói cách khác, ngược lại với thông lệ “cầu quyết định cung”, trong dịch
vụ y tế “cung quyết định cầu”. Người bệnh có nhu cầu KCB nhưng điều trị
bằng phương pháp nào, dùng loại thuốc hay dịch vụ gì và thời gian bao lâu lại
do bác sĩ quyết định. Như vậy, người bệnh chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị, ở
một chừng mực nào đó, bác sĩ điều trị chứ không được chủ động chọn phương
pháp điều trị.
Tuy nhiên, cũng giống như các lại hình dịch vụ khác, thì dịch vụ y tế là
một ngành kinh tế. Nhưng ngành dịch vụ này có điều kiện, tức là có sự hạn
chế nhất địch đối với sự gia nhập thị trường của các nhà cung ứng dịch vụ y
tế. Cụ thể, muốn cung ứng dịch vụ y tế cần được cấp phép hành nghề và cần
đảm bảo những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất. Nói một cách khác,
trong thị trường dịch vụ y tế không có sự cạnh tranh hoàn hảo. Dịch vụ y tế là
một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng quan hệ với
nhau thông qua giá dịch vụ.
Phân loại dịch vụ
Dịch vụ là một lĩnh vực rất đa dạng và phong phú. Theo đà phát triển
kinh tế - xã hội cũng như sự tiến bộ của văn minh nhân loại, dịch vụ phát triển
ở tất cả các lĩnh vực sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần, lĩnh vực quản lý
13



cũng như các công việc có tinh chất riêng tư. Do vậy mà có nhiều cách phân
loại dịch vụ theo các tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của
mỗi ngành dịch vụ, người ta chia dịch vụ thành các nhóm ngành sau (1) dịch
vụ kinh doanh, (2) dịch vụ thông tin liên lạc, (3) dịch vụ xây dựng và kỹ thuật
có liên quan, (4) dịch vụ phân phối, (5) dịch vụ giáo dục, (6) dịch vụ môi
trường, (7) dịch vụ tài chính, (8) dịch vụ y tế, (9) dịch vụ du lịch, (10) dịch vụ
giải trí, văn hóa và thể thao và (11) các dịch vụ khác [23].
* Chăm sóc sức khỏe sinh sản và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã định nghĩa “Chăm sóc SKSS là một
tập hợp các phương pháp, kỹ thuật và dịch vụ nhằm giúp cho con người có
tình trạng SKSS khỏe mạnh thông qua việc phòng chống và giải quyết những
vấn đề liên quan đến SKSS. Điều này cũng bao gồm cả sức khỏe tình dục với
mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống và mối quan hệ giữa con người với
con người mà không chỉ dừng lại ở chăm sóc y tế và tư vấn một cách đơn
thuần cho việc sinh sản và những nhiễm trùng qua đường tình dục”. Chăm sóc
sức khỏe sinh sản giúp cho con người có được trạng thái tinh thần thoải mái
và hòa hợp với xã hội. CSSKSS không chỉ có nghĩa là giúp cho người bệnh
khỏi được những căn bệnh thực thể mà còn có nghĩa là giúp họ thoát khỏi
những bế tắc về mặt tinh thần và có được những mối quan hệ lành mạnh, bao
gồm cả những mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội.
Dịch vụ CSSKSS là tổng thể các biện pháp kỹ thuật do bác sĩ chuyên
khoa thực hiện góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc cho người sử dụng
dịch vụ bằng cách phòng ngừa và giải quyết các vấn đề về SKSS. Nó cũng
bao gồm cả sức khỏe tình dục với mục đích là đề cao cuộc sống và các mối
quan hệ riêng tư, chứ không chỉ là việc tư vấn và chăm sóc liên quan đến sinh
sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Điều kiện này khẳng định về quyền của phụ nữ và nam giới được thông
tin và tiếp cận các biện pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả, dễ dàng
14



