Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.5 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU
2
NỘI DUNG I. VAI TRÒCỦA GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT
NAM ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên
cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2. Ảnh hưởng của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết
cộng đồng, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam
đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3. Ảnh hưởng của truyền thống lạc quan, yêu đời của
dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh
1.4. Ảnh hưởng của truyền thống cần cù, dũng cảm,
thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam
đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
II. HỒ CHÍ MINH KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG TÌNH
HÌNH MỚI
2.1. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam và thế giới
2.2. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

3

3

5

8

10

12

12
15
23
24


MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Cùng
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là một bộ phận hợp thành nền tảng
tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Nghiên cứu và nhận
thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh là tiền đề vững
chắc để nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của Người. Theo đó,
cần đi sâu nghiên cứu, làm rõ những mối quan hệ có tính quy luật, nguyên tắc về sự ra
đời, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, nghiên cứu mối quan hệ biện chứng
giữa giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam với tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở quan
trọng để thấy sự tác động của giá trị truyền thống dân tộc ta đối với sự hình thành, phát

triển tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trị, cơng lao to lớn của Hồ Chí Minh trong kế thừa,
phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam lên một tầm cao mới.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới, khu vực, trong nước đã và đang đặt ra một tất yếu khách quan, mang tính
cấp thiết, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với
giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam và vận dụng trong công tác tuyên truyền, giáo
dục chính trị tư tưởng, đạo đức hiện nay, để khắc phục những hạn chế và góp phần
nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát hiện và phản bác lại những tư tưởng,
luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch bảo vệ vững chắc nền tảng tư
tưởng của Đảng ta.

2


NỘI DUNG
I. VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất
trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đối với sự hình
thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, ra đời từ rất sớm
cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang từ thời thượng cổ và trở thành dòng chủ
lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của
bản thân lịch sử Việt Nam, do chính con người Việt Nam qua các thế hệ tạo dựng và
trở thành sức mạnh nội sinh giúp dân tộc ta vượt qua muôn ngàn thử thách trong
chống giặc ngoại xâm và thiên tai, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc trong mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước.
Do là một nước nhỏ, lại nằm ở vị trí địa lý có giá trị chiến lược về kinh tế, quân
sự, ngoại giao và giàu có về tài ngun, khốn sản, “rừng vàng, biển bạc”, nên từ thời
cổ đại cho đến hiện đại nước ta luôn bị các thế lực ngoại bang gây chiến tranh xâm

lược và chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta. Trải qua rất nhiều cuộc “đụng đầu
lịch sử” với các thế lực lớn, mạnh hơn ta gấp nhiều lần trong gần 12 thế kỷ đã hung
đút và bồi đắp nên chủ nghĩa yêu nước cho dân tộc Việt Nam. Đồng thời, đất nước ta tuy
phì nhiêu, trù phú nhưng cũng lắm thiên tai, hạn hán, bão lụt. Từ rất sớm, nhân dân ta đã
biết đắp đê để chống lũ lụt, đào kênh mương, làm thủy lợi để chống hạn hán...Tất cả
những thành tựu đó trong quá trình xây dựng q hương đều thắm đượm mồ hơi, nước
mắt và xương máu của bao thế hệ, vì thế mà người Việt Nam rất nặng tình, nặng nghĩa
với quê hương, xứ sở của mình. Cho thấy, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất
khuất của dân tộc Việt Nam khơng những được hình thành trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm mà còn là sản phẩm của hàng nghìn năm chống chọi với thiên tai để xây dựng
và phát triển đất nước.
Hình thành từ rất sớm và được bồi đắp liên tục trong thử thách của mấy nghìn
năm lịch sử, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam
có sức sống mãnh liệt, trường tồn với thời gian. Bởi nó đã ăn sâu, bám rễ trong tiềm
thức của con người Việt Nam. Yêu nước là tình cảm lớn nhất, bao trùm nhất, trở thành lẽ
sống, thành tư duy chính trị và hành động ứng xử tự nhiên của mỗi người Việt Nam. Với
người Việt Nam, khơng có gì quan trọng hơn là Tổ quốc được độc lập, thống nhất, không
một ai và lý thuyết nào có thể kéo người Việt Nam ra khỏi trách nhiệm đối với đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không tách rời “nước” với “dân”, “nước” là nước của
“dân” nên yêu nước luôn gắn liền với thương dân.
Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam được biểu hiện rõ nét nhất qua lịch sử hào hùng của
dân tộc. Bên cạnh đó, chủ nghĩa yêu nước còn được biểu hiện qua bản sắc văn hóa của
dân tộc ln được bảo tồn, phát triển từ văn hóa dân gian cho đến văn hóa bác học, từ
những nhân vật truyền thuyết như Thánh Gióng đến các tên tuổi sáng ngời trong lịch
3


sử như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang
Trung,…đều phản ánh hùng hồn chân lý đó. Chủ nghĩa u nước cịn được biểu hiện ở

mỗi con người Việt Nam yêu nước, luôn mang trong lòng niềm tự hào dân tộc, sự kế
thừa và phát huy nó trong điều kiện đất nước có chiến tranh và trong cả thời bình.
Theo dịng chảy lịch sử, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được lưu truyền và phát
triển qua các thế hệ, là “dịng sữa” ni dưỡng tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của con
người Việt Nam, là động lực tinh thần chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc để
xây dựng và bảo vệ đất nước trong mọi thời đại. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên
cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam vì thế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tình yêu quê hương, đất nước đã nảy nở trong tâm hồn Hồ Chí Minh từ thuở
nhỏ qua ảnh hưởng của gia đình, quê hương và đất nước. Sinh ra trong một gia đình
nhà nho yêu nước, Nguyễn Sinh Cung sớm thấu hiểu sự cao đẹp của tình yêu quê
hương, đất nước qua lời dạy của người cha, lời ru của mẹ và từ tấm gương sáng ngời
về lòng yêu nước, thương dân của thân phụ, thân mẫu. Đặc biệt, Người sinh ra, sống
tuổi thơ tại quê hương Nam Đàn, xứ Nghệ, một vùng quê có “một bề dày lịch sử” yêu
nước, chống giặc ngoại xâm và là cái nôi sản sinh ra các anh hùng, hào kiệt cho đất
nước. Cũng tại nơi đây, Bác trực tiếp nếm trải tình cảnh người dân của một nước nơ lệ;
đau xót trước cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình
ngay trên mảnh đất quê hương và tận mắt chứng kiến thái độ ươn hèn, bạc nhược của
bọn quan lại triều đình, những thất bại của các phong trào cách mạng.
Với lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến, Nguyễn Tất Thành đã trăn trở về sự
bế tắc đường lối cứu nước của dân tộc ta và quyết chí ra đi tìm một con đường cứu nước
mới cho dân tộc. Lúc ấy, Người khẳng định rõ mục đích của chuyến đi: “Tơi muốn ra
nước ngồi, xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi
sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”[49, tr.3]. Cho thấy, tình cảm yêu nước trong Hồ Chí
Minh đã được hiện thực hóa bằng ý chí và hành động tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa
yêu nước không những là động lực chủ yếu thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước mà còn giúp Người xác định hướng đi và cách đi đúng, đó là đi về phương
Tây và đi bằng con đường lao động. Người hiểu rõ, chỉ có đi sang phương Tây, mà
trước hết là sang Pháp mới hiểu rõ kẻ thù của dân tộc mình và chỉ có đi bằng con đường
lao động thì mới đi được xa và được lâu. Thực tế, nếu khơng có tấm lịng u nước

