Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

TIỂU LUẬN VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.27 KB, 29 trang )

lOMoARcPSD|11029029

BỘ GIÁO
DỤC VÀ
ĐÀO
TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
---------------------------------------

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

Giang Chí Huy
46.01.607.031


lOMoARcPSD|11029029

TP HỒ CHÍ MINH – tháng 6 năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN VĂN
HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hữu Nghĩa
Sinh viên thực hiện: Giang Chí Huy
MSSV: 46.01.607.031



lOMoARcPSD|11029029

TP HỒ CHÍ MINH – Tháng 6 năm 2021


lOMoARcPSD|11029029

I. MỤC LỤC:
I.

MỤC LỤC……………………………………………..………………1

II.

LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………..…………......2

III

PHÂN BIỆT TỤC NGỮ VÀ CA DAO… ………..…………………3

.

1. Các trường hợp cần đặt ra vấn đề phân biệt giữa tục ngữ và ca dao…2
2. Các tiêu chí phân biệt một tác phẩm là tục ngữ hay ca dao………...3
2.1. Thế nào là tục ngữ?.............................................................................4
2.2. Thế nào là ca dao?..............................................................................5
2.3. Các tiêu chí phân biệt……………………………………………….8
3. Ví dụ………………………………………………………………………9


IV
.V.

XÁC ĐỊNH LOẠI VẦN VÀ CÁC LOẠI PHÉP ĐỐI…………..… 12
CÁC PHƯƠNG THỨC PHƠ DIỄN TÂM TÌNH.……………...….17

Page | 1


lOMoARcPSD|11029029

VI.

SỰ KẾT HỢP TÍNH CHẤT DUY LÍ VÀ TÍNH CHẤT NGHỆ THUẬT
TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM……………………..…………………24
1. Thế nào là tính chất duy lí………………………………...……………24
2. Thế nào là tính chất nghệ thuật…………………………...……………24
3. Sự kết hợp tính chất duy lí và tính chất nghệ thuật trong tục ngữ Việt
Nam…………………………..…………………………………………….25

II. LỜI NÓI ĐẦU:
Nhà văn người Nga Aleksandr Solzhenitsyn[1] từng nói: “Văn chương trở thành ký
ức sống động của một quốc gia”, từ xa xưa văn học đã mang dấu ấn đậm nét từ những
câu ca dao, tục ngữ và dần dần nó phát triển mạnh mẽ hơn khơng chỉ cịn là truyền miệng
mà nó cịn là trên sách vở, có nghiên cứu khoa học và trở thành một lĩnh vực riêng biệt.
Thông qua những tác phẩm văn học, ta dường như có thể khám phá ra tất cả các phong
tục, tập quán của từng địa phương, dân tộc, của một quốc gia, là một phương tiện tuyệt
vời đưa ta sống lại với từng giai đoạn lịch sử. Các tác phẩm như Tam Quốc diễn nghĩa,
Hồng Lê nhất thống chí tái hiện lại một thời kỳ lịch sử hoành tráng của dân tộc, Lão
Hạc cho ta thấy được cuộc sống cùng cực của con người Việt Nam trong thời chiến,

những bài thợ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh cho ta thấy được sức
mạnh cũng như ý chí hào hùng của dân tộc. Người ta vẫn nói văn học là một cái gì đó rất
trừu tượng, nó khơng phải một bàn tay nhưng lại có sức mạnh vơ hình kéo con người ta

Page | 2


lOMoARcPSD|11029029

lại gần nhau hơn. Đó chính là tâm tư, tình cảm của con người, là ý thức xã hội hình thành
trong não chúng ta. Văn học mang đến cảm xúc khác biệt cho từng người, làm cho tình
cảm yêu thương, kiêu hãnh, bao dung đến với chúng ta. Từ đó có thể thấy được rằng sức
ảnh hưởng của văn học đối với đời sống của con người là vô củng to lớn và là một thành
phần không thể thiếu trong quá trình hình thành xúc cảm của con người.
Đối với lịch sử phát triển văn học Việt Nam, văn học dân gian đóng một vai trị
vơ củng quan trọng trong việc thể hiện đời sống lao động và tâm hồn người nông dân,
nhân dân lao động Việt Nam. “Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi
dưỡng tâm hồn dân tộc Việt Nam”, ra đời từ buổi sớm của xã hội loài người, lúc con
người chưa phát minh ra chữ viết, văn học dân gian là nguồn sữa trong lành nuôi
dưỡng bao thế hệ trẻ lớn lên trong chiếc nôi tre Việt Nam, trong tiếng ru ầu ơ dân tộc ,
qua văn học dân gian, ta cảm nhận rõ hơn sự kỳ diệu của ngơn ngữ tình yêu, thấy
thương hơn gốc lúa, vườn rau, thương hơn cuộc sống quanh ta. Mang trong mình lý
tưởng thẩm mỹ, triết lý sống cao đẹp mà tác giả gửi gắm một cách kín đáo, đến với
văn học dân gian, ta khơng chỉ cảm thấy hồn mình thư thái, quên đi bao muộn phiền,
mà còn học được nhiều điều tưởng như đơn giản nhưng hết sức cần thiết trong cuộc
sống. Qua văn học dân gian, vốn tiếng Việt của ta phong phú hơn. Ta biết sống nhân
ái, biết cư xử đúng mực hơn. Đặc biệt, bài học nhân sinh, bài học về lòng cao thượng
mà văn học dân gian mang lại càng phát huy hiệu quả đối với thanh thiếu niên và học
sinh ngày nay. Học và tiếp cận với văn học dân gian, các em biết trân trọng hơn những
gì mình đang có, biết hành xử đúng mực trong mọi tình huống để người gần người

hơn. Sao cho truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được lưu giữ và phát
triển đến muôn đời sau.