và thích hợp nhằm điều hoà việc sinh đẻ không trái với pháp luật, quyền được
tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp giúp cho người phụ nữ
trải qua thai nghén và sinh đẻ an toàn và tạo cho các cặp vợ chồng những điều
kiện tốt nhất để có đứa con khỏe mạnh.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm: Chăm sóc sức khỏe sinh sản
và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản là hoạt động lao động của đội ngũ cán
bộ, nhân viên y tế cung cấp dịch vụ phòng chống và giải quyết những vấn đề
có liên quan đến sức khỏe sinh sản, giúp cho con người có sức khỏe tốt, tham
gia phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
1.1.2. Vai trò của dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
Dịch vụ CSSKSS có vai trò rất quan trọng, bởi trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường, khi mà đời sống của nhân dân đã được nâng cao
thì nhu cầu về sức khỏe là rất lớn. Các dịch vụ CSSKSS ra đời đã đáp ứng
được nhu cầu của nhân dân (nhất là lao động nữ) góp phần nâng cao năng lực,
hiệu quả công tác, hoạt động SX – KD. Vai trò của việc phát triển dịch vụ
CSSKSS được biểu hiện:
Thứ nhất, dịch vụ CSSKSS góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cho phát triển KT – XH và sự nghiệp CNH, HĐH
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, gồm có thể lực và trí lực. Thể
lực phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của con người, mức sống, thu nhập, chế
độ ăn uống, chế độ làm việc, nghỉ ngơi v.v.. Trí lực là nguồn tiềm tàng to lớn
của con người, đó là tài năng, năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin, nhân
cách v.v..
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): Nguồn nhân lực của một quốc gia
là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Tiếp cận
dưới góc độ của Kinh tế chính trị có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể
lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc
15



gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một
dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. Như vậy, nguồn
nhân lực ở nước ta là bộ phận những người trong độ tuổi lao động (theo quy
định của Luật lao động hiện hành: nam từ 15 đến 60 tuổi; nữ từ 15 đến 55
tuổi), có khả năng lao động, hiện đang làm việc hoặc đang tìm kiếm việc
làm…
Để tham gia có hiệu quả vào quá trình phát triển KT- XH, thực hiện
thành công nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH, lực lượng lao động ở nước ta
không chỉ cần có trí lực, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, mà
còn rất cần có một thể lực mạnh khỏe, đáp ứng yêu cầu của công việc và
nhiệm vụ đảm trách. Dịch vụ CSSKSS thông qua các hoạt động và các loại
hình dịch vụ đa dạng, phong phú của mình sẽ trực tiếp góp phần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực - lực lượng lao động xã hội-về mặt thể lực, trí lực.
Thứ hai, cùng với phát triển kinh tế, dịch vụ CSSKSS góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân và cộng đồng
Nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân luôn là mục tiêu hướng
tới của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng cuộc sống của con
người ngoài việc được đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vật chất còn phải được thỏa
mãn đầy đủ các nhu cầu về tinh thần. Một cơ thể ốm yếu, trạng thái tinh thần,
tâm sinh lý mệt mỏi sẽ không thể hưởng thụ đầy đủ, trọn vẹn các giá trị vật
chất và tinh thần ấy. Bởi thế, con người cần có sức khỏe, có sức khỏe con
người mới cảm nhận một cách chọn vẹn và đầy đủ các giá trị vật chất và tinh
thần nhờ quá trình lao động không ngừng nỗ lực sáng tạo của bản thân cũng
như của cộng đồng. Để có một cơ thể khỏe mạnh, tinh thần lành mạnh con
người cần được chăm sóc sức khoẻ đúng cách, đúng khoa học, trong đó có
CSSKSS. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, người lao động


16


tham gia vào các hoạt động lao động sản xuất khác nhau và do vậy cũng tham
gia vào các hình thức phân phối thu nhập cá nhân khác nhau nên mức thu
nhập của mỗi người không hoàn toàn giống nhau. Thậm chí do tác động của
các quy luật kinh tế, có một bộ phận người lao động rơi vào tình trạng phá
sản, thất nghiệp, nghèo đói, ngược lại có một bộ phận người lao động trở nên
giàu có với thu nhập cao. Trong điều kiện đó, dich vụ y tế nói chung và dịch
vụ CSSKSS nói riêng phát triển sẽ làm tăng nguồn cung đáp ứng nhu cầu
quan trọng của người lao động, cho mọi đối tượng; đồng thời bảo đảm an sinh
xã hội, quyền về sự công bằng trong tiếp cận dịch vụ CSSKSS được đáp ứng
đầy đủ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ nhân dân nói chung và
người lao động nói riêng. Bảo đảm đáp ứng yêu cầu cung cấp đầy đủ, đồng bộ
số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội
đất nước.
Thứ ba, dịch vụ CSSKSS góp phần nâng cao chất lượng dân số, cải tạo
nòi giống, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các thế hệ kế tiếp và
tương lai
Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và
tinh thần của toàn bộ dân số. Chất lượng dân số là tập hợp những đặc điểm về
năng lực của một quần thể dân cư, một cộng đồng, một đất nước được thực
hiện qua hệ thống các chỉ báo: Cơ cấu tuổi, thể lực, trí lực, mức sống và ý
thức xã hội… trong việc thực hiện những chức năng xã hội nhất định nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH của toàn bộ dân số nói chung và sự phát
triển của chính bản thân mỗi gia đình, mỗi người dân nói riêng.