nồng nàn và một ý chí kiên cường, bất khuất thì làm sao Nguyễn Tất Thành dám dấn
thân “vào hang cọp mới bắt được cọp” như thế được.
Chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Tất Thành đến được với chủ nghĩa Mác Lênin, tìm thấy lời giải đáp đầy thuyết phục về con đường cứu nước và giải phóng dân
tộc. Chính tình u nước vơ bờ bến đó đã khơng kìm nén được cảm xúc của Người khi
bắt gặp Luận cương của Lênin. Sau này, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm tôi
rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng kín mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng
đảo: Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
4


đường giải phóng chúng ta”[39, tr. 127]. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lúc đầu, chính chủ
nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa công sản đã đưa tôi theo Lênin, vừa làm công
tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”[39, tr.128]. Qua đó cho thấy, chủ nghĩa yêu nước kết tinh trong Hồ Chí Minh là
cầu nối giữa Người với chủ nghĩa Mác - Lênin - Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định
đến bản chất cách mạng và khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các giá trị truyền thống dân tộc còn là động lực chủ yếu chi phối mọi suy nghĩ,
hành động của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Bác
lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, chính là tự đặt cho mình nhằm nhắc nhở Người và đồng
bào ln ln u nước, suốt đời phấn đấu vì nước, vì dân. Thật vậy, suốt cuộc đời
Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặt, ai cũng
được học hành. Đến khi sắp về cỏi vĩnh hằng, trong bản Di chúc lịch sử, Người viết:
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Nay dù phải từ biệt thế giới này, tơi khơng có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”[26, 512].
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là một truyền thống quý báu, là động lực tinh thần

to lớn góp phần vào sự trường tồn của dân tộc và sự phồn vinh của đất nước. Đồng thời,
các giá trị ấy, đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với cách nhìn biện chứng cho thấy, nếu như khơng có chủ nghĩa u nước là động lực
để Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì sẽ khơng đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin
và từ đó khơng thể có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước như con thuyền lớn
đã đưa Bác đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc.
1.2. Ảnh hưởng của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết cộng đồng, tương
thân, tương ái của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh
Nhân nghĩa, đồn kết, tương thân, tương ái là một truyền thống quý báu được
hình thành, phát triển cùng với sự ra đời, phát triển của dân tộc Việt Nam; được tạo
dựng, bồi đắp và phát triển bền vững từ đời này qua đời khác. Giá trị truyền thống ấy
cho phép dân tộc Việt Nam quy tụ sức mạnh tổng hợp to lớn để chiến thắng thiên tai
và giặc ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên chứa đựng nhiều tiềm năng,
nhưng cũng đặt ra khơng ít thách thức lớn đối với con người. Bên cạnh đó, dân tộc ta
cũng luôn đứng trước nguy cơ mất độc lập do các thế lực ngoại bang lớn mạnh hơn ta
gấp nhiều lần xâm chiếm. Từ thời cổ đại cho đến thời hiện đại, với độ dài thời gian
gần 12 thế kỷ trong hơn 22 thế kỷ và số lượng các cuộc kháng chiến quá lớn so với các
nước trên thế giới, buộc dân tộc ta phải biết huy động sức mạnh của tồn dân thì mới
có thể chiến thắng được kẻ thù, bảo vệ non sông. Đúc kết từ thực tiễn đấu tranh chống
5


thiên tai và địch họa, dân tộc Việt Nam đã động viên nhau: “đồn kết thì sống, chia rẽ
là chết”. Hơn nữa, văn hóa nhà - làng - nước tồn tại lâu đời trong lịch sử dân tộc ta là
cơ sở để sinh sôi, nảy nở truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái.
Làng, xã là đơn vị quần cư chủ yếu và là đơn vị kinh tế - xã hội cơ sở của người Việt.
Nơi đây, những tình cảm cao quý giữa người với người, giữa người với quê hương có

điều kiện phát triển trở thành những giá trị cao q đó là “tình làng, nghĩa xóm”, “một
con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “lá lành đùm lá rách” hay “tắt lửa tối đèn có nhau” …
“Làng” thực sự trở thành “chất keo” bền chặt gắn bó, tạo dựng nên truyền thống nhân
nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống nhân nghĩa thấm đượm trong mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, phát triển trong quan hệ làng xóm và mở rộng ra cả cộng đồng dân tộc
Việt Nam. Người Việt Nam lấy tình nghĩa làm cơ sở để đối nhân, xử thế ở đời: khen
ngợi những tấm gương vì nghĩa cả và lên án mạnh mẽ những kẻ ác nhân, ác đức.
Trước những tình cảnh khó khăn, họ cảm thấy thương mình và thương người cùng
cảnh ngộ, sẳn sàng “nhường cơm sẻ áo”. Đồng thời, họ luôn kiên quyết đấu tranh
chống lại mọi sự chà đạp lên phẩm giá cao đẹp của con người.
Tuy nhà, làng là cơ sở ban đầu nảy sinh tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết nhưng
với người Việt Nam, “nước” là trên hết. Họ luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên
lợi ích của cá nhân, nhà, làng. Với quan niệm “nước mất thì nhà tan”, nên đất nước ta
tuy có nhiều làng, xã khác nhau; nhiều dân tộc với những phong tục, tập quán khác
nhau; nhiều giai tầng có địa vị xã hội khác nhau, nhưng họ luôn chung một điểm
tương đồng để cố kết lại với nhau đó chính là vì “nước”. Họ thường khuyên nhũ nhau:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng” hay
“Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Thật vậy,
“nước” trở thành tiếng nói chung và là cơ sở để “vua tơi đồng lịng”, “cha con nhất
trí”, một khi cần có thể động viên cả nước chống giặc. Có lúc “làng” là thành lũy vững
chắc để ngăn cản bước tiến, vùi thây sát quân thù, nhưng có lúc người dân sẳn sàng bỏ
nhà, bỏ làng để thực hiện “vườn không, nhà trống” trong chiến lược đánh giặc, giữ
nước. Với ý nghĩa đó, q trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta luôn là thành
quả của cả dân tộc, là sự thống nhất ý chí và hành động của cả lãnh tụ và dân chúng,
trong đó “dân vi bản” - dân là gốc.
Dân tộc Việt Nam không bao giờ cho phép và dung thứ âm mưu chia cắt đất
nước hay tư tưởng cát cứ địa phương, chia rẽ đoàn kết toàn dân tộc…Thực tiễn lịch sử
đã chứng minh, triều đại nào không biết phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc sẽ phải
chịu cái giá rất đắt. Sau thất bại của nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh,