Page | 3


lOMoARcPSD|11029029

III. PHÂN BIỆT TỤC NGỮ VÀ CA DAO:
“Tục ngữ, ca dao là phần phong phú nhất trong văn học dân gian của dân tộc ta.
Đây cũng là phần có giá trị nhất về mặt trí tuệ, tình cảm và nghệ thuật biểu hiện. Do đặc
điểm nội dung và hình thức ngắn gọn, có vần, dễ nhớ, nên nó ln được nhân dân vận
dụng, truyền miệng qua nhiều thế hệ. Chính vì vậy nó ln được trau chuốt mà vẫn giữ
được cái hồn, cái hình mặc dù có thay đổi một vài từ khi đến “cư trú” ở các địa phương
khác nhau…” (trích “Tục ngữ, ca dao Việt Nam” của Mã Giang Lân).
1. Các trường hợp cần đặt ra vấn đề phân biệt giữa tục ngữ và ca dao:
Trong bài “Tiếng nói văn nghệ” của tác giả Nguyễn Đình Thi có viết: “Tác phẩm
(Văn học) vừa là kết tinh của tâm hồn sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho người đọc sự
sống mà nghệ sĩ mang trong lịng.” Điều đó có nghĩa là văn học đóng một vai trị rất
quan trọng đối với sự phát triển tâm hồn của mỗi con người. Đặc biệt là với lứa tuổi học

Page | 4


lOMoARcPSD|11029029

sinh. Mỗi tác phẩm văn học là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, là tiếng nói của tác
giả trong cuộc đời. Nhà thơ Tố Hữu từng nói rằng: “Cuộc đời chính là nơi xuất phát và
cũng là nơi đi tới của văn học”. Nghĩa là văn học được tạo ra để phục vụ cho cuộc sống
của mỗi chúng ta. Cuộc sống có trở nên tươi đẹp và nhân ái hơn là bởi có văn học. Vì thế

mà văn học có một vị trí riêng cho mình trong các lĩnh vực nghiên cứu một cách chặt chẽ
và có tính khoa học. Trong q trình nghiên cứu, phân tích và đánh giá một đơn vị tác
phẩm văn học, không thể không đặt ra các vấn đề phân biệt giữa tục ngữ, thành ngữ và ca
dao cũng như đặt ra những vấn đề phân biệt các thể loại văn học nhằm đưa ra những kết
luận hợp lí nhất, khách quan nhất. Khi tìm hiểu, phân tích một tác phẩm, đặc biệt là các
tác phẩm văn học dân gian, cần nắm rõ các khái niệm về tục ngữ, thành ngữ, ca dao để
cảm nhận tác phẩm một cách sâu sắc và chi tiết nhất. Tương tự, khi soạn các bài báo có
liên quan đến các yếu tố văn chương, cần phải nêu rõ, phân biệt giữa tục ngữ và ca dao để
có được thơng tin chính xác nhất đến tay người đọc.
2. Các tiêu chí phân biệt một tác phẩm là tục ngữ hay ca dao:
2.1. Thế nào là tục ngữ?
Tục ngữ là một trong những thể loại của văn học dân gian. Khác với ca
dao, dân ca là những khúc hát tâm tình, thiên về khía cạnh tinh thần, tình cảm,
tục ngữ có chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm trên rất nhiều lĩnh vực của
cuộc sống hằng ngày. Khác với cách ngôn, tục ngữ không bao hàm ý nghĩa
khuyên răn trực tiếp. Với đề tài phong phú, đa dạng, tục ngữ là những lời nói có
tính nghệ thuật thể hiện sự đúc kết những kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm
lịch sử – xã hội, những bài học ứng xử, những phương châm xử thế của nhân
dân. Tục ngữ thường rất cơ đọng, tiết kiệm lời nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc. Nội
dung của tục ngữ thường đề cao những quan hệ ứng xử phù hợp với cộng đồng,
hướng đến mục đích xây dựng và củng cố quan hệ tốt đẹp giữa con người với
nhau. Với các chủ đề khác nhau, những câu tục ngữ này thể hiện những quan
niệm của dân gian về cuộc sống như khi khuyên con người nên chăm chỉ làm
ăn, tục ngữ nói: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”. “Hàm nhai” chỉ hoạt
động cụ thể của con người là ăn, được dùng để khái quát ý nghĩa có của ăn của

Page | 5


lOMoARcPSD|11029029


để, và dùng hình ảnh “miệng trễ” để chỉ sự nghèo đói. Hoặc để nói đến đức
tính cần cù, tục ngữ nói: “Kiến tha lâu cũng có ngày đầy tổ”. Dùng một hình
ảnh rất gần gũi, dễ hiểu để truyền tải một ý nghĩa sâu sắc như một quy luật của
cuộc sống. Cũng có khi tục ngữ dùng cách nói giàu hình ảnh, nhịp nhàng,
truyền cảm như “Tình thương quán cũng là nhà, lều tranh có nghĩa hơn tồ
ngói cao”. Đặt sự vật, sự việc trong thế đối lập, để làm nổi bật điều muốn nói.
Vì thế, tục ngữ thường rất dễ nghe, dễ hiểu và dễ thuộc, nó phù hợp với suy
nghĩ của số đông người trong cộng đồng. Đây cũng là nguyên nhân làm cho tục
ngữ có sức sống và sức phát triển lâu bền đến như vậy. Trong kho tàng những
câu nói dân gian, tục ngữ về đạo đức, lối sống là một mảng nội dung rất phong
phú. Là những câu nói đưa ra những kinh nghiệm sống, những lời răn dạy, tục
ngữ về đạo đức lối sống cũng là nơi thể hiện những phẩm chất đẹp đẽ của nhân
dân lao động. Tục ngữ chứa đựng những tinh hoa ứng xử, những quan niệm
nhân văn về lối sống, lẽ sống, về những phẩm chất quý giá của con người.
2.2. Thế nào là ca dao?
“Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homerơ đến Kinh Thi, đến ca dao Việt
Nam, thơ ca có một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại, nó ra đời từ những
buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người cho đến ngày tận thế”
(Hoài Thanh).
Trong quá khứ, ca dao dân ca đã trải qua thời hồng kim của nó, có thể
nói ca dao dân ca có mặt trong mọi hoạt động của con người, góp mặt trong mọi
khía cạnh của đời sống. Kể từ khi con người vươn mình khỏi bóng tối nguyên
thủy, mở rộng tâm hồn để đón nhận những vang vọng của đất trời, để trái tim
mình cất lên những xúc cảm buồn vui yêu ghét, thì ca dao dân ca, những câu
thơ khúc nhạc đầu tiên của nhân loại, đã nảy sinh và bầu bạn với con người như
tri âm, tri kỉ. Ca dao dân ca Việt Nam đã chiếm một phần quan trọng không thể
thay thế trong đời sống sinh hoạt cũng như đời sống tinh thần của người Việt,
trở thành một mảnh ghép của hồn Việt, một mảnh ghép cổ xưa, chân thành,
mộc mạc mà sâu sắc, dạt dào… Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hân