17



Ở nước ta, chất lượng dân số được hiểu cụ thể hơn, đó là về cơ cấu tuổi,
giới tính, sức khỏe sinh sản, tình trạng sức khỏe trẻ em, trình trạng thể
lực, trình độ học vấn nghề nghiệp của toàn bộ dân cư một vùng lãnh thổ
nhất định hay của cả nước nói chung với một cơ cấu dân số hợp lý. Vì
vậy, cơ cấu dân số phù hợp sẽ tạo kiều kiện thuận lợi cho phát triển KT XH, không gây ra những khó khăn, không là gánh nặng đối với sự phát
triển KT - XH và tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của đất nước [44].
Nâng cao chất lượng dân số có vai trò to lớn trong sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia, dân tộc, trong đó nâng cao sức khỏe, tầm vóc
- thể lực con người góp phần chuẩn bị nguồn nhân lực tốt nhất cho sự
phát triển trong tương lai luôn giành được sự quan tâm đặc biệt của
các quốc gia. Chính vì vậy, nhiều quốc gia ở Châu Âu, một số quốc gia
châu Á, đặc biệt Nhật Bản đã rất chú trọng tới vấn đề này.
Ở Việt Nam, tuy có chậm hơn các quốc gia khác trong khu vực, song
Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới vấn đề này. Tuy nhiên,
theo báo cáo thống kê mà tiến sỹ Đàm Quốc Chính - Chủ nhiệm chương
trình nghiên cứu số 4 (Cấp Nhà nước) - Giám đốc Trung tâm Thông tin
thể dục thể thao đưa ra: chiều cao thân thể trung bình của người Việt Nam
hiện nay là 163,7 cm (nam) và 153,0 cm (nữ) chênh lệnh rất cao so với
172,0 cm (nam – Nhật Bản) và 157,0 (nữ Nhật Bản); khoảng cách này còn
cách biệt hơn với các nước Châu Âu (13,1 cm với nam và 10,7 cm với
nữ); qua đó cho thấy, thể lực và tầm vóc của người Việt Nam còn thua
kém rõ rệt. Bên cạnh đó, điều đặc biệt có thể nhận thấy là thể lực người
Việt Nam nói chung hiện nay không đáp ứng cường độ làm việc hiện đại,
yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và mở cửa, hội nhập quốc tế
[46].
Trong “Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục” đăng trên báo Cứu quốc số