Nguyễn Trãi đã chỉ rõ: “Nhân họ Hồ gây sự phiền hà, để trong nước lịng dân ốn
hận”. Sau này, trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi với tư tưởng “tập hợp bốn
phương manh lệ” đã giúp Lê Lợi khắc phục sai lầm của nhà Hồ, phát huy sức mạnh
toàn dân chúng trong kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi vẽ vang.
Truyền thống nhân nghĩa, đồn kết, tương thân, tương ái khơng những được thể
hiện trong trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, mà cịn được phản ánh vơ cùng
6


phong phú qua nền văn học dân gian, văn học hiện thực từ xưa đến nay. Văn học dân gian
có huyền thoại “Âu Cơ và Lạc Long Quân”, truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh”…. Văn
học hiện thực có “Bình ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc
Tuấn. Cho đến nay, tư tưởng : “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ
bạo”, “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, đem trí nhân để thay cường bạo” của Nguyễn
Trãi, hay: “…anh em hòa thuận, cả nước chung sức” của Trần Quốc Tuấn…vẫn còn
nguyên giá trị.
Truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam
luôn được thế hệ người Việt Nam từ đời này sang đời khác nối tiếp nhau, kế thừa và
phát triển, góp phần ni dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người Việt Nam.
Hồ Chí Minh đánh giá cao truyền thống đồn kết của dân tộc, đồng thời khẳng định đó
là một chân lý bất diệt: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sơng có thể
cạn, núi có thể mịn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Chân lý ấy, đã tác
động mạnh mẽ đến con người, tư tưởng và cả cuộc đời Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần truyền thống đồn kết của dân tộc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy
âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc của thực dân Pháp nhằm dễ bề cai trị đất nước ta.
Ngay khi thiết lập nền thống trị ở Việt Nam, thực dân Pháp đã thi hành chính sách “chia
để trị”. Thủ đoạn thâm độc đó nhằm làm suy yếu sức mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân ta. Người khơng những nhận thấy mà cịn chỉ cho nhân dân ta thấy rõ thủ
đoạn thâm độc đó: “Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngơn “chia để
trị” của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một

dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung
một tiếng nói, đã bị chia năm xẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia rẽ ấy, người ta
hy vọng làm nguội được tình đồn kết, nghĩa đồng bào trong lịng người An Nam và tạo
ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt”[29, tr. 116]
Hồ Chí Minh thấy rõ một trong nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của các
phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là do chưa có phương pháp đúng
đắn để phát huy sức mạnh khối đại đồn kết. Từ đó, Người quyết định không theo con
đường cứu nước của các bật tiền bối, mà chọn hướng đi riêng cho mình, với mong
muốn sau khi trở về nước sẽ quy tụ được sức mạnh toàn dân đánh giặc. Thực tế, khi
đang hoạt động ở nước ngồi, Người nói sau này sẽ “trở về nước, đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do,
độc lập”[26, tr.192].
Có thể thấy, truyền thống đồn kết của dân tộc kết tinh trong Hồ Chí Minh là cơ
sở ban đầu và quan trọng để Người tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng
lý luận đó vào giải quyết đúng đắn, sáng tạo những vấn đề mà thực tiễn cách mạng
Việt Nam đặt ra lúc bấy giờ. Thơng qua những bài nói, bài viết và thực tiễn chỉ đạo
cách mạng của Hồ Chí Minh, cho thấy truyền thống đoàn kết trong tư tưởng của
Người có bước phát triển cao hơn về chất, và mang đậm nét truyền thống dân tộc sâu
sắc, như: tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” trước đây được Hồ Chí Minh kế thừa, phát
triển: “Gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[33, tr. 410].
7


Cùng với truyền thống đoàn kết, truyền thống nhân nghĩa, tương thân, tương ái của
dân tộc Việt Nam cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự hình thành, phát triển tư tưởng và
nhân cách Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm “Hồ Chủ tịch lãnh tụ kính u của giai cấp vơ
sản và nhân dân Việt Nam”, đồng chí Trường Chinh có viết: “Một điều nổi bật trong đạo
đức Hồ Chí Minh là lịng thương người”[14, tr. 263]. Tình thương của Người trước hết
dành cho tất cả mọi người, trong đó dành tình cảm nhiều hơn cho những người lao động
nghèo khổ, những người chịu thiệt thòi trong xã hội. Người còn dành tình cảm yêu

thương đối với tất cả những người lầm đường lạc lối. Tình yêu thương con người của Bác
ln xác định u - ghét rõ ràng. Hồ Chí Minh bày tỏ thái độ căm ghét quân xâm lược,
những kẻ áp bức bóc lột đã gây ra sự đau khổ cho nhân dân và phải bằng những hành
động thiết thực, hiệu quả để đấu tranh giải phóng con người, dù có phải hy sinh bản thân
mình. Tình u thương con người của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng nhân văn cao cả,
trên cơ sở tiếp nối và phát huy lên tầm cao mới của đức thương người, thương dân trong
truyền thống dân tộc Việt Nam đã có từ hàng nghìn năm về trước.
Truyền thống đó khơng những ảnh hưởng đến tư tưởng mà còn tác động mạnh
mẽ đến nhân cách Hồ Chí Minh, một nhân cách vĩ đại ln thống nhất giữa lời nói và
việc làm, lý trí và tình cảm. Đó là nhân cách của một người trọng tình nghĩa và giàu
lịng nhân ái. Hồ Chí Minh khun mọi người sống với nhau phải có tình, có nghĩa.
Theo Người: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau khơng có tình nghĩa thì sao
gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”[43, tr. 554]. Không những thế, Người còn
nêu một gương sáng về giàu lòng nhân ái, nhân đạo, sống có tình, có nghĩa. Trong
những năm bơn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho Khâm
sứ Trung kỳ và Toàn quyền Đơng Dương, nhờ cho biết tình hình và địa chỉ của cụ
Nguyễn Sinh Huy. Sau đó, có một bức thư cho biết Người gửi cho cha mình ba ngân
phiếu, nhưng chỉ mới nhận được một lần trả lời. Một việc nhỏ ấy thôi, cũng đã cho
thấy Người lo việc cứu nước, nhưng không quên đạo làm con. Năm 1950, nghe tin anh
cả Nguyễn Sinh Khiêm mất nhưng Bác không về được vì đang bận chỉ đạo chiến dịch
Biên giới, Người đã gửi một bức thư về cho dòng họ với những lời lẽ thống thiết:
“Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước vong hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một
người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”[34, tr. 114]. Qua đó cho thấy,
truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc khơng những ảnh
hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh mà Người còn là
hiện thân của giá trị truyền thống ấy.
1.3. Ảnh hưởng của truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt Nam
đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Lạc quan, yêu đời là truyền thống vốn có từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam và
được phát triển bền vững cho đến ngày hôm nay. Nó được hình thành là do địi hỏi