Page | 6


lOMoARcPSD|11029029

– Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi thì khái niệm Dân ca (tiếng Pháp: chanson
populaire; tiếng Anh: folk song) là một loại hình sáng tác dân gian mang tính
tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với nhau trong diễn
xướng. Xét về đặc điểm âm nhạc, làn điệu, có thể chia dân ca thành hai loại
hính là loại đa điệu và đơn điệu. Đa điệu (nhiều làn điệu) như dân ca quan họ
Bắc Ninh (khoảng hai ba trăm làn điệu khác nhau). Đơn điệu như hát ví, giặm
Nghệ – Tĩnh, hát trống quân, hát đúm… Tuy nhiên, do tác động của hoạt động
sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, thật ngữ ca dao đã dần dần chuyển
nghĩa. Từ một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam dã
dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ)
của dân ca (không kể những tiếng đệm, luyến láy, tiếng đưa hơi). Với nghĩa này
ca dao là thơ dân gian truyền thống. Dựa vào chức năng kết hợp với hệ thống đề
tài, có thể phân ca dao cổ truyền thành những loại ca dao khác nhau, ca dao ru
con, ca dao về tình yêu, ca dao về tình cảm gia đình, ca dao than thân, ca dao
trào phúng… Cũng như các thể loại khác của văn học dân gian, ca dao dân ca ra
đời từ chính những hoạt động thực tiễn của đời sống con người, và cũng chính
vì vậy, sự tồn tại của ca dao dân ca trước hết gắn chặt với những hoạt động sinh
hoạt của cuộc sống thường nhật. Những khúc hát ru của mẹ, của bà, của chị bên
cánh nôi tuổi thơ chính là một trong những biểu hiện sống động mà gần gũi,
thân thuộc của sự tồn tại của ca dao dân ca trong đời sống hôm nay. Trong cuộc
sống hiện đại, tuy rằng sự xuất hiện của những khúc ru em đang dần thưa vắng,
nhưng chúng ta vẫn có thể bắt gặp hình ảnh những người mẹ, người bà, người
chị cất lên những lời hát ngọt ngào để vỗ về những đứa trẻ vào giấc ngủ. Cùng
nhịp võng đều đều hay vòng tay đong đưa nhẹ nhàng, ấm áp, những lời ca ngọt

ngào, êm dịu của những bài hát ru như một cơn gió mát lành đưa tâm hồn trẻ
thơ vào thế giới mộng ảo, huyền diệu của những giấc mơ lành, giúp em ngủ say,
ngủ êm, không bị quấy phá bởi những cơn ác mộng… cịn gì đẹp hơn hình ảnh
ấy, người mẹ ẵm đứa trẻ trên tay, cất lên chất giọng tha thiết yêu thương. Có thể
đó là những khúc ru trầm bổng của miền kinh Bắc:

Page | 7


lOMoARcPSD|11029029

“Cái ngủ mày ngủ cho ngoan
Để mẹ đi cấy đồng xa trưa về
Bắt được con trắm con trê
Thòng cổ mang về cho cái ngủ ăn…”
Hay những khúc hát ru của người mẹ miền Trung:’
“Bạn chào ta có ân có ái
Ta chào lại bạn có nghĩa có nhơn
May mơ may quyển lại gặp đờn
Quyển kêu thánh thót cịn tiếng đờn thì ngâm nga
Nhắn em về nói với mẹ cha
Dọn đàng quét ngõ tháng ba dâu về
Dâu về không lẽ về không?
Ngựa Ô đi trước ngựa Hồng theo sau
Ngựa Ô đi tới vạt cau
Ngựa Hồng thủng thỉnh đi sau vạt chè…”
Hay khúc ầu ơ của người mẹ miền Nam, mộc mạc, chân tình mà ngọt ngào, tha thiết:
“Ầu ơ … ví dầu
Cầu ván đóng đinh
Cầu treo lắc lẻo

