Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

PHUONG PHAP TRANG TRI TRONG PHAN MON VE TRANG TRI CUA MY THUAT 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.5 KB, 14 trang )

SỞ GD&ĐT QUẢNG NINH
TRƯỜNG THPT QUẢNG LA

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hoành Bồ, ngày 16 tháng 01 năm 2018

PHƯƠNG PHÁP TRANG TRÍ
TRONG PHÂN MƠN VẼ TRANG TRÍ CỦA MỸ THUẬT 6
I. Đặt vấn đề:
- Tầm quan trọng của vấn đề:
Trang trí là một trong những môn học đặc trưng của môn học là khơng nhằm rèn
luyện tính kiên nhẫn, tỉ mỉ hình thành cảm nhận cái đẹp của màu sắc cua mọi thứ
xung quanh.
Công tác mĩ thuật mà nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản của cái đẹp
để các em tiếp xúc và làm quen với cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, biết vận dụng vào trong
cuộc sống hàng ngày.
- Tóm tắt những thực trạng liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu:
* Tình hình giảng dạy:
ĐDDH cho đặc thù bộ mơn chưa có hoặc cịn thi
ếu nhiều, cho nên vấn đề giảng dạy của bộ môn rất khó khăn đối với giáo viên.
Tuy vậy, khơng vì những khó khăn trên mà giáo viên bất mãn hay dạy sơ sài
mang tính đối phó. Qua tìm hiểu, dự giờ các tiết dạy của đồng nghiệp, tôi thấy giáo
viên rất yêu nghề, cố gắng khắc phục những hạn chế trên, nhiệt tình, tích cực dự giờ
thăm lớp, trao đổi, học hỏi lẫn nhau, tự sưu tầm, tìm hiểu nhiều tư liệu để nâng cao
kiến thức cho mình và sử dụng đồ dùng dạy học, tích cực làm đồ dùng dạy học có sự
đầu tư và nghiên cứu cao, đem lại giá trị giảng dạy tốt, phù hợp với từng phân mơn
của Mỹ thuật.
Song, do đội ngũ giáo viên cịn quá trẻ, dạy chưa được nhiều, kinh nghiệm
giảng dạy chưa cao cộng với những khó khăn trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu


quả giảng dạy của bộ môn này. Vấn đề nổi trội, đáng quan tâm nhất ở đây là sự
truyền đạt kiến thức cho học sinh qua từng bước vẽ để các em dựa vào đó mà thể
hiện bài vẽ của mình theo đúng quy trình thực hiện, nắm vững kiến thức cơ bản để
vận dụng vào bài vẽ của mình nhằm đem lại hiệu quả, chất lượng cao cho quá trình
dạy và học, từ đó các em có thể vận dụng vào các bài vẽ tương tự ứng dụng vào cuộc


sống, đảm bảo tính khoa học, sự chính xác, cân đối, phù hợp với từng đối tượng.
Nhưng qua thực tế, hầu như giáo viên chưa đảm bảo đựơc yêu cầu này.
Mặt khác, sự khai thác kiến thức từ đồ dùng dạy học cũng góp phần không nhỏ
đến kết quả của q trình dạy - học của phân mơn. Giáo viên chưa cho học sinh quan
sát, nhận xét, phát hiện ra những chỗ được và chưa được, chỗ đáng học hỏi và chỗ
cần phải tránh trong những bài vẽ được dùng làm đồ dùng dạy học.
Bên cạnh những yếu tố chủ quan nêu trên, do đặc thù của phân môn, phân phối
chương trình vừa lý thuyết vừa thực hành trong một tiết nên thời gian để giáo viên
vừa truyền đạt kiến thức kỹ cho học sinh lại vừa đảm bảo thời gian đủ để học sinh
thực hành tại lớp là quá khó. Bởi vậy mà giáo viên phải nghiên cứu bài trước khi dạy
thật kỹ, chuẩn bị đồ dùng dạy học thật chu đáo, mang tính "đại diện", xúc tích cao,
thành lập các bước vẽ lơgíc, khoa học, đảm bảo nội dung, dể hiểu để học sinh dễ
dàng vận dụng vào bài vẽ của mình. Dù thế nào đi chăng nữa thì thời gian thực hành
tại lớp vẫn khơng thể đảm bảo trong một tiết học, cho nên giáo viên cho học sinh tiếp
tục về nhà làm bài, tiết sau giáo viên kiểm tra việc làm bài ở nhà của học sinh là chủ
yếu.
* Tình hình học tập của học sinh:
Do học sinh có tư tưởng đây là môn học phụ nên không chú trọng học tập cũng
như không có sự đầu tư về thời gian vật chất cũng như tư duy sáng tạo...Vả lại, Mỹ
thuật là môn mà học sinh thể hiện năng khiếu riêng rõ rệt nên những em nào có năng
khiếu thì siêng năng, ham học, cịn những em khơng có năng khiếu thì khơng muốn
học hoặc học chỉ mang tính "đối phó".
Mặt khác, đối với học sinh dân tộc thiểu số, không thể phủ nhận rằng có em rất