18



199, ngày 27 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Giữ gìn dân
chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới
thành công. Mỗi một người dân yếu, tức là cả nước yếu, mỗi một người dân
mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe…Dân cường nước thịnh…”.
Như vậy, nâng cao chất lượng dân số, cải tạo nòi giống, trong đó có
nâng cao thể lực và tầm vóc cho những thế hệ kế tiếp, những thế hệ tương lai
là một yêu cầu cấp thiết, một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong đó, dịch vụ
tế nói chung và dịch vụ CSSKSS nói riêng có vai trò hết sức quan trọng (đặc
biệt là các dịch vụ như: chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em; dịch vụ DS –
KHHGĐ, chăm sóc SKSS vị thành niên…). Cũng chính vì vậy,“Đề án
chương trình tổng thể nâng cao thể lực và tầm vóc người Việt Nam giai đoạn
2010 – 2030” Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định mục tiêu: “Nâng
cao tầm vóc và thể trạng người Việt Nam, góp phần phát triển giống nòi, phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [2].
Mặt khác, nâng cao chất lượng dân số luôn đặt ra yêu cầu phải ổn
định dân số, hay nói một cách khác: sự ổn định về dân số là một trong
những tiêu chí đánh giá kết quả của nâng cao chất lượng dân số. Nếu
một quốc gia có tỷ lệ sinh quá thấp, tình trạng già hóa dân số sẽ gây
nhiều khó khăn cho việc huy động nhân lực, huy động lực lượng lao
động cho phát triển KT – XH, củng cố quốc phòng…; ngược lại một
quốc gia có tốc độ tăng dân số quá cao, tỷ lệ trẻ sơ sinh giữa nam và nữ
quá chênh lệch sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường cho sự phát triển bền
vững và sự ổn định xã hội. Dịch vụ CSSKSS - bằng các dịch vụ cung cấp
cho người dân và cộng đồng – luôn có vai trò hết sức quan trọng trong
việc tham gia ổn định dân số, góp phần xây dựng một xã hội ổn định và
phát triển bền vững.
Thứ tư, dịch vụ CSSKSS góp phần thực hiện và duy trì kết quả thực
hiện mục tiêu thiên niên kỷ, nâng cao khả năng cạnh tranh của nhân lực Việt
Nam trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế
19



Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, còn gọi là Mục tiêu Thiên niên kỷ là
8 mục tiêu được 189 quốc gia thành viên Liên hợp quốc nhất trí phấn đấu đạt
được vào năm 2015 Những mục tiêu này được ghi trong bản Tuyên ngôn
Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn
ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 9 năm 2000 tại trụ sở Đại hội đồng Liên hợp
quốc ở New York, Mỹ.
Những năm vừa qua, nhờ có hệ thống chính sách tương đối hoàn thiện
và sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng, nỗ lực của ngành y
tế nói chung, của lĩnh vực dịch vụ CSSKSS nói riêng công tác CSSKSS và
dịch vụ CSSKSS ở nước ta đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng
lợi mục tiêu thiên niên kỷ và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Cụ thể:
công tác CSSKSS và dịch vụ CSSKSS đã trực tiếp góp phần thực hiện thành
công mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ số 1- giảm suy dinh dưỡng trẻ em dưới
5 tuổi; Mục tiêu thiên niên kỷ số 4 - giảm tử vong trẻ em và Mục tiêu thiên
niên kỷ số 5 - giảm tử vong mẹ. Hiện nay và những năm tiếp theo, dịch vụ
CSSKSS tiếp tục có vai trò quan trọng góp phần duy trì và phát huy kết quả
thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ mà chúng ta đã đạt được thời gian qua.
Quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế đã và
đang đặt ra đòi hỏi rất cao đối với chất lượng nhân lực, chất lượng của lực
lượng lao động nước ta cả về trí lực và thể lực. Đặc biệt, cạnh tranh về nhân
lực, về lực lượng lao động trên thị trường sức lao động trong nước, thị trường
sức lao động quốc tế và khu vực sẽ trở nên gay gắt và quyết liệt hơn vào cuối
năm 2015 khi Cộng đồng ASEAN chính thức ra đời và khi Việt Nam chính
thức gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Phát triển ngành y tế nói chung, dịch vụ CSSKSS và nâng cao thể lực,
tầm vóc của người Việt nam… không chỉ góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, chất lượng lực lượng lao động trong cạnh tranh, phát triển
kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội mà còn góp phần thiết thực giúp cho các lĩnh