Gập ghềnh khó qua

Ầu ơ …
Khó qua mẹ dắt con qua…

Page | 8


lOMoARcPSD|11029029

Con đi trường học
Mẹ đi trường đời …”
Đó là những khúc ca đi cùng tuổi thơ, khi nhìn thấy người mẹ hát ru, ta
như bắt gặp cả tuổi thơ mình trong đó, trở về với phần hồn nhiên nhất, ấm cúng
nhất của tâm hồn mình.
2.3. Các tiêu chí phân biệt:
Ca dao là những bài ca ngắn có vần, điệu để nói lên quan niệm về Thiên nhiên,
cuộc sống, Con người và Xã hội. Tục ngữ là những câu nói hồn chỉnh, đúc kết kinh
nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục
ngữ thiên về trí tuệ nên thường được ví von là “trí khơn dân gian”. Trí khơn đó rất là
phong phú mà cũng rất đa dạng nhưng lại được diễn đạt bằng ngơn ngữ ngắn gọn, xúc
tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên
thường được nhân dân vận dụng vào đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội
hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khun răn.
Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu
tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác, được tách ra từ các tác phẩm văn học
dân gian hoặc ngược lại, được rút ra từ các tác phẩm văn học bằng con đường dân gian
hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài. Giữa hình thức và nội dung,
tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: Nghĩa đen và nghĩa
bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những

phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngơn được xây dựng từ
những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,…Và đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại:
vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý,
theo tổ chức ngơn ngữ thơ ca…Sự hịa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến thức
vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý, tục ngữ có thể có một vế, chứa
một phán đốn, nhưng cũng có thể có nhiều vế, chứa nhiều phán đốn. Trong khi đó, ca
dao sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, thể lục bát rất phổ biến trong ca dao, cấu trúc thể

Page | 9


lOMoARcPSD|11029029

loại thơ trong ca dao theo lối ngẫu nhiên không có chủ đề nhất định, bao gồm cấu trúc
theo lối đối thoại, và cấu trúc theo lối phô diễn về thiên nhiên.
3. Ví dụ:
Như đã được đề cập, tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn
xúc cảm, tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời.
Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả, ban đầu tục ngữ chỉ mang tính chất nói
xi tai, hợp lí, sau dần mới trở thành câu nói có vần vè, gọn gàng hơn. Như câu tục ngữ
“Quá mù ra mưa” đã nhắn nhủ chúng ta rằng mọi sự vật sự việc đều có giới hạn của
riêng nó và trong cuộc sống hãy cố gắng nhiều từ những việc làm nhỏ tích lại chắc chắn
sẽ thành cơng. Theo lối chiết tự ta biết được “Mù” ở đây chính là sương mù. Sương mù ở
đây nó hiểu rất đơn giản nếu như chúng ta chịu học hỏi đó chính là hiện tượng hơi nước
ngưng tụ thành các hạt nhỏ li ti giống như mây nhưng hiện ra áp trên mặt đất. Hiện tượng
này thay vì trên trời cao như những đám mây lơ lửng. Thực tế ta như biết được chính
sương mù được tạo nên từ hơi ẩm trên Trái đất bốc hơi. Điều cần phải nhớ đó chính là khi
bốc hơi, thì chính hơi ẩm chuyển động lên cao. Khi lên cao thì nhiệt độ cũng giảm đí,
lạnh dần và ngưng tụ tạo thành hiện tượng sương mù mà ta hay nhìn thấy. Thế rồi trong
khi đó thì mưa là dạng ngưng tụ của hơi nước khi gặp điều kiện lạnh. Đặc biệt hơn ta như

thấy được khi có q nhiều giọt nước hình thành ở mây, khi mà để lâu ngày các đám mây
càng nặng sẽ rơi xuống tạo thành mưa. Câu tục ngữ “Quá mù ra mưa” dường như cũng
đã có ý muốn nói đó chính là khi khơng gian có q nhiều sương mù – “quá mù” thì sẽ
tạo ra thành mưa. Thực tế mỗi chúng ta dường như cũng thật dễ dàng nhận ra rằng sương
mù chỉ là những hạt nước nhỏ li ti mà thơi. Những sương mù mà có nhiều người ta cũng
có thấy được nó giống như những cơn mưa phùn có đơi khi lại như chẳng thể nào mà có
thể làm ướt áo ai cả. Cịn đối với cơn mưa thì lại khác, nó có thể làm ướt sũng, ngập nơi
mà nó đi qua. Tuy ta như thấy được hai hiện tuộng này thoạt nghĩ thì nó khác nhau như
thực sự nó cũng chỉ là một q trình vận động bình thường mà thơi. Khi “Q mù ra
mưa” là vậy, nhiều mù sẽ tạo ra một cơn mưa. Đó chính là sự chuyển hóa về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất. Thế nên nếu như những cơn mù mà cứ nho nhỏ vừa đủ thì nó

Page | 10


lOMoARcPSD|11029029

cũng mãi mãi chỉ là cơn sương mù mà thôi. Nhưng khi đã tích trữ đủ lớn những hạt mù
đó như lớn hơn sẽ tạo được thành một cơn mưa. Nhà thi sĩ Nguyễn Bính từng viết:
“Nắng mưa là chuyện của trời
Tương tư là chuyện của tơi u nàng”
Thì tục ngữ cũng có câu nói về “nắng” và “mưa” như “Mau sao thì nắng, vắng
sao thì mưa”, tục ngữ có hai vế, trong hai về lại gồm các chữ đối nhau. Một cách nói vần
vè dễ nhớ. “Mau” có nghĩa là nhiều, dày; “mau sao” là nhiều sao, dày sao và sao xuất
hiện sớm, mọc sớm. vê mùa hè, trời vừa chập tối, nhiều sao sáng xuất hiện trên bầu trời
xanh qua đó nhân dân ta biết ngày mai và những ngày sắp tới trời nắng, rất đẹp trời, để
chủ động sắp xếp công việc làm ăn, cày bừa cấy hái,... “vắng” là thưa sao, ít sao trên bầu
trời. Đó là một hiện tượng cho biết trời sắp mưa. Biết trước trời mưa, nắng thì mọi cơng
việc làm ăn, nhất là nghề nơng mới chủ động tích cực, mới tránh được rủi ro thiệt hại.
Câu tục ngữ “Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa” là một kinh nghiệm hay về dự báo

thời tiết mùa hè. Mùa đơng thì trái lại: “Nhiều sao thì mưa, thưa sao thì nắng”.
Có thể nói, muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào,
thắm thiết và sâu sắc đến cỡ nào….thì khơng thể nào khơng nghiên cứu và biết đến ca
dao. Ca dao Việt Nam là những bài tình tứ, là khn thước cho lối thơ trữ tình của ta. Ca
dao thể hiện tình u như tình u đơi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai
cấp, thiên nhiên, hịa bình,…Chẳng hạn như:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chng Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Tuyệt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ…”
Ca dao dân ca xưa và kể cả khơng ít những nhà thơ đã tả nhiều về vẻ đẹp
thanh bình kinh thành Thăng Long. Cảnh mùa thu thật đẹp, gió nhẹ nhẹ đủ làm