ham học và có năng khiếu rõ rệt, thái độ học tập nghiêm túc, nhưng hầu hết với đối
tượng học sinh này thì các em khơng chuẩn bị đồ dùng học tập, đơn giản và cần thiết
nhất như bút chì, giấy vẽ, thước...các em cũng khơng có, các bạn quyên góp, ủng hộ
cho thì các em cũng vứt hết, khơng quan tâm.
Do đó chất lượng dạy và học cịn rất nhiều khó khăn.
- Lý do chọn đề tài:
Mỹ Thuật là môn học mà qua đó giúp học sinh cảm nhận được "Cái đẹp", u thích,
trân trọng và giữ gìn "Cái đẹp". Mặt khác giúp học sinh sáng tạo nên cái đẹp và có
những định huớng cho tương lai của bản thân mình. Ngồi ra cịn giúp các em học


những mơn học khác tốt hơn như: Tốn, Lý, Hóa ... hoặc những mơn học xã hội
khác... Từ đó, hình thành nên cho học sinh nhân cách sống theo "cái đẹp", hướng đến
cái "Chân - Thiện - Mỹ".
Vậy phải giáo dục "cái đẹp" đó cho học sinh như thế nào để ngồi việc cảm
thụ được "cái đẹp" các em cịn có thể vận dụng sự hiểu biết của mình vào sáng tạo,
tạo nên những sản phẩm theo suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của bản thân một cách dễ
dàng hơn, khơng bỡ ngỡ, mà theo đúng quy trình thực hiện?...
Từ những suy nghĩ trên, trong quá trình giảng dạy, qua kinh nghiệm của bản
thân, tôi thấy phân môn Vẽ trang trí là một phân mơn tương đối khó trong bốn phân
mơn của bộ mơn Mỹ thuật THCS. Vì vậy tơi chọn đề tài "Phương pháp dạy cách vẽ
trong phân môn vẽ trang trí của Mỹ thuật 6" nhằm đem ý kiến của cá nhân mình
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của bộ môn này
- Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu các phương pháp trực quan, thuyết trình, cách sắp xếp các bước vẽ khoa
học, xúc tích trong phân mơn vẽ trang trí của bộ mơn Mỹ thuật 6.
II. Cơ sở lý luận:
Nêu cơ sở lý luận, những luận cứ, luận điểm liên quan đến đề tài. Chương trình
Mỹ thuật lớp 6 nói chung, phân mơn vẽ trang trí nói riêng là một cấu tạo đồng tâm.
Các đơn vị kiến thức được bổ sung, nâng cao dần ở từng tiết học.