khách quan từ thực tiễn cuộc sống mang lại; cho phép dân tộc Việt Nam ln có đủ
bản lĩnh, niềm tin hướng về tương lai tươi sáng của dân tộc cho dù phía trước cịn gặp
mn ngàn khó khăn, thách thức. Tinh thần lạc quan đó khơng phải là sự chủ quan, tự
dối mình và dối người mà là dựa trên những cơ sở của niềm tin vững chắc vào sức
8


mạnh của chính bản thân mình có thể nắm được vận mệnh của mình chứ khơng cúi
đầu cam chịu số kiếp bị quy định sẵn từ đâu đâu; là tin vào sự tất thắng của chân lý,
chính nghĩa, dù có thể trải qua những thất bại tức thời và còn nhiều những thách thức
lớn phía trước. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: “Trong tư tưởng lạc quan có một
lịng tin mãnh liệt. Nhưng lịng tin đó khơng phải là một sự tin tưởng có tính chất tơn
giáo, mà là một sự tin tưởng có tính chất khoa học, nghĩa là có căn cứ thực tế, dựa trên
những suy lý chắc chắn, bằng vào kinh nghiệm lịch sử”[14, tr. 226].
Truyền thống lạc quan, yêu đời không phải chỉ riêng dân tộc ta mới có. Nhưng
đối với dân tộc ta, truyền thống ấy được hình thành từ rất sớm và được thử thách bởi
một điều kiện chiến tranh chống giặc ngoại xâm có tiềm lực lớn hơn ta, thường
xuyên và lâu dài, hiếm có trong lịch sử nhân loại, cùng với điều kiện thiên nhiên hà
khắc luôn đe dọa đến sự sinh tồn, phát triển của dân tộc ta. Trong hơn một nghìn năm
Bắc thuộc, từ thời Hai Bà Trưng đến thời Ngơ Quyền có hàng trăm cuộc khởi nghĩa
của dân tộc, với tinh thần lạc quan, dân tộc ta quyết “thua keo này, bày keo khác”, cuối
cùng ta đã chiến thắng. Sau này, trong kháng chiến chống quân Nguyên - kẻ từng chinh
phạt từ Âu sang Á, nổi danh bách thắng, nhưng khi đưa quân đến xứ ta, nó bị liên tiếp
đánh bại ba lần, điều đó khơng thể là do may, rủi được. Mặt dù quân, dân ta có lúc phải
bỏ thành, bỏ làng để chiến đấu, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn lạc quan vì tin tưởng vào
sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của “chính nghĩa” nhất định thắng “hung tàn”. Cho thấy,
trong mọi hoàn cảnh, điều kiện, dân tộc Việt Nam ln giữ cho mình một lối sống lạc
quan yêu đời, yêu quê hương, đất nước…và luôn tin tưởng vào sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, của tinh thần đoàn kết dân tộc; tin vào sự tất thắng của chính nghĩa, của chân
lý, trí tuệ, bản lĩnh con người Việt Nam.

Truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt Nam có ảnh hưởng sâu sắc đến
sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Người không những tiếp thu truyền
thống lạc quan, yêu đời của dân tộc mà còn là hiện thân của truyền thống ấy. Đồng chí
Phạm Văn Đồng có viết: “Hồ Chủ tịch rất vui tính, vì vốn có cái tính lạc quan của
những người quyết chiến, quyết thắng ngày nay và xây đắp đời sống tốt đẹp cho dân
tộc ngày mai”[13, tr. 11]. Thực vậy, chúng ta thấy tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh
thể hiện sâu sắc ở niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của cách mạng Việt Nam. Trong
kháng chiến chống Pháp, Người khẳng định: Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng
lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, Người nhận định: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của
nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng
lợi hồn tồn. Đó là một điều chắc chắn”[44, tr. 506].
Niềm tin đó hồn tồn có cơ sở khoa học từ tình u q hương, đất nước, đồng
bào đến việc Bác nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững xu thế thời đại
và tin vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của tinh thần đoàn kết toàn dân…Trên
thực tế, ngay khi tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã thấy được “đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” và xác định cách mạng Việt
Nam phải đi theo phương hướng của cách mạng tháng Mười Nga. Tin vào sức mạnh to
lớn của nhân dân, Người khẳng định: “dân khí mạnh thì khơng quân lính nào, súng
9


ống nào chống lại”[30, tr. 274]. Lạc quan, yêu đời là động lực mạnh mẽ giúp Hồ Chí
Minh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để vươn tới mục đích cao cả của cuộc đời hoạt
động cách mạng. Càng trong khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, Hồ Chí Minh càng có
thái độ ung dung, thư thái, tự tin, bình thản. Đọc “Nhật ký trong tù” thấy rõ tinh thần
ấy: “Thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao, muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần
càng phải cao”. Tinh thần lạc quan, u đời của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng sâu sắc
đến người Việt Nam yêu nước, giúp họ vượt qua mọi khó khăn để thực hiện nhiệm vụ
cách mạng. “Tư tưởng lạc quan đã khuyến khích biết bao nhiêu là nghị lực của nhân
dân, đã làm bao nhiêu triệu người tránh khỏi cạm bẩy của Pháp, Nhật. Đã củng cố