Page | 11


lOMoARcPSD|11029029

gợn sóng mặt hồ Tây, bên bờ hồ liễu rủ biêng biếc. Câu thơ mở đầu cho thấy
gió rất nhẹ, gió khơng thổi mà chỉ đưa nhẹ nhàng làm đung đưa những cành
trúc rậm rạp la đà sát mặt đất. Cành trúc được làn gió thu trong trẻo, mát lành
vuốt ve êm dịu, cùng vói gió cành trúc khẽ lay động bay cùng chiều gió. Bài
thơ tả cảnh dẹp kinh thành Thăng Long, nhưng thông qua miêu tả cảnh, ẩn chứa
tình cảm tự hào về quê hương đất nước:
“Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai”
Quê hương đang ngày ngày thay da đổi thịt, cảnh tình thấm vào nhau rung động mãi
trong hồn ta. Tâm hồn tác giả thật say sưa mới có những vần thơ hay đến vậy. Bài ca dao
để lại trong ta ấn tượng tuyệt vời về Thăng Long. Nó giúp ta yêu hơn tự hào hơn, về kinh
đô ngàn năm văn hiến. Bài ca dao mang vẻ đẹp cổ điển hoa lệ như một bài cổ thi trác

tuyệt.

Page | 12


lOMoARcPSD|11029029

IV. XÁC ĐỊNH LOẠI VẦN VÀ CÁC LOẠI PHÉP ĐỐI:
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau hoặc gần giống nhau, được dùng để
tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu trong bài thơ với nhau. Thường
vần được dùng để nối câu gieo vào chữ cuối cùng của câu thơ. Có thể nói điểm khác biệt
then chốt giữa thơ và văn xi là vần, gồm 2 loại vần là vần bình và vần trắc. Vần bình là
những chữ khơng dấu hoặc có dấu huyền, vần trắc là những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc,
nặng. Và phép đối là cách sử dụng từ trong thơ sao cho các từ đối nhau hoặc trái nghĩa
với nhau, cùng trường nghĩa với nhau, hoặc đồng nghĩa với nhau để gây hiệu quả bổ
sung, hoàn chỉnh về nghĩa…Từ các khái niệm như trên, ta có thể ứng dụng trong việc xác
định các loại vần và các loại phép đối được sử dụng trong các câu tục ngữ sau:
“Đất lề, quê thói.”
Là câu tục ngữ được nói ngắn gọn cùa tục ngữ “Đất có lề, quê có thói” tức mỗi
địa phương có các phong tục, tập quán khác nhau, “lề” trong “lề lối” có một sự phân
chia rõ ràng, “thói” trong “thói quen” chỉ những việc làm thường nhật, đã làm nhiều lần,
có thể nói thói quen như là một văn hóa của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. “Đất có lề” tức
đất đã có sự phân chia rõ ràng đâu ra đấy, “quê có thói” tức ở quê nhà đã có những thói
quen, phong tục nơi quê, đã được những người dân trong làng gắn bó, gìn giữ và truyền
lại qua nhiều thế hệ, vì vậy nơi đâu đều có định luật của nơi đó mà chúng ta phải tuân
theo, vì nếu ta làm trái lại, tức là làm trái cả một tập thể lớn.
Tục ngữ
Đất lề q thói

Vần

Vần bình: “lề”, “q”
Vần trắc: “Đất”, “thói”

Phép đối
“lề” trong “lề lối” và
“thói” trong “thói quen” là
hai từ đối lập nhau, bởi lề
lối mang trong mình những
qui tắc của cộng đồng, của
tập thể, cịn thói quen
khơng mang ý bắt buộc.

Page | 13


lOMoARcPSD|11029029

“Giàu trọng, khó khinh.”
Câu tục ngữ ví von thói quen, hành động của những người phân biệt đối xử giữa
người giàu và người nghèo trong xã hội, những hành vi sống phản bội, hai mặt trong cách
đối nhân xử thế, xem trọng những người giàu có, nhiều tiền tài và của cải, đến khi họ gặp
“khó” thì trở nên khinh bỉ, xa lánh. Đó là một hành động đáng bị chê trách và cần được
bãi bỏ vì với con người, tình thương, tình yêu đối với người với người là tiền đề để một
xã hội phát triển hơn hết. Ngoài ra, trong câu tục ngữ còn mang ý chê trách những người
xem trọng giàu – nghèo trong các mối quan hệ, “khó” khơng chỉ mang trong mình ý
nghĩa của hoạn nạn, khó khăn, mà cịn mang trong mình ý nghĩa cuộc sống khó khăn,
nghèo nàn của con người, đó có lẽ là một thói quen xấu của một số người và thói quen đó
đã tồn tại từ rất lâu kể từ khi chế độ tư hữu ra đời.
Tục ngữ
Giàu trọng, khó khinh


Vần

Phép đối

Vần
bình:
“Giàu”, “Giàu” – “khó”: những vị
“khinh”
thế, điều kiện trong xã hội.
Vần trắc: “trọng”, “khó”
“trọng” – “khinh”: Thái
độ của con người đối với
nhau.