1. Lý thuyết:
Tìm hiểu về:
+ Cách sắp xếp trong trang trí.
+ Màu sắc và phương pháp sử dụng.
+ Phương pháp vẽ trang trí, như kẻ trục đối xứng, phác thảo mảng, vẽ đậm
nhạt,vẽ hoạ tiết, vẽ màu
+ Hoạ tiết, hoạ tiết dân tộc
+ Đơn giản và cách điệu.
+ Chữ và kẻ chữ…
2. Thực hành:
+ Trang trí cơ bản, chẳng hạn như trang trí hình vng, hình trịn, hình chữ
nhật, đường diềm…


+ Trang trí ứng dụng: Như các bài trang trí thảm, khăn trải bàn, lọ cắm hoa,
trại, kẻ chữ...
III.Cơ sở thực tiễn:
Từ thực tế giảng dạy mơn trang trí tơi thấy : Các em rất u thích trang trí, vì qua
đó các em được tiếp xúc, làm quen với một số tác phẩm hội hoạ nổi tiếng của thiếu
nhi không những ở trong nước mà cả của quốc tế. Các em được vẽ tranh, vẽ những gì
mình mơ ước, mình yêu thích, tập trung trang trí góc học tập của mình, ... Song, bên
cạnh việc giảng dạy cho học sinh tiếp thu tốt những kiến thức cơ bản đó thì Tơi thấy
cịn gặp nhiều hạn chế như : nhận thức của phụ huynh học sinh, chưa coi trọng mơn
học, cịn cho rằng đó là môn phụ, cho nên đồ dùng học sinh cịn thiếu thốn, ít đầu tư.
Mặt khác một số giáo viên chưa có phương pháp dạy thích hợp để giúp học sinh thấy
hết cái hay, cái đẹp của mơn học. Cơ sở vật chất của nhà trường cịn thiếu thèn, chưa
có phòng chức năng. Phòng học chưa có đủ đồ dùng cần thiết để phục vụ môn học,
bàn ghế cịn thơ sơ, tư liệu có liên quan cịn hạn chế. Vì thế trong q trình giảng
dạy, tơi ln phải cố gắng chuẩn bị tốt các khâu để kích thích động viên học sinh
thường xun, kịp thời. Và tơi cũng gặt hái được một số thành quả đáng kể, phần lớn

học sinh say sưa với môn học và hiểu được cái hay, cái đẹp trong mơn học, góp phần
hình thành ở các em khả năng cảm thụ thẩm mĩ. Chính vì những lý do trên mà tơi đã
chọn đề tài : “Phương pháp dạy cách vẽ trong phân môn vẽ trang trí của Mỹ thuật
6.”
+ Quan điểm nhận thức về mơn Trang trí :
- Mơn Mĩ thuật là mơn học nghệ thuật, thu hút rất nhiều học sinh,.
- Cho đến nay các trường đã có giáo viên dạy mĩ thuật, phong trào học Mĩ
thuật ngày càng một sôi nổi, hầu hết các em học sinh hào hứng với môn học và môn
học đã được chú ý. Tất cả mọi người đã hiểu được đây là một môn học nghệ thuật Vì
vậy khơng ít giáo viên và học sinh, các bậc phụ huynh luôn coi trọng và đầu tư cho
môn học. Qua đó các em thấy rằng Mĩ thuật là mơn học bổ ích, lý thú và tươi vui, có
tính giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cao và là môn học bổ trợ tích cực cho các mơn học
khác. Vì thế các em đón nhận tiết học một cách nhiệt tình và hào hứng.
+ Trang thiết bị dạy học :


- Để giảng dạy mơn mĩ thuật trong chương trình đào tạo được thành công, điều
này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như : tài liệu, phương tiện, đồ dùng trực quan,
...
- Có một số đồ dùng cần thiết cho việc giảng dạy Mĩ thuật cho học sinh như :
bộ đồ dùng dạy học các phân môn từ lớp 6đến lớp 9 sách tham khảo, một số tranh
ảnh về tượng, phù điêu, ...
+ Cơ sở vật chất :
Nhà trường quan tâm đầu tư công nghệ thông tin cho dạy học. Vì thế góp
phần thuận tiện cho việc dạy và học của giáo viên, học sinh. Học sinh lúc nào cũng
có đủ đồ dùng, không bị quên ở nhà.
+ Về nhận thức :
- Bên cạnh những thuận lợi như trên thì dạy và học mơm Mĩ thuật vẫn cịn gặp
phải một số khó khăn :
- Do quan niệm của một số giáo viên, một số bậc phụ huynh ,sự thiếu quan