20


vực hoạt động khác như thể thao nước nhà vươn tới tầm cao của khu vực và
quốc tế như các môn: bóng đá, bóng chuyền, quần vợt, cầu lông và các môn
điền kinh khác…
Để nâng cao chất lượng nhân lực, chất lượng lực lượng lao động, nâng
cao thể lực và tầm vóc của người Việt Nam đòi hỏi sự vào cuộc của cả cộng
đồng, của hệ thống chính trị, trong đó, dịch vụ CSSKSS luôn có vai trò và vị
trí đặc biệt quan trọng. “Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ
2010 - 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định mục tiêu
tổng quát: “Đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng
nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội,
nâng trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương
các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các
nước phát triển trên thế giới”[17].
Thứ năm, dịch vụ CSSKSS góp phần giữ vững ổn định xã hội, củng cố
hạnh phúc gia đình và thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”
Quá trình phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập quốc tế và khu
vực bên cạnh những tác động tích cực, luôn kèm theo những tác động tiêu
cực, trong đó có các vấn đề như sinh con trước tuổi thành niên, mang thai
ngoài ý muốn ở vị thành niên; đặc biệt là các hủ tục như: tảo hôn, kết hôn cận
huyết thống và các tệ nạn xã hội: mại dâm, môi giới mại dâm…đã và đang là
những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội và chất lượng của nòi giống.
Dịch vụ CSSKSS với các hoạt động tuyên truyền, vận động, CSSK vị thành
niên và các dịch vụ khám chữa bệnh… sẽ góp phần phòng ngừa, ngăn chặn và
xử lý có hiệu quả các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là ngăn
chặn, đẩy lùi và khắc phục hậu quả của đại dịch HIV/AIDS.
Với các gia đình, dịch vụ CSSKSS tổ chức cung cấp các dịch vụ sàng

lọc bệnh, tật trước sinh và sơ sinh; tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ SKSS
21


và KHHGĐ cho người dân, đặc biệt là các gói dịch vụ thiết yếu như: Làm mẹ
an toàn và chăm sóc sơ sinh; KHHGĐ; dự phòng nạo phá thai và quản lý biến
chứng; dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn đường sinh sản, vô sinh, hiếm
muộn…sẽ góp phần củng cố hạnh phúc gia đình và thông qua đó, góp phần
phát triển một xã hội phồn vinh, hạnh phúc. Thực tế những năm qua, dịch
vụ CSSKSS thông qua việc cung cấp các phương pháp điều trị hiếm
muộn… đã mang lại hạnh phúc cho rất nhiều gia đình, nhiều cặp bố - mẹ
trên khắp các vùng miền của Tổ quốc và đó cũng là sự thể hiện sinh động
nhất tính nhân văn, tính ưu việt của xã hội ta trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập quốc tế.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các huyện phía Tây thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm, nội dung phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản
* Quan niệm phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
Phát triển dịch vụ CSSKSS là tất yếu khách quan ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay, bởi sự phát triển của các dịch vụ này một mặt vừa bảo đảm
cho việc nâng cao sức khỏe cho người dân, mặt khác vừa bảo đảm cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ổn định của đất nước. Các dịch vụ CSSKSS phát triển
mạnh và bền vững sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chăm sóc SKSS là một trong những nội dung quan trọng trong công
tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vì vậy, việc định hướng và đầu tư cho sự
phát triển của các dịch vụ này cần phải đặt trong mối quan hệ tổng thể với các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Phát triển dịch vụ CSSKSS là tổng

thể các kế hoạch, chương trình, biện pháp, cách thức do các chủ thể tổ chức
thực hiện để cung cấp các loại hình dịch vụ CSSKSS cho nhân dân nhằm phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng dân số, phát triển giống nòi; góp
22


phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH và xây dựng xã hội “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Dịch vụ CSSKSS là một loại hình dịch vụ đặc thù. Phát triển dịch vụ
CSSKSS ở nước ta là một hoạt động có tổ chức, có định hướng, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thực chất của phát triển dịch vụ CSSKSS:
Thực chất của phát triển dịch vụ CSSKSS là quá trình gia tăng về số
lượng, quy mô, không ngừng nâng cao chất lượng và ngày càng hoàn thiện về
cơ cấu các loại hình dịch vụ CSSKSS đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
nhân dân về CSSKSS.
Mục tiêu phát triển dịch vụ CSSKSS:
Mục tiêu trực tiếp của phát triển dịch vụ CSSKSS là góp phần phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng dân số, phát triển giống nòi, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH trong tình hình mới. Mục tiêu
lâu dài của phát triển dịch vụ CSSKSS là góp phần xây dựng con người mới
XHCN, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Chủ thể phát triển dịch vụ CSSKSS:
Chủ thể phát triển dịch vụ CSSKSS là Đảng và Nhà nước, lãnh đạo
chính quyền các cấp ở địa phương, các đoàn thể nhân dân. Trong đó, chủ thể
trực tiếp, nòng cốt và quan trọng nhất ngành y tế, các cơ sở y tế và đội ngũ y,
bác sỹ thuộc các thành phần kinh tế; đội ngũ hộ sinh, đội ngũ cộng tác viên
DS – KHHGĐ ở các tỉnh thành, địa phương (đặc biệt là ở tuyến cơ sở).
Đối tượng tiếp nhận và thụ hưởng dịch vụ CSSKSS:

Đối tượng tiếp nhận và thụ hưởng dịch vụ CSSKSS là người dân, đặc
biệt và chủ yếu là bộ phận người dân trong tuổi sinh đẻ (từ 15 đến 49 tuổi).
Mặc dù vậy, người dân không chỉ là đối tượng tiếp nhận, sử dụng dịch vụ

23


CSSKSS một cách thụ động, họ còn có trách nhiệm và nghĩa vụ nâng cao
nhận thức, hiểu biết về SKSS, tích cực, chủ động tham gia chăm sóc SKSS
cho bản thân, gia đình, con cháu và cộng đồng. Xét ở góc độ đó, người dân
vừa là đối tượng, đồng thời cũng là một chủ thể quan trọng của phát triển dịch
vụ CSSKSS.
Phương thức huy động các nguồn lực cho phát triển dịch vụ CSSKSS:
Phương thức huy động nguồn lực cho phát triển dịch vụ CSSKSS
thông qua: Đầu tư của Nhà nước, đầu tư của địa phương, đầu tư của các
thành phần kinh tế (cơ sở khám chữa bệnh tư nhân), của các cá nhân, đầu tư
của các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong và ngoài nước, của các nhà hảo
tâm, các “mạnh thường quân” và sự hỗ trợ, giúp đỡ (thường theo các Dự án,
Chương trình) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), cơ quan y tế của các nước,
vùng lãnh thổ.
Hình thức, con đường, biện pháp để phát triển dịch vụ CSSKSS là bằng
nhiều hình thức, con đường, biện pháp để thu hút và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực để phát triển dịch vụ CSSKSS về số lượng, quy mô, chất lượng và
cơ cấu các loại hình dịch vụ từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, kết
hợp truyền thống với hiện đại, đi tắt đón đầu đi hướng vào hiện đại ở những
loại hình dịch vụ CSSKSS mà Việt Nam có lợi thế tiềm năng về đội ngũ y,
bác sĩ, cán bộ y tế, cơ sở vật chất kỹ thuật.
* Nội dung phát triển dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các huyện
phía Tây, thành phố Hà Nội
Cũng như các loại dịch vụ khác, dịch vụ CSSKSS có nội dung phát

triển tương đối toàn diện cả về số lượng, quy mô; chất lượng và cơ cấu để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân nói chung và chăm
sóc SKSS nói riêng. Theo đó, nội dung phát triển dịch vụ CSSKSS bao gồm:
Thứ nhất, phát triển dịch vụ CSSKSS về số lượng, quy mô
Phát triển dịch vụ CSSKSS về số lượng trước hết là sự gia tăng về số
24


lượng các cơ sở y tế nói chung và các cơ sở y tế thực hiện dịch vụ CSSKSS
nói riêng ở tất cả các tuyến: ở tuyến tỉnh (thành phố) và Trung ương là các
bệnh viện trong đó có các bệnh viện đa khoa, hoặc chuyên khoa như: bệnh
viện phụ sản, bệnh viện nhi (hoặc bệnh viện Sản-Nhi) và các trung tâm
CSSKSS….Các bệnh viện đa khoa tuyến Trung ương và tuyển tỉnh (thành
phố) được quan tâm, đầu tư phát triển các khoa chuyên ngành, liên quan trực
tiếp đến cung cấp dịch vụ CSSKSS như: khoa phụ sản, khoa nhi, khoa sơ
sinh, khoa hiếm muộn, khoa nam học. Ở tuyến huyện có: các bệnh viện
huyện, trung tâm y tế, trung tâm y tế dự phòng…; ở tuyến xã là các trạm y tế,
nhà hộ sinh. Quá trình phát triển KT- XH của đất nước, thực trạng của ngành
y tế và nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, trong đó có nhu cầu về
CSSKSS đã và đang đặt ra yêu cầu lớn về phát triển số lượng các cơ sở y tế
nói chung và các cơ sở y tế thực hiện CSSKSS nói riêng. Để phát triển các cơ
sở y tế, bên cạnh sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, cần phải khuyến khích,
tạo điều kiện cho sự tham gia của các thành phần kinh tế, của các nhà đầu tư
trong, ngoài nước và của các cá nhân.
Nhu cầu về chăm sóc SKSS đang có xu hướng tăng, vì vậy, mà việc mở
rộng phát triển các cơ sở đó cả về số lượng và quy mô là rất quan trọng. Phát
triển về số lượng là phát triển về quy mô, số lượng dịch vụ y tế CSSKSS. Một
số xã miền núi huyện Ba Vì đã đẩy mạnh các chiến dịch chăm sóc sức khỏe
sinh sản - kế hoạch hóa gia đình đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra, nhiều xã có chỉ
tiêu đạt cao là Ba Trại, Minh Quang, Tản Lĩnh, Khánh Thượng. Thành phố