“Chị ngã, em nâng.”
Tình cảm anh em ruột thịt trong gia đình là một tình cảm vơ cùng thiêng liêng và
đáng quý của mỗi con người chúng ta cần phải biết trân trọng những tình cảm đó, đúng
như truyền thống của dân tộc Việt Nam đã có rất nhiều những câu ca dao tục ngữ nói về
vấn đề này như “Anh em như thể chân tay”, “Lá lành đùm lá rách”, hay như câu “Chị
ngã em nâng”. Ý nghĩa sâu xa mà câu tục ngữ thể hiện đó là nói về tình cảm của hai chị
em trong gia đình ln ln phải tương trợ giúp đỡ nhau trong mọi hồn cảnh, khi khó
khăn và khi gian nan nhất, mỗi người chúng ta đều hiểu được những ý nghĩa to lớn mà nó
dành cho mỗi người. Câu tục ngữ trên đã xuất hiện từ xưa đến nay nó đã được nhân dân
ta đúc kết từ những kinh nghiệm sống quý báu, giá trị đó để lại những niềm tin yêu sâu
sắc và giá trị to lớn mạnh mẽ cho mỗi con người, hiểu được điều đó con người sẽ cảm
thấy cuộc đời này có nhiều ý nghĩa và giá trị hơn.

Page | 14



lOMoARcPSD|11029029

Tục ngữ
Chị ngã, em nâng

Vần
Vần bình: “Chị”, “ngã”
Vần trắc: “em”, “nâng”

Phép đối
“Chị” – “em”: mối quan
hệ máu mủ, ruột thịt trong
gia đình.
“ngã” – “nâng”: khó khăn
và sự giúp đỡ từ những
người thân trong gia đình.

“Bún, giá, cá, ruốc.”
Theo quan niệm của cha ông, nhất cận thủy, nhị cận sơn, cư dân Hà Tĩnh phần lớn
sống ven sông, ven biển, vùng bán sơn địa, chủ yếu bằng nghề canh nông, một số nghề
thủ công gắn với nông nghiệp như nuôi tằm, dệt lụa, rèn, mộc, chế biến nước mắm, ruốc
tôm từ nguyên liệu biển và làm bánh trái. Chính yếu tố này chi phối đến thói quen sinh
hoạt, ăn, ở, mặc, đi lại của người dân. Thói quen chế biến các sản phẩm đó của người Hà
Tĩnh thể hiện sự trân trọng của chủ đối với khách, đối với làng, với nước, đồng thời cũng
là sự sáng tạo, chứa đựng nhiều ý nghĩa, tầng sâu văn hóa. Thưởng thức những món ăn
của người Hà Tĩnh không chỉ ở cái vị ngọt của nó mà cịn có cả vị “ngọt” của tình người
Bồng bồng nấu với tép khô/ Chết xuống nhà mồ cũng muốn dậy ăn. Thực đơn để đãi
khách theo thành ngữ “Bún, giá, cá, ruốc” mộc mạc, chân thành như chính con người
vậy.

Tục ngữ
Bún, giá, cá, ruốc

Vần
Phép đối
Vần trắc: “Bún”, “giá”, Các từ
“Bún”, “giá”,
“cá”, “ruốc”
“cá”, “ruốc” đồng nghĩa
với nhau, làm tăng hiệu quả
bổ sung và hồn chỉnh về
nghĩa khi nói về phong tục
của người Hà Tĩnh.

“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.”
Về mặt giáo dục, cha mẹ là một tấm gương để con của họ xác định những giá trị
đúng đắn về đạo đức cho bản thân. Làm gương là một trong những trách nhiệm quan
trọng nhất của những người làm cha làm mẹ. Đây là một việc rất khó khăn vì đạo đức

Page | 15


lOMoARcPSD|11029029

khơng phải là thứ mà các bậc phụ huynh có thể dạy cho con mình từ sách giáo khoa.
Những kinh nghiệm và những lời khuyên của cha mẹ trước hành vi, ứng xử… của con
mới sẽ tạo ra giá trị đạo đức, cốt cách ở con ngay từ khi còn bé.
Tục ngữ
Đời cha ăn mặn, đời con
khát nước


Vần
Vần bình: “Đời”, “cha”,
“ăn”, “con”
Vần trắc: “mặn”, “khát”,
“nước”

Phép đối
“cha” – “con”: mối quan
hệ thiêng liêng ruột thịt
trong gia đình.
“ăn mặn” – “khát nước”

Vần điệu chính là những con ốc bắt các bộ phận của chiếc xe vào với nhau. Bài
thơ không vần thường rời rạc, khó bấu víu được vào trí nhớ người đọc. Ấy là xét về mặt
cấu trúc thì vần điệu có một vai trị như vậy. Nói cách khác thì vần điệu chính là đặc điểm
để phân biệt thơ với các loại hình nghệ thuật khác (trước nhất là như thế, cịn có vần điệu
mà vẫn khơng hay lại là chuyện khác). Về mặt nào đó cũng có thể xem vần điệu như là y
phục của cơ thể. Điệu múa Âu châu váy cộc, điệu múa dân tộc váy dài. Y phục thay đổi
theo từng thời kỳ, vừa là phù hợp với thị hiếu và thể tạng con người, vừa là để thích nghi
với từng cơng việc. Chẳng hạn, người gầy thì nên mặc thế nào, người béo phải mặc ra
sao. Bộ nào cần mặc lúc làm lụng chân tay và bộ nào vừa hay vận khi đi ngủ. Chính vì
vậy mà tiến sĩ Ngộ Tự Lập đã đưa ra kết luận:
“Thơ có thể viết dưới dạng văn vần hoặc văn xi, điều đó ngày nay chẳng cần
bàn cãi, khơng ai có thể phủ nhận được rằng từ hàng ngàn năm nay, tuyệt đại đa số thơ
được viết bằng văn vần, đến mức gần như ở mọi nơi trên Trái Đất, nhiều người vẫn có xu
hướng đồng nhất thơ với văn vần.”