tâm mua sắm đồ dùng học tập cho học sinh, ... Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng học tập của giáo viên và học sinh gây cho học sinh cảm giác chán nản, không
tự tin làm bài. Trên thực tế điều tra tơi cịn thấy có giáo viên giảng dạy bộ mơn về
phương pháp sư phạm cịn hạn chế, lời nói cịn chưa hấp dẫn, lơi cuốn học sinh, trình
bày bảng cịn vụng về, lúng túng,... dẫn đến học sinh khơng lắng nghe, khơng tập
trung tìm hiểu bài cịn mơ hồ, khơng nắm được mục tiêu của bài học. Điều đó khiến
cho các em khơng thích thú với bài học, thể hiện tác phẩm của mình qua loa, đại
khái, vì thế khơng thấy được cái hay, cái đẹp và vận dụng vào cuộc sống hàng ngày.
+ Trang thiết bị dạy học :
- Bên cạnh đó còn một số học sinh tỏ thái độ thờ ơ với môn học vì thực tế đời
sống dân trí cịn nghèo, hầu hết là con em thuần nông nên điều kiện để phụ huynh tập
trung đầu tư cho học tập của các em cịn hạn chế, điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến
tinh thần học tập của các em.
- Ngoài ra điều kiện nhà trường còn thiếu thốn như : phòng học chức
năng, vật mẫu cho giáo viên và học sinh, phương tiện, đồ dùng trực quan, ... vì thế
ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập và giảng dạt của giáo viên và học sinh.


. Vì vậy, là một giáo viên ln tâm huyết với nghề tôi luôn trăn trở làm như thế nào
để nâng cao chất lượng, đó chính là lý do tơi chọn nội dung nghiên cứu là “ Phương
pháp dạy cách vẽ trong phân mơn vẽ trang trí của Mỹ thuật 6.”
IV.Nội dung nghiên cứu:
1. Các loại đồ dùng trực quan:
Mỹ thuật là môn học rất đa dạng, phong phú về ĐDDH nói chung và đồ dùng
trực quan nói riêng. Đồ dùng trực quan được chia làm:
- Vật thật:
Mỗi bài trang trí ứng dụng đều có thể dễ dàng sưu tầm mẫu vật thật sẵn có,
như khăn trải bàn, hoạ tiết dân tộc, lọ hoa, bìa sách..., là loại đồ dùng rất gần gũi với
đời sống hàng ngày của học sinh. Bởi vậy giáo viên nên cố gắng cho học sinh quan
sát mẫu thật để các em khắc sâu kiến thức và hứng thú với tiết học, làm tiết dạy sinh

động, đem lại hiệu quả cao.
- Vật tượng hình: Là các bức vẽ, hình minh hoạ, tranh ảnh, phim, video….
nhằm làm các em khắc sâu thêm kiến thức, nắm rõ quy trình thực hiện, tạo sự sinh
động cho tiết học. Ngồi ra lời nói diễn cảm có hình ảnh cũng có tính trực quan, bởi
nó dựng lên một hình ảnh, một khung cảnh sinh động trước người nghe.
2. Lựa chọn và sử sụng ĐDDH:
ĐDDH là phương tiện hết sức quan trọng trong việc cung cấp kiến thức cho
học sinh. Giúp học sinh lĩnh hội tri thức nhanh, nhớ lâu và hứng thú hơn. Bởi vậy mà
người dạy, người học cần có sự chuẩn bị, sưu tầm trước cho tiết học phù hợp với nội
dung của bài, tránh trùng lặp. Cần phân loại ĐDDH: Hình để cung cấp khái niệm,
hình ảnh để phát huy khả năng suy nghỉ, phát huy năng lực sáng tạo, khích lệ tinh
thần học tập. Hình minh họa để hướng dẫn học sinh phương pháp làm bài tập. Biết
kết hợp ĐDDH như mẫu thật, hình ảnh, tranh vẽ… đúng lúc phù hợp thì chất lượng
bài học càng được phát huy. Biết kết hợp nhịp nhàng giữa lời giảng và động tác chỉ
đồ dùng dạy học, cùng với nét vẽ nhanh minh họa trên bảng để cho sự lĩnh hội của
học sinh được “đồng thời” bằng cả thị giác và thính giác. Tránh trường hợp sử dụng
ĐDDH chưa có trọng tâm, chưa thực sự chú ý về tính thẩm mỹ của nó, như: chưa
chọn lọc được hình mẫu đẹp về hình, về cấu trúc, màu sắc…, trình bày đồ dùng chưa
khoa học, ít sử dụng kết quả học tập của học sinh làm ĐDDH.