lòng tin của quần chúng vào Đảng tiền phong biết nhìn xa, trơng rộng và hướng dẫn
đồng bào đi đúng đường trong những lúc khó khăn nhất, trong những đoạn đường dễ
vấp nhất”[14, tr. 238].
1.4. Ảnh hưởng của truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo
và hiếu học của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh
Từ khi mới ra đời, dân tộc Việt Nam đã cần cù, dũng cảm trong chống chọi với
thiên tai, địch họa, mới tạo ra nơi sinh tụ của dân tộc và giữ yên bờ cõi. Thực vậy,
nghiên cứu lịch sử văn hóa sơng Hồng, sơng Mã, cho thấy, dân Lạc Việt hình thành một
cộng đồng lớn từ rất lâu đời và đã cùng nhau tự mình lao động để sinh tụ, chứ khơng
phải thừa hưởng từ một cộng đồng nào khác. Chính vì cơng lao, mồ hôi tạo dựng rất
lớn, từ đời này đến đời khác nên họ rất gắn bó với quê hương. Cùng với khai phá mở
mang đồng ruộng, dân tộc Việt Nam phải thường xuyên chống chọi với bão, lụt, hạn
hán. Thần thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ là điển hình cho khai phá đất đai lên rừng,
xuống biển; truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh là minh chứng cho chống chọi với thiên
tai cịn lưu truyền cho đến hơm nay. Công lao của các thế hệ xây dựng cái nôi dân tộc
lớn bao nhiêu, thời gian các thế hệ sinh sống dài bao nhiêu thì lịng u nước càng đậm
đà bấy nhiêu. Đó là động lực lớn để họ bám trụ với quê hương, đất nước. Vì vậy, cần cù,
dũng cảm trong lao động bao nhiêu thì trong chiến đấu chống giặc giữ nước, tinh thần
ấy càng phát huy bấy nhiêu. Nếu khơng cần cù, dũng cảm sao ta có thể đủ sức chiến đấu
chống lại bọn xâm lược lớn mạnh và lâu dài đến thế.
Truyền thống cần cù, dũng cảm của dân tộc Việt Nam được biểu hiện sâu sắc ở
con người Việt Nam luôn yêu quý lao động, người lao động, thành quả lao động; tinh
thần dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, hy sinh, gian khổ chiến thắng mọi kẻ thù của
dân tộc. Câu chuyện Mai An Tiêm, truyền thuyết Thánh Gióng…đến các nhân vật lịch
sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung…là biểu hiện sinh động của
truyền thống cần cù, dũng cảm của dân tộc.
Bên cạnh đó, dân tộc Việt Nam cũng rất thông minh và sáng tạo trong sản xuất
và trong chiến đấu. Trải qua nhiều năm bị giặc phương Bắc đô hộ, nhưng dân tộc Việt
Nam không những không bị đồng hóa mà cịn giữ vững và phát triển một nền văn

minh Trống Đồng, nền văn hóa Lạc Việt nổi tiếng, điều đó chứng tỏ sự thơng minh tài
giỏi của dân tộc ta. Người Việt Nam cịn có năng lực sáng tạo trên mọi lĩnh vực, nhất
10


là trên lĩnh vực quân sự. Để chiến thắng đối phương có tiềm lực lớn hơn ta gấp nhiều
lần, có nhiều kinh nghiệm và thủ đoạn trong chiến đấu, đòi hỏi dân tộc ta phải không
ngừng sáng tạo ra nghệ thuật đánh giặc giữ nước. Đó là nghệ thuật lấy yếu đánh mạnh,
lấy ít địch nhiều, lấy đoản binh thay trường trận; nghệ thuật toàn dân đánh giặc; nghệ
thuật tiên phát chế nhân; nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời…Những sáng tạo ấy đã
góp phần làm nên chiến cơng hiển hách của dân tộc ta, tiêu biểu như: năm 938, Ngô
Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng; Năm 1077, Lý Thường Kiệt
dùng đạo quân 10 vạn người đánh tan 30 vạn quân của Quách Quỳ; hơn 200 năm sau,
Trần Quốc Tuấn với vài vạn quân tiêu diệt 50 vạn quân của Thoát Hoan; năm 1416, Lê
Lợi khởi nghĩa đánh thắng quân Minh; Nguyễn Huệ đánh tan 20 vạn quân Thanh năm
1789...
Cùng với cần cù, dũng cảm, thông minh và sáng tạo, hiếu học đã trở thành một
truyền thống tốt đẹp có từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam. Biểu hiện trước hết của
truyền thống hiếu học là tinh thần ham học hỏi, thích hiểu biết một cách tự nguyện.
Với ý thức: “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (Học không biết chán, dạy người
không biết mỏi), ông cha ta xưa dù nghèo mấy cũng cố cho con đi học kiếm dăm ba
chữ để làm người. Biểu hiện thứ hai của truyền thống hiếu học là thái độ luôn coi
trọng sự học, coi trọng người có học: “Kho vàng khơng bằng một nang chữ”, “Người
khơng học như ngọc khơng mài”. Từ đó hình thành đạo lý tơn sư trọng đạo “kính thầy
mới được làm thầy”. Nguyễn Trãi đã chỉ ra rằng: “Nên thợ nên thầy vì có học, có ăn
có mặc bởi hay làm” ý nói làm nghề gì cũng cần học, có học mới tinh thơng nghề
nghiệp.
Tìm hiểu lịch sử giáo dục Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận biết dân tộc ta có
truyền thống hiếu học từ lâu đời. Truyền thống ấy đã góp phần tạo dựng, bồi đắp và phát
triển các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng phong phú, bền vững.

Chính đức tính cầu học, cầu tiến, dân tộc ta sẵn sàng tiếp thu cái mới, cái tiến bộ từ bên
ngoài. Những tinh hoa văn hóa nhân loại từ phương đơng đến phương tây khi vào Việt
Nam đều được lựa chọn, cải biến những cái hay, cái đẹp thành giá trị riêng phù hợp với
đặc điểm của dân tộc. Truyền thống cần cù, dũng cảm, thơng minh, sáng tạo và hiếu học
có ảnh hưởng sâu sắc đến hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp thu truyền thống cần cù, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước với
đơi bàn tay trắng. Với đôi tay ấy, Người đã làm rất nhiều việc để sống và thực hiện
mục đích cao cả của mình. Về sau khi trở thành Chủ tịch nước, bên cạnh gánh nặng
việc nước, Người vẫn tranh thủ giờ rỗi để tăng gia sản xuất. Bên cạnh, Người còn là
một tấm gương mẫu mực về lịng dũng cảm, bao nhiêu khó khăn, gian khổ, hiểm nguy
vẫn không ngăn cản được bước tiến của Người trong quá trình tìm đường cứu nước và
hoạt động cách mạng. Thật vậy, “đời sống và những tư tưởng lớn, những tình cảm lớn
của Hồ Chí Minh thể hiện sáng tỏ phẩm chất của một người cách mạng vô sản dũng
cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh với khí phách của người chiến thắng, khí
phách của chủ nghĩa Mác - Lênin, khí phách của những người mà sứ mạng lịch sử là
đánh đổ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa”[14, tr. 294].
11


Cùng với lịng dũng cảm, trí tuệ thơng minh và sáng tạo cho phép Người lựa
chọn hướng đi cứu nước đúng và đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng
tạo lý luận đó phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam; kế thừa các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Với tư duy độc
lập, sáng tạo, thơng minh hơn người, Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc nguyên nhân
thất bại của các phong trào đấu tranh chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Người cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ
cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện các biện pháp cải
lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ lịng thương”. Từ đó, Bác khơng theo con đường
cứu nước của các bậc tiền bối mà có hướng đi riêng, đúng đắn nhất.
Hồ Chí Minh cịn là hiện thân của truyền thống hiếu học. Kế thừa truyền thống