Hà Nội đã triển khai đồng loạt nhiều hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh sản
thông qua việc cung cấp kiến thức và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản,
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân trong thời gian vừa
qua. Bên cạnh các chương trình giảng dạy giới tính ở sách giáo khoa, Trung
tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình quận Hà Đông đã tư vấn, khám, siêu âm
miễn phí, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các bạn trẻ trên địa bàn Quận.

25


Các huyện phía Tây thành phố Hà nội đã có 17 Câu lạc bộ chăm sóc
sức khỏe sinh sản đã được thành lập ở các xã, thị trấn như: Hoàng Văn Thụ,
Trung Hòa, Xuân Mai, Chúc Sơn, Đông Sơn, Thanh Bình, Hợp Đồng, Đồng
Phú,… ở huyện Chương Mỹ, với các hoạt động chăm sóc sức khỏe phụ nữ,
sức khỏe bà mẹ; kế hoạch hóa gia đình, phá thai an toàn; phòng, chống các
bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục; chăm
sóc SKSS vị thành niên; dự phòng điều trị vô sinh, điều trị sớm ung thư
đường sinh sản…nhờ có những dịch vụ như trên mà trung tâm đã trở thành
địa chỉ đáng tin cậy của nhiều chị em phụ nữ, nơi đây thực sự đem đến sự yên
tâm và tin cậy cho chị em phụ nữ trong CSSKSS. Trong năm 2014 Trung tâm
phối hợp với Trung tâm DS-KHHGĐ với huyện Chương Mỹ thực hiện hiệu quả
chiến dịch truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ SKSS-KHHGĐ tại 15 xã
trong huyện. Công tác quản lý thai nghén được duy trì thường xuyên ở tất cả các
xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện. Khám, chăm sóc thai cho các bà mẹ có
thai, phát hiện sớm và tư vấn chăm sóc thai nghén, kịp thời nắm bắt những
trường hợp thai nguy cơ cao để có biện pháp ngăn ngừa và gửi tuyến trên kịp
thời. Công tác chăm sóc sức khỏe vị thành niên cũng được Trung tâm duy trì,
triển khai các chương trình mục tiêu Y tế Quốc gia một cách hiệu quả. Huyện
Thanh Oai đã tổ chức khám và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho trên 10 nghìn
lượt phụ nữ, trong đó phát hiện và điều trị cho gần 6.000 phụ nữ viêm nhiễm

đường sinh sản. Các xã miền núi huyện Ba Vì cũng đẩy mạnh các chiến dịch
CSSKSS. Khám và cấp thuốc miễn phí cho 2.800 phụ nữ thuộc các xã miền
núi, các xã khó khăn và có tỷ lệ viêm nhiễm phụ khoa cao.
Phát triển dịch vụ CSSKSS còn được thể hiện ở số lượng các loại hình
dịch vụ có và sẵn sàng cung cấp cho người dân. Hiện nay ở nước ta, việc tổ
chức cung cấp các loại hình dịch vụ CSSKSS được thực hiện theo phương
thức phân cấp, phân tuyến kỹ thuật, kết hợp với ưu tiên xây dựng và hỗ trợ hệ
thống chuyển tuyến thích hợp. Đảm bảo cung cấp các gói dịch vụ DS 26


×