Như khi dạy bài 4: “Tạo dáng và trang trí chậu cảnh” (Mỹ Thuật 8), trước
tiên ta nên cho học sinh quan sát, nhận xét một số chậu cảnh thật, sau đó cho các em
tham khảo các tranh ảnh về các loại chậu cảnh cũng như chức năng của chúng. Sau
cùng, cho các em tham khảo một số bài vẽ của các anh, chị học năm trước để các em
khắc sâu hơn kiến thức: “thế nào là chậu cảnh” và “cách tạo dáng và trang trí chậu
cảnh như thế nào”. Từ đó các em có thể nhận ra cái được và cái chưa được trên từng
bài vẽ, trên cơ sở đó, học sinh sáng tạo ra bài vẽ về tạo dáng và trang trí chậu cảnh
của riêng mình.
Đơi lúc, tùy bài mà ta có thể đưa ra một lúc nhiều đồ dùng dạy học để học sinh

quan sát, nhận xét, đối chiếu, so sánh các hình ảnh với nhau, có cách nhìn bao quát
về nội dung bài học. Có lúc, ta nên trình bày theo trình tự bài giảng dể học sinh theo
dõi từng vấn đề của nội dung, tránh sự phân tán tư tưởng của học sinh.
Nhưng đối với hình minh họa các bước vẽ, sau khi giới thiệu với học sinh, cho
học sinh ghi xong các bước vẽ, giáo viên nên cất ngay các loại tranh ảnh, đồ dùng
dạy học để tránh sự “lai căng” trong bài vẽ của học sinh, mà phải lưu ý, bắt buộc học
sinh biết tự suy nghỉ, sáng tạo, tạo ra một sản phẩm mới rất riêng của mình.
Khi sử dụng đồ dùng dạy học tránh dùng những vật, tranh ảnh quá nhỏ, quá
mờ làm học sinh khó quan sát, nhận xét, đối chiếu…
Khi phân tích đồ dùng dạy học nên có phong cách truyền đạt dễ hiểu, đủ thời
gian để học sinh kịp quan sát, ghi nhận, tiếp thu kiến thức.
Để khai thác triệt để chức năng của đồ dụng dạy học, giáo viên nên chuẩn bị
những câu hỏi sát với nội dung bài, phù hợp với đồ dùng dạy học, với từng đối tượng
học sinh. Hướng dẫn học sinh rút ra các nhận xét, kết luận từ đồ dùng dạy học, chỉ ra
được đâu là cái “được”, đâu là cái “chưa được” và cần phải khắc phục như thế nào…
Ở phần quan sát và nhận xét, giáo viên nên cho học sinh tự quan sát, nhận xét
theo ý kiến riêng của mình nhằm phát huy tính tự tìm tịi, học hỏi của các em, khắc
sâu kiến thức cho các em, sau đó giáo viên mới gợi mở thêm bằng các câu hỏi. Cuối
cùng, giáo viên rút ra kết luận bằng những kinh nghiệm sư phạm của mình, từ đó học
sinh có thể nhận ra cái sai, cái đúng trong kiến thức của bản thân.
Hiện nay, giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học chủ yếu dựa vào hai nguồn cung
cấp:
+ Đồ dùng do nhà nước sản xuất và cung cấp: Chủ yếu là tranh, ảnh.