hiếu học của dân tộc từ quê hương, gia đình, trong những năm tháng ra đi tìm đường
cứu nước, Người ln thể hiện một nghị lực phi thường, bền bỉ tự học, tự đào tạo.
Người đã học và làm rất nhiều nghề khác nhau, bắt đầu từ việc làm thợ đốt lò trên tàu
viễn dương, làm đầu bếp ở Mỹ, quét tuyết ở Anh, bốc thuốc ở Thái Lan, viết báo, viết
truyện, viết kịch, làm thợ chụp ảnh, thợ sửa đồng hồ… Nhờ tinh thần tự học mà việc
Người làm cũng giỏi. Hồ Chí Minh học ngoại ngữ, học viết báo, nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là
văn hóa phương Đơng và văn hóa phương Tây. Người biết và sử dụng thông thạo nhiều
ngoại ngữ nhờ tự học chứ khơng qua một trường đào tạo chính quy nào. Người học ở
sách báo, đồng nghiệp, bạn bè, nhân dân. Người học từ thực tiễn sinh động ở các nước đế
quốc, nước thuộc địa, ở phong trào cách mạng trên thế giới. Chính q trình tự nghiên
cứu, học tập và khảo sát mà Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc.
Ngay cả những năm tháng cuối đời trên giường bệnh, mặc dù sức khỏe đã già yếu nhưng
Hị Chí Minh vẫn thể hiện tinh thần hiếu học. Đại tướng Hoàng Văn Thái kể rằng, năm
1969, mỗi lần đến làm việc, ông thường thấy trên chiếc bàn con bên giường của Người để
đầy sách báo đang xem. Ông lo lắng đến sức khỏe của Người, nên đề nghị Bác nên đọc
ít, để nhiều thời gian nghỉ ngơi thư thả cho lại sức, nhưng Bác trả lời: “Chú bảo Bác
không đọc sách báo ư? Dù già yếu cũng phải học, phải đọc sách báo nâng cao hiểu biết và
nhất là để nắm vững tình hình chứ!”.
Như vậy, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các giá trị truyền thống dân tộc Việt
Nam được hun đúc, bồi đắp, phát triển bền vững và trở thành sức mạnh nội sinh trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua các thời kỳ. Những giá trị truyền
thống ấy là cội nguồn tư tưởng lý luận quan trọng đối với sự hình thành, phát triển tư
tưởng của Hồ Chí Minh; góp phần khẳng định tính đúng đắn, cách mạng, khoa học và
làm nên sức sống mãnh liệt tư tưởng của Người. “Hồ Chủ tịch là kết tinh của giá trị
tinh thần của nhân dân ta suốt bốn nghìn năm lịch sử”[14, tr. 287].
II. HỒ CHÍ MINH KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI.
2.1. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam và thế giới
2.1.1. Điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

12


Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập, nền
nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Chính quyền nhà Ngũn đã thi hành chính sách đối nội,
đối ngoại bảo thủ, phản động… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt
nhịp với sự phát triển của thế giới. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và hiệp
định Patơnốt (1884) được ký kết, xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới, trở thành xã
hội thuộc địa, nửa phong kiến. Nói là một nước thuộc địa, nửa phong kiến là vì nước Việt
Nam đã bị thực dân Pháp đặt ách thống trị, cịn triều đình phong kiến tồn tại để làm tay
sai cho chúng.
Trong lòng xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến không những không thủ
tiêu mâu thuẫn cũ mà cịn hình thành nhiều mâu thuẫn mới đan xen nhau, song mâu
thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bọn
phong kiến tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn
đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng phát triển
mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức. Trái lại, sự xung đột
về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không
quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Hồ Chí Minh đã vạch rõ vấn đề này từ năm 1924
rằng: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Sự xung đột về
quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, khơng thể chối cãi được” [28, tr. 464].
Tuy triều đình Nguyễn đã đầu hàng Pháp nhưng dân tộc Việt Nam không bao
giờ chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Với lòng yêu nước và căm thù giặc, các
phong trào đấu tranh chống Pháp nổ ra liên tiếp trong khắp cả nước theo nhiều hệ tư
tưởng khác nhau. Các phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng phong kiến có Trương
Định, Ngũn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Ngũn Thiện Thuật, Tôn Thất
Thuyết…Các phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng tư sản như: phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam phục hội…Phong trào nông dân có khởi
nghĩa n Thế của Hồng Hoa Thám. Dưới sự đàn áp của thực dân Pháp và bọn
phong kiến tay sai, tất cả các phong trào trên đều bị thất bại.

Nguyên nhân sâu xa của sự thất bại đó là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn,
khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trị tiến
bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc.
Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng
chính trị cải lương, khơng có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong
kiến để giành độc lập tự do cho dân tộc. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc
lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường
giải phóng đúng đắn và khơng thể đóng vai trị lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt
Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.
Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nói lên
một sự thật lịch sử là: không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của
giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp ấy đều không đáp ứng được
yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế
13


giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang địi hỏi được đổi mới, đó là một
nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.
2.1.2. Bối cảnh thế giới
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền
kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra u cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là
ngun nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến
phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,
mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế
quốc. Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một
khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523,4 triệu người (so với diện tích các
nước đó là 16,5 triệu km2 và dân số 437,2 triệu). Riêng diện tích các thuộc địa của
Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện tích nước Pháp là 0,5 triệu
km2 và dân số 39,6 triệu người). Qua đó cho thấy, chủ nghĩa đế quốc là một hiện tượng

quốc tế, một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành xâu xé thuộc địa, vừa hùa nhau
để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vịng kìm kẹp của chúng và mỗi dân tộc thuộc
địa là một mắt khâu của chủ nghĩa đế quốc. Do đó cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
của các nước thuộc địa sẽ không không bao giờ giành thắng lợi được nếu đó chỉ là
hành động riêng lẽ của từng dân tộc mà phải trở thành một mặt trận chung chống đế
quốc thực dân.
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917) mở ra một thời đại mới, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Lúc này,
các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự
quyết, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các quốc gia độc lập và quyền liên hợp, dẫn
đến sự ra đời của Liên bang Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Xơviết (1922). Từ đó cho thấy,
cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức đã
“mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[37,
tr. 562]. Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương
Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đơng có quan hệ mật
thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc
tế Cộng sản (1920), bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin được công bố. Bản luận cương này đã chỉ ra phương
hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức đó là đi theo con đường cách mạng
vơ sản.
Vấn đề thời đại đặt ra yêu cầu đối với mỗi dân tộc thuộc địa là muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc mình phải bằng con đường cách mạng vơ sản và phải biết đồn kết
trong phong trào cách mạng vơ sản thế giới. Lúc này, chủ nghĩa yêu nước của dân tộc
không cho phép tự giới hạn trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược để giải phóng dân
tộc mà phải tiến tới xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất cơng, mọi nghèo nàn, lạc hậu để giải
phóng giai cấp và giải phóng con người; yêu nước phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã
14