Page | 16



lOMoARcPSD|11029029

V. CÁC PHƯƠNG THỨC PHƠ DIỄN TÂM TÌNH:
Ai trong chúng ta lớn lên và trưởng thành trên mảnh đất quê hương cũng đều cảm
nhận được cái hay cái đẹp của Văn học dân gian ngay từ lúc còn nằm trong nơi qua lời ru
của mẹ. Trải qua bốn nghìn năm lịch sử, chúng ta nhận thức được cái đẹp, cái tồn mĩ
bằng tất cả trái tim nhân hậu của mình. Rất mộc mạc và chân tình tha thiết đến xốn xang:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ cà tát nước bèn đường hôm sau.”
Câu ca dao như tiếng gọi của chính quê hương, níu bước chân người ra đi, mời
đón kẻ trở về, đất mẹ mở rộng vịng tay đón những đứa con. Từ xa xơi một lần được trở

Page | 17


lOMoARcPSD|11029029

lại quê hương, hay được viếng thăm một miền đất “ngỡ lạ mà quen” ta chợt thấy tâm hồn
mình như trải dài với bao tình cảm dạt dào tha thiết nhất. Chính vì vậy mà sức tồn tại của
Văn học ln được ví như một tịa nhà vững chắc cùng với thơ ca, ca dao cũng góp phần
khơng nhỏ trong việc khẳng định sự giàu đẹp của quê hương. Nó không chỉ khái quát một
vẻ đẹp đơn thuần mà từ đó đi sâu vào cuộc sống, đến với tâm hồn của mỗi con người.
Chẳng khó hiểu nếu như nói ca dao chính là cái nền vững chắc cho Văn học từ đó đi lên,
cuộc sống đời thường và cuộc sống tình cảm của con người ln hịa quyện sóng đơi.
Đến với cuộc sống là câu ca dao đã đi đến với con người.
Ca dao trữ tình là loại ca dao do cảm xúc tạo nên lời, chủ yếu là bộc lộ tình cảm,
tâm trạng, ký thác tâm sự. Và để đạt được hiệu quả mong muốn, ca dao trữ tình tất nhiên

phải sử dụng đến nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau, khi nói đến cách tổ chức nội
dung của tác phẩm ta gọi chung là sự cấu tứ. Sau khi đã sắp xếp các ý tứ, chọn lọc tình
tiết, hình ảnh,…Tác giả phải biết chọn lấy những phương thức diễn đạt sao cho thích hợp,
trong đó phương thức diễn đạt được sử dụng nhiều nhất là thể phú, thể tỉ và thể hứng.
Thể phú là phô bầy, mô tả một cách trực tiếp về con người, về cảnh vật và thiên
nhiên,…Phú cũng là một dạng tự sự, kể chuyện về những sự việc, những biến cố xảy ra
trong cuộc đời. Vì ca dao trữ tình chủ yếu là bộc lộ tình cảm, tâm sự cá nhân nên cảnh
được mơ tả, hay câu chuyện được kể lại dù là thật hay hư cấu thì cũng chỉ là cái cớ để
tình cảm con người được phát triển, hoặc nương vào đó mà biểu lộ ra được. Ca dao “Tát
nước đầu đình” là một ví dụ điển hình về thể phú:
“Hơm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.

Page | 18


lOMoARcPSD|11029029

Khâu rồi anh sẽ trả cơng
Ít nữa lấy chồng anh lại giúp cho.
Giúp em một thúng xơi vị,
Một con lợn béo, một vị rượu tăm.
Giúp em đơi chiếu em nằm,
Đơi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.

Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiến cưới lại đèo buồng cau.”
Để có dịp thổ lộ tình u với cơ gái, chàng trai mượn cớ quên áo, hỏi xin nhằm
nhân cơ hội đó gợi chuyện làm thân, rồi lân la ngỏ ý cầu hơn.
Thể tỉ là so sánh. Ca dao trữ tình chun nói về đề tài tình cảm, thuộc về vấn đề
trừu tượng nên rất khó diễn tả, vì vậy mà nhiều câu ca dao trữ tình rất ưa sử dụng thể tỉ,
một phương pháp nghệ thuật đặc sắc, giúp cho ý tứ diễn đạt thêm rõ ràng linh động, mà
tình cảm bộc lộ cũng có phần bóng bẩy, tế nhị. Thể tỉ có hai cách so sánh, là so sánh trực
tiếp và so sánh gián tiếp. So sánh trực tiếp là lối so sánh thẳng giữa một ý niệm trừu
tượng với một hình ảnh cụ thể như:
“Tình anh như nước dân cao,
Tình em như dải lụa đào tẩm hương.”
Câu ca dao này muốn nói tình u của đơi nam nữ ở đây đều tha thiết như nhau,
nhưng tính cách yêu đương và cách thể hiện tình yêu của mỗi người là khác nhau.
So sánh gián tiếp, hay còn gọi là phương pháp ẩn dụ, nghĩa là so sánh ngầm. So
sánh gián tiếp thường kín đáo hơn, tinh tế và có phần nghệ thuật hơn so sánh trực tiếp.
Khi nhắc đến nghệ thuật ẩn dụ trong so sánh gián tiếp, có hai lối ẩn dụ dùng trong thơ ca,
ca dao dân ca: Nghệ thuật hình tượng hóa, là lối cụ thể hóa tư tưởng, tình cảm bằng hình
tượng làm cho ý tứ được diễn đạt thêm phần hàm súc (Như “Thuyền anh ngược thác lên
đây/Mượn em dải yếm làm dây kéo thuyền”); Nghệ thuật nhân cách hóa, bằng cách gán