Nhưng nguồn cung cấp này chưa đầy đủ. Với thực trạng hiện nay ở trường
THCS không có đồ dùng dạy học cho Mỹ thuật 7, Mỹ thuật 9. Mỹ thuật 8 thì chỉ có
vài tranh ảnh, khơng đầy đủ. Chưa nói đến mẫu vật cho phân môn vẽ theo mẫu. Đó là
điều rất hạn chế cho việc dạy và học ở bộ môn Mỹ thuật.
+ Đồ dùng do giáo viên và học sinh tự sưu tầm, sáng tạo. Đây là loại đồ dùng

có vai trò hết sức quan trọng trong vấn đề dạy và học. Bởi trong quá trình sưu tầm,
sáng tạo đồ dùng học sinh đã phần nào nắm bắt kiến thức, phát hiện những cái đẹp,
cái hay, cái mới lạ trong cuộc sống và có những hiểu biết đúng đắn về sự phong phú
của thế giới cũng như biết trân trọng những giái trị của cái đẹp trong cuộc sống.
Ở đồ dùng tự làm, giáo viên phải biết tìm tịi, sáng tạo những đồ dùng mỹ
thuật, mang tính khác biệt nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và đảm bảo sự thẩm mỹ,
như làm đồ dùng dạy học đa năng, khai thác thác kiến thức cho nhiều bài… sẽ gây
hứng thú cho học sinh trong tiết học.
3. Phương pháp xây dựng, truyền đạt các quy trình tiến hành bài thực hành:
Ngoài những phương pháp dạy học mới theo yêu cầu của Bộ Giáo duc và Đào
tạo, việc giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh là một phương pháp hết sức
quan trọng để các em rèn luyện kỹ năng thực hành của mình. Nếu giáo viên hướng
dẫn trình tự các bước vẽ sơ sài, thiếu hoặc sai kiến thức thì bài vẽ của học sinh sẽ
thiếu sự cân đối về bố cục, sai lệch về hình mảng, đường nét… Do đó, giáo viên cần
nghiên cứu kỹ bài, xây dựng các bước vẽ theo một hệ thống nhất định, cơ đọng, xúc
tích, có liên quan, thống nhất chung từ kiến thức của chương trình lớp 6 đến lớp 9. Ở
phần này, giáo viên có thể dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn cụ thể, kỹ bài,
không bắt buộc cứ phải phần lý thuyết từ 15 đến 20 phút, phần thực hành từ 25 đến
30 phút. Phần thực hành giáo viên có thể cho học sinh về nhà tự làm, bởi học sinh đã
nắm vững kiến thức thì việc thể hiện bài rất dễ dàng và gây hứng thú làm bài cho học
sinh.
Để ví dụ cho ý kiến trên, tôi xin giới thiệu một số phương pháp xây dựng hệ
thống theo quy trình các bước vẽ cho phân mơn vẽ trang trí như sau:
Mỹ thuật lớp 6:
Bài 14: Vẽ trang trí: TRANG TRÍ ĐƯỜNG DIỀM.
Ở bài này SGK cung cấp kiến thức còn chung chung, chưa phù hợp với đối
tượng nhận thức của học sinh, giáo viên không nên máy móc đi các bước vẽ giống


SGK, mà từ những kiến thức trong SGK giáo viên xây dựng lại trình tự các bước vẽ

phù hợp hơn, cơ động, xúc tích hơn giúp học sinh dễ nắm bắt và nhớ kiến thức được
lâu hơn và dễ dàng hơn.
Trước khi hướng dẫn học sinh cách trang trí một đường diềm đơn giản, ta nên
chú ý học sinh 2 từ "đơn giản" bởi ta chỉ vẽ một bài đơn giản, mang tính tượng trưng,
chứ khơng phải một bài đi sâu, phức tạp, do các em mới tập làm quen với bài vẽ
trang trí của đầu cấp.
bước 1: Ta khơng nên cho học sinh "kẻ 2 đường thẳng song song" mà xây
dựng kiến thức là "kẻ 2 đường song song", bởi 2 đường song song này có thể là
đường cong hay đường trịn chứ khơng bó buộc trong 2 đường thẳng, không khéo
học sinh lại nhận thức là đường diềm chỉ có giới hạn trong 2 đường thẳng song song.