hội, sức mạnh dân tộc phải kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị
truyền thống dân tộc Việt Nam đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lên tầm cao
mới như thế nào?
2.2. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên
một tầm cao mới
2.2.1. Hồ Chí Minh ln đề cao giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước các giá trị truyền thống dân
tộc Việt Nam theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm
cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn
và phát triển của dân tộc. Đồng thời, các giá trị truyền thống đó ln là niềm tự hào
lớn lao của người Việt Nam nói chung và đối với Hồ Chí Minh nói riêng.
Theo Hồ Chí Minh, các giá trị truyền thống dân tộc là sức mạnh tinh thần to lớn
của Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ lịch sử. Trong
các giá trị truyền thống ấy, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, coi đó là một chân lý bất diệt: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một
truyền thống q báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước...Chúng ta có
quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Quang Trung…Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì
các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”[35, tr.171].
Hồ Chí Minh nhận định chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và nó cũng giữ nguyên giá trị trong thời kỳ xây
dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước thời bình được thể hiện bằng sự phát triển kinh tế,
văn hố, xã hội, dân giàu, nước mạnh. Nó thể hiện trong phong trào thi đua của những
người lao động tiên tiến, trong cuộc đấu tranh cho sự công bằng và tiến bộ xã hội, cho
sự tổ chức công việc một cách khoa học… Nó cịn biểu hiện qua sự đấu tranh khơng
khoan nhượng đối với những khuyết điểm, thiếu sót.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng rất đề cao truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết
của dân tộc ta. Người khẳng định đồn kết là quy luật sống cịn đối với dân tộc: “Sử ta

dạy ta rằng: lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tư do,
trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”[42, tr. 217]. Theo Hồ
Chí Minh, đồn kết là sức mạnh vơ địch, là cơ sở nền tảng, là điều kiện tất yếu đưa sự
nghiệp kháng chiến đi đến thắng lợi, kiến quốc đến thành cơng. Người cho rằng, đồn
kết mới có lực lượng tiến hành cách mạng, theo đó đồn kết càng chặt chẽ thì sức
mạnh càng cao, đồn kết càng rộng rãi thì thắng lợi càng vĩ đại. Từ nhận thức giá trị
truyền thống đồn kết nên Bác ln đặc biệt quan tâm đến vấn đề đồn kết, coi đó là
chiến lược lâu dài của cách mạng Việt Nam và là cội nguồn sức mạnh chiến thắng mọi
kẻ thù xâm lược. Bác khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”[40, tr. 350]. Trong kháng chiến chống Pháp, Người chỉ rõ:
Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh tổ quốc, dù
15


địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải
thất bại. Đến thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “Đồn
kết là sức mạnh vơ địch của chúng ta…Dù giặc Mỹ hung ác đến đâu, sức mạnh đoàn
kết vĩ đại của chúng ta sẽ đánh thắng chúng”[42, tr. 287].
Theo Người, sức mạnh đồn kết khơng chỉ tất thắng trong kháng chiến mà cịn
tất thắng trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế, Hồ Chí Minh ln
chăm lo xây dựng khối đồn kết tồn dân để phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục…
Người kêu gọi: “Các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, các tôn giáo, các dân tộc, các
nhân sỹ tiến bộ, đã đoàn kết phải đoàn kết hơn nữa, cùng nhau đẩy mạnh phong trào
thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc”[40, tr.
348].
Ngồi ra, Hồ Chí Minh luôn xem trọng truyền thống lạc quan, yêu đời; truyền
thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam.
Người không những là tấm gương sáng về tinh thần lạc quan, yêu đời, cần cù, dũng
cảm, thông minh sáng tạo và hiếu học, đồng thời, Người cũng luôn quan tâm giáo dục

cho mọi người tiếp thu, lĩnh hội và hiện thực hóa các giá trị truyền thống ấy trong thực
tiễn cuộc sống và hoạt động cách mạng. “Đồng chí Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng
sản kiên cường, một người theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời là một người tượng trưng
cho dân tộc mình - Một dân tộc anh hùng, u hịa bình, có lịng tự hào chính đáng và
có tinh thần độc lập tự chủ, một dân tộc khiêm tốn thực sự và hết sức coi trọng những
giá trị tinh thần - Một vị lãnh tụ mất mà để lại bản “Di chúc” căn dặn đồng bào phải
giữ gìn những giá trị đó. Lời hiệu triệu cuối cùng của Người là một văn kiện có sức
mạnh tinh thần và gây xúc động lớn lao”[14, tr. 289].
Nhận thấy rõ sức mạnh to lớn của các giá trị truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh
khẳng định: “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc
nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối…cũng chủ
nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp
và người Trung Quốc; nó đã thúc dục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách
mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khỡi nghĩa năm 1917”[28,
tr.466]. Chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh nói đến đó chính là chủ nghĩa u nước và
tinh thần dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Thực vậy, “Giá
trị truyền thống dân tộc là một sức mạnh vĩ đại không thể xem thường. Huy động các
gái trị của truyền thống để làm cách mạng và kháng chiến hiện đại, là huy động sức
mạnh của hàng mấy mươi thế kỷ, là mấy mươi thế kỷ tổ tiên ông cha ta cổ vũ và trợ
chiến cho con cháu hoàn thành sự nghiệp dân tộc”[14, tr.52].
Tự hào về các giá trị truyền thống dân tộc là cơ sở quan trọng để xây dựng niềm
tin vào khả năng của con người Việt Nam. Bởi vì, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ các
giá trị truyền thống dân tộc vốn đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người Việt
Nam. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã rèn luyện và hun đúc nên những
thế hệ con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, đoàn kết,
16


thủy chung, thơng minh, sáng tạo, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn... Những
đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế hệ con người

Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ và nó đã ni dưỡng, làm lớn lên những giá trị tinh thần
cao quý trong mỗi con người Việt Nam. Đây chính là nguồn lực vơ tận để đưa đất nước
vượt qua mọi thử thách, vững bước tiến lên. Chính vì thế trong hồn cảnh đen tối nhất,
Hồ Chí Minh vẫn lạc quan tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc: “Sự đầu độc có
hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê
liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương…Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
người Đông Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách
ghê gớm, khi thời cơ đến”[25, tr. 28].
2.2.2. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống
dân tộc Việt Nam
Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam sở dĩ vẫn tồn tại và phát triển bền
vững qua hàng nghìn năm lịch sử với nhiều biến cố chính là do các thế hệ người Việt
Nam khơng ngừng ra sức bảo vệ, giữ gìn. Khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tiến hành
chiến tranh xâm lược các nước thuộc địa nói chung và nước ta nói riêng, chúng đã thi
hành chính sách cai trị dã man và thâm độc trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội Việt Nam.
Chúng không những muốn hủy điệt tất cả sự sống của đất nước mà còn hòng thủ tiêu các
giá trị truyền thống của dân tộc để dễ bề cai trị. Bên cạnh thực hiện chính sách “chia để
trị”, “ngu dân dễ trị”, đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện, thủ tiêu tinh thần đấu
tranh của nhân dân… chúng còn ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ tiến
bộ trên thế giới vào Việt Nam, đem văn hóa phản động, trụy lạc nhồi sọ nhân dân ta.
Trong khi đó bọn chúng vẫn hơ hào khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”, “khai phá văn
minh” để che đậy bản chất xấu xa đó của mình.
Phát huy tinh thần của dân tộc, nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, hơn
ai hết Hồ Chí Minh ln coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc
trong điều kiện mới. Theo Người, đó chính là cơ sở để phát huy sức mạnh của dân tộc
trong kháng chiến và kiến quốc. Thông qua đó sẽ khơi dậy và làm sống lại các giá trị
truyền thống trong mỗi con người Việt Nam; đấu tranh loại bỏ các văn hóa xấu độc
của kẻ thù, văn hóa lỗi thời, lạc hậu của chế độ củ; xây dựng một nền văn hóa mới có
tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Nói chung là phải biết kết hợp giữa xây và
chống, trong đó “xây” là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài.