Page | 19


lOMoARcPSD|11029029

cho cảnh vật những hành động, tâm trạng,…của con người làm cho sự diễn đạt càng thêm
sống động, truyền cảm (Như “Khăn thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất…”). Khi đó,
những hình ảnh ẩn dụ hàm chứa tâm tư của nhân vật trữ tình được gọi là những hình ảnh
ước lệ. Trong ca dao trữ tình có rất nhiều hình ảnh được dùng làm ẩn dụ, mang giá trị

tượng trưng độc đáo như trong những câu ca dao được trình bày ở trên, bên cạnh đó cịn
khơng ít những hình ảnh biểu tượng khác được dùng quá quen thuộc đã trở thành ước lệ,
như “con cò” để tượng trưng cho con người hiện phụ ở thơn q:
“Con cị lặn lội bờ sơng,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.”
“Con cị mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.”
Thể hứng là một loại ca dao được mở đầu bằng một hay một vài câu tả ngoại cảnh
để gợi hứng, sau đó tác giả mới xúc cảm sinh tình, qua đó muốn bộ lộ nỗi lịng của mình,
như câu ca dao:
“Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,
Chi sao tinh đẩu đã ba năm trịn.
Đá mịn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy, hãy còn trơ trơ.”

Page | 20


lOMoARcPSD|11029029

Đêm buồn là một bài ca dao làm theo thể hứng, vừa tả cảnh để gợi hứng, vừa
mượn cảnh để tả tình, nói về nỗi buồn tha thiết của một thiếu phụ có chồng đi vắng xa, đã
lâu chưa về. Nhiều đêm q nhớ chồng, thương mình, ly phụ khơng ngủ được bèn trở dậy
ra vườn, đứng bên bờ ao, âm thầm ngắm nhìn vạn vật mong vơi đi nỗi nhớ nhung trong

lịng.
Từ những khái niệm và ví dụ các phương thức tâm tình của ca dao xưa, ta có thể
xác định phương thức phô diễn của các câu ca dao sau:
1.
“Em như cây quế giữa rừng,
Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay.”
Người phụ nữ, hay nhân vật trữ tình “em” tự ví mình "như quế giữ rừng". Cây
quế là một loại có vỏ cay và thơm được dùng để làm gia vị, thuốc, hương liệu... Cây quế
thơm là thế, tốt là thế nhưng lại đặt giữa rừng để rồi "Thơm cay ai biết ngát lừng ai hay" ,
có đẹp đẽ có tốt lành cũng chẳng để làm gì hết. Từ biện pháp so sánh tự ví mình như cây
quế qua đó ẩn dụ về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa - xã hội phong kiến trọng
nam khinh nữ, thân phận người phụ nữa như rẻ rúng, bị coi thường. Người phụ nữa dẫu
có đẹp về thể xác hay đẹp về tâm hồn bao nhiêu thì cũng chẳng ai quan tâm. Không ai coi
trọng vẻ đẹp của họ, cuộc đời họ là cuộc đời tùy tay người khác sắp đặt, may mắn thì họ
sẽ được gả cho người chồng không vũ phu chứ chẳng dám mơ ước được yêu chiều, sống
sung sướng gấm lụa, và ngược lại phải gả cho kẻ khơng ra gì thì "em" chẳng khác với
người hầu , kẻ hạ. Và cũng từ biện pháp so sánh một cách trực tiếp ấy đã cho thấy câu ca
dao được diễn đạt theo thể tỉ.
2.
“Thương em anh cũng muốn thương,
Nước thì muốn chảy nhưng mương chẳng đào.
Em về lo liệu thế nào,
Để cho nước chảy đi vào trong mương.”

Page | 21


lOMoARcPSD|11029029

Bằng cách nghệ thuật nhân cách hóa hai nhân vật trữ tình “em” và “anh” thành

“Nước” và “mương” để bảy tỏ ý nguyện được cùng chung sống với người mình yêu, câu
ca dao này cũng thuộc thể tỉ. Dủng nghệ thuật ẩn dụ để ý tứ, tâm tư, nguyện vọng được
biểu đạt một cách kín đáo, tinh tế và thêm phần sống động, truyền cảm hơn.
3.
“Anh đến tìm hoa thì hoa đã mở,
Anh đến tìm đị thì đị đã sang sơng.
Anh đến tìm em thì em đã có chồng,
Em u anh như rứa có mặn nồng chi mơ?”
Câu ca dao như một lời oán trách nhẹ nhàng “Em yêu anh như rứa có mặn nồng
chi mơ?” của người con trai với cô gái mà anh yêu, như một lời kể về cuộc đời anh đã
“tìm hoa”, “tìm đị”, “tìm em” nhưng khơng may mắn thay vì những điều anh kiếm tìm
trong hành trình của đời mình đều khơng thuộc về anh: Tìm hoa thì hoa đã mở, tìm đị thì
đị sang sơng, tìm người anh u thì ngay lúc cơ lấy chồng. Tuyệt vọng anh hỏi cơ liệu
tình cảm cơ dành cho anh có mặn nồng hay khơng. Và rồi cơ gái trả lời rằng:
“Hoa đến kì thì hoa phải nở
Đị đã đầy thì đị phải sang sơng
Đến dun thì em phải lấy chồng
Em u anh rứa đó, cịn mặn nồng thì tùy anh.”
Người phụ nữ trong xã hội xưa ln bị đặt trong tình huống bị động, “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đó”, vì thế mà khi được se duyên, mặc dù cô gái rất yêu anh nhưng vẫn
nghe theo quyết định của gia đình, để rồi cơ bng lời “Em u anh rứa đó, cịn mặn
nồng thì tùy anh” vừa khẳng định rằng mình có u anh, dù có thế nào cũng khơng thể
đáp lại tình cảm mặn nồng ấy. Vì là mang tính chất tự sự, nên bài ca dao thuộc thể phú,
phô bày trực tiếp sự việc của cuộc đời và tâm tư của mình.
4.
“Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.”

Page | 22



×