bước 2, sách giáo khoa ghi: "Chia khoảng để vẽ họa tiết nhắc lại hoặc xen kẽ".
Thực ra phần họa tiết ta đã cho học sinh quan sát ở mục I của bước vẽ, ta chỉ nên cho
học sinh ghi "chia đều các khoảng cách" rồi lưu ý thêm cho học sinh dùng họa tiết
nhắc lại, họa tiết xen kẽ thì ta nên chia khoảng cách thế nào.

bước 3, sách giáo khoa ghi: "Vẽ họa tiết cho đều vào các mảng hình", ta nên
ghi: "Vẽ họa tiết". Câu từ trở nên vừa cô động, dễ hiểu, dễ nhớ mà vẫn đảm bảo nội
dung để học sinh có thể vận dụng quá trình thực hành bài, vừa thống nhất chung đặc
điểm của phân mơn vẽ trang trí từ lớp 6 đến lớp 9.
bước 4, sách giáo khoa ghi: "Lựa chọn màu sắc", ta xây dựng lại: "Vẽ màu",
cịn "lựa chọn" thì ta lưu ý cách lựa chọn màu cho học sinh dựa trên những bài mẫu
tham khảo.


Hịa sắc lạnh

Hịa sắc nóng
Như vậy xây dựng các bước vẽ cơ đọng, xúc tích giúp học sinh nhớ lâu kiến
thức, nó liên quan đến tất cả các kiến thức chung kéo dài từ lớp 6 đến lớp 9, học sinh

dễ dàng ứng dụng các bài học tiếp theo.
- Hiệu quả: Việc vận dụng sáng kiến kinh nghiệm vào trong giảng dạy đã
mang nhiều hiệu quả, học sinh cảm nhận được cái đẹp, làm ra những sản
phẩm, các em rất thích học mơn Mĩ thuật và đã đạt được kết quả khá cao
trong học kỳ vừa qua. Cụ thể như sau:
Lớp
Đ

6A1
95%
5%
6A2
100%
0
V.Kết quả nghiên cứu:
Phương pháp xây dựng, truyền đạt các quá trình tiến hành bài thực hành là một
vấn đề hết sức quan trọng cần được quan tâm đặc biệt đối với phân mơn vẽ trang trí
nói riêng, với mơn Mỹ thuật nói chung. Phương pháp này ngoài việc giúp giáo viên
có sự đầu tư, quan tâm sáng tạo hơn đối với bài dạy, nó còn giúp học sinh dễ dàng
lĩnh hội kiến thức nhanh chóng, nhớ lâu và ứng dụng vào các bài thực hành có kết
quả cao trong cách xây dựng bố cục, cân đối về mảng, đường nét, hoạ tiết…
Bên cạnh việc xây dựng các bước vẽ logic, khoa học, qua kinh nghiệm 8 năm
giảng dạy, qua dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp, tôi thấy rằng những tiết dạy nào
giáo viên sử dụng ĐDDH hợp lý, phong phú, có sự sáng tạo, sử dụng đúng phương
pháp thì tiết dạy rất sinh động, giúp học sinh hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức
nhanh, nhớ lâu. Kỹ năng thực hành rất thành thạo, sáng tạo.
VI.Kết luận:
Đối với người giáo viên, sự đánh giá của thành công khi đứng trên bục giảng
là làm sao có thể truyền đạt được hết kiến thức cho học sinh, giúp các em lĩnh hội
kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng, ghi nhớ lâu và ứng dụng những kiến thức



đã học vào cuộc sống. Vì thế người giáo viên khơng ngừng tìm tịi, học hỏi, lĩnh hội
kiến thức từ đồng nghiệp, từ tư liệu, tranh ảnh để nâng cao kỹ năng giáo dục của
mình, sáng tạo cái mới, cái khoa học để làm sinh động, chất lượng đối với tiết dạy,
đem lại thành công cho chuyên môn.
Với bản thân tôi, là một người giáo viên, tôi cũng không ngừng học, hỏi sưu
tầm nhiều nguồn tư liệu, làm giàu thêm kiến thức cho chuyên môn.
Từ đó, tôi rút ra được một số kinh nghiệm qua sự giảng dạy của mình. Rất
mong sự góp ý, nhận xét của quý thầy, cô và bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi
được hoàn thiện hơn.
VII. Đề nghị:
Để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn này cũng như để đáp ứng phương pháp
sáng kiến của tôi đạt hiệu quả cao hơn, tôi có một số kiến nghị sau:
- Giáo viên giảng dạy cần phải nghiên cứu, sưu tầm, chuẩn bị kỹ bài dạy và
ĐDDH, phải thuộc giáo án trước khi lên lớp.
- Giáo viên cùng bộ môn phải thường xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm qua từng
bài dạy.
- Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi để học sinh có phòng học đặc thù cho bộ
mơn, ý kiến với Phịng Giáo dục cung cấp đầy đủ
VIII.Tài liệu tham khảo:
* TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- Sách giáo khoa Mỹ thuật 6.
- Sách giáo khoa Mỹ thuật 7.
- Sách giáo khoa Mỹ thuật 8.
- Sách giáo khoa Mỹ thuật 9.
- Sách giáo viên Mỹ thuật 6,7,8,9.
IX.Muc luc:
NỘI DUNG
I. Đặt vấn đề

- Tầm quan
trọng của vấn
đề
- Tóm tắt thực
trạng

TRANG
1


* Tình hình
giảng dạy
* Tình hình học
tập của học sinh.
- Lý do chọ đề
tài
- Giới hạn
nghiên cứu đề tài.
II. Cơ sở lý luận
1. Lý thuyết
2. Thực hành
III. Cơ sở thực tiễn
+ Quan điểm
nhận thức mơn
Trang trí
+ Trang thiết bị
dạy học
+ Cơ sở vật chất
+ về nhận thức
IV. Nội dung

nghiên cứu
1. Các loại đồ
dùng trực quan
2. Lựa chọn và sử
dụng ĐDDH
3. Phương pháp xây
dựng, truyền đạt
các quy trình tiến
hành bài thực hành.
V.Kết quả
nghiên cứu:
VI. Kết luận:
VII. Đề nghị:

2

3

4

5
6

7
8

9
10

11


VIII.Tài liệu
tham khảo
12
TỔ CHUN
MƠN

Hồnh Bồ, ngày 16 tháng 01 năm 2018
Người viết SKKN


Vũ Thành Công
TRƯỜNG THPT QUẢNG LA
Năm học 2017-2018

Phiếu chấm
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Cấp...........................

Tên đề tài: “Phương pháp vẽ trang trí trong phân mơn trang trí của Mĩ
Thuật 6”
Tác giả nghiên cứu: Vũ Thành Công
Đơn vị công tác: Trường THPT Quảng La
Dự thi GVDG môn: Mĩ Thuật
Ý kiến nhận xét:
I. Tính chất của đề tài nghiên cứu: Là vấn đề được nghiên cứu nhiều hay ít, mới,
khó hay cần:
……………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………......…….
II. Nội dung: Giải quyết vấn đề gì? Có nằm trong trọng tâm chỉ đạo của ngành

khơng? Mức độ, tính chính xác, tính sáng tạo:
- Ưu nhược điểm chủ yếu của vấn đề đã được giải quyết:
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
III. Phương pháp:
- Nêu được vấn đề và tìm ra được cách thức, con đường giải quyết (mức độ hay, độc
đáo):
………………………………………………………………………………….......
…………….
……………………………………………………………………………………………….……
…………………………………………………………………………………………………….
.
- Đã sử dụng được các phương pháp nghiên cứu khoa học để giải quyết vấn đề đặt ra:
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
IV. Hiệu quả: Vấn đề đã giải quyết đạt hiệu quả, tác dụng gì ? Mức độ, phạm vi áp
dụng trong ngành : ……………………………………………..........................
…………………………………..
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
V. Hình thức: Bố cục bài viết, trình bày: ……………………………...………………….
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
VI. Điểm chấm đề tài: (Bằng số)..........................(Bằng chữ)……………………….
VII. Đề nghị của cặp chấm (chuyển lên thành đề tài NCKH hoặc cho phổ biến ở
đối tượng, phạm vi nào)…………………………………………………………………….



Người chấm vòng (1)

Ngày…… tháng……năm ..........
Người chấm vòng (2)



×