Để bảo vệ và giữ gìn có hiệu quả các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Hồ
Chí Minh yêu cầu mỗi người mà nhất là cán bộ, đảng viên trước hết phải hiểu biết về
lịch sử: “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Bởi vì, người ta
chỉ bảo vệ những cái gì người ta biết. Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam được
hình thành và phát triển qua từng giai đoạn lịch sử nhất định cho nên chỉ trên cơ sở hiểu
biết về lịch sử mới có thể cảm nhận đầy đủ và sâu sắc giá trị của truyền thống dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Coi chừng, có nhiều người Việt Nam lại không
hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất quý báu của mình bằng người
nước ngồi”[43, tr. 557]. Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo, tài liệu tuyên
17


truyền, nói chuyện ở nhiều nơi, mở nhiều lớp bồi dưỡng, huấn luyện để giáo dục truyền
thống. Trong đó Người chú trọng khơi dậy truyền thống yêu nước của dân tộc thông qua
các tấm gương cụ thể như: “Người già như ông Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn
đánh Đông, dẹp Bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân. Thiếu niên như Đổng Thiên
Vương chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu nước, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới 15, 16
tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ có Bà Trưng, Bà Triệu
ra tay khơi phục giang san”[42, tr. 216].
Bảo vệ, giữ gìn giá trị truyền thống dân tộc khơng có nghĩa là cất giữ khư khư
mà theo Người, phải biết khơi dậy biến nó thành hành động trên thực tế: Tinh thần yêu
nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong cửa kính, trong bình pha
lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín trong giương, trong hòm, bổn phận
của chúng ta là làm cho những của quý (kín đáo ấy) đều được đưa ra trưng bày.
Đồng thời, theo Hồ Chí Minh bảo vệ và giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc
khơng có nghĩa là đóng cửa, khép kín mà phải đi đơi với tiếp thu các giá trị văn hóa
nhân loại xưa và nay. Bởi vì, nếu khơng mở mang đầu óc với thế giới bên ngồi thì
sớm hay muộn sẽ suy thối. Theo Người, cái gì bổ ích và cần thiết, cái gì tốt và hay thì
ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa hợp với
khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Nói như vậy để thấy khơng phải

mọi thứ mới lạ đều bổ ích. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu, cịn cái mới mà lai căng,
xấu xa thì cương quyết loại bỏ. Thực tiễn về sự thất bại của các phong trào yêu nước
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy chủ nghĩa yêu nước truyền thống không phát huy
sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Nhưng chủ nghĩa yêu nước đó, trong thời đại Hồ Chí
Minh đã được nâng lên một tầm cao mới và trở thành sức mạnh to lớn của dân tộc làm nên
chiến thắng vĩ đại. Vì “ở Người, tinh hoa của dân tộc được kết hợp với chủ nghĩa Mác Lênin - đỉnh cao của tư tưởng lồi Người trong thời đại mới”[14, tr. 287].
2.2.3. Hồ Chí Minh coi trọng việc kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới
Là một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, Hồ Chí
Minh khơng những có cơng lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người mà cịn có vai trị quan trọng trong kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ Chí Minh đã “khơi dậy
những tiềm năng bị chơn vùi, phát huy những sức mạnh sẳn có, làm nảy nở những cái
mới, cái hay, cái đẹp của cả dân tộc và trong mỗi con người”[10, tr. 27]. Chính điều đó
đã “làm cho tất cả những gì tốt đẹp của dân tộc trong bốn nghìn năm lịch sử đều sống
dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong thời đại Hồ Chí Minh”[14, tr. 288].
Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam dù đã khẳng định sức mạnh to lớn
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp tiến
hành xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta thì các giá trị truyền thống ấy đã bộc
lộ những hạn chế trước yêu cầu của lịch sử trong thời cận hiện đại. Sự thất bại của
phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản chứng tỏ chỉ
có lịng u nước thơi thì chưa thể giải phóng được dân tộc, đòi hỏi chủ nghĩa yêu nước,
18


truyền thống đoàn kết và các giá trị truyền thống khác của dân tộc phải có sự phát triển
phù hợp với thời đại mới. Vậy đứng trước yêu cầu cấp bách đó, Hồ Chí Minh đã kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên tầm cao mới như thế nào?
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất
khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc lên một tầm cao mới.

Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên một
trình độ cao, khác về chất, đó là yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân. Chỉ có
u nước trên lập trường của giai cấp cơng nhân thì chủ nghĩa yêu nước mới phát huy
tối đa sức mạnh. Vì chủ nghĩa u nước ln phản ánh tính chất giai cấp sâu sắc. Trong
khi đó, giai cấp công nhân là sản phẩm của thời đại mới, là giai cấp tiên tiến nhất, triệt
để cách mạng nhất và là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng nhân
dân lao động lật đổ chủ nghĩa tư bản xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
tồn thế giới. Giai cấp cơng nhân Việt Nam, tuy còn nhỏ bé trong điều kiện nước thuộc
địa, nhưng ngồi đặc điểm chung của giai cấp cơng nhân quốc tế, giai cấp cơng nhân
Việt Nam cịn được kế thừa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, lại sớm tiếp thu ánh sáng
chủ nghĩa Mác - Lênin và rất gần gũi với nơng dân, nên Hồ Chí Minh khẳng định, chỉ
có giai cấp cơng nhân Việt Nam mới có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng đi đến thắng
lợi. Do vậy chủ nghĩa yêu nước chỉ trên lập trường của giai cấp công nhân mới phát huy
sức mạnh chiến thắng kẻ thù vốn là một lực lượng có tính quốc tế. Người chỉ rõ: vấn đề
dân tộc phải được giải quyết trên lập trường giai cấp công nhân; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Theo Người, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nơ lệ”[39, tr. 128]. Từ đó, Bác u cầu: “u tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với
yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình ngày một no ấm
thêm, tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm”[38, tr.173].
Trên cơ sở kế thừa và có sự phát triển chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã
triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Tinh thần đó
được thể hiện khi xác định mục tiêu của cách mạng ngay trong cương lĩnh đầu tiên
do Người soạn thảo: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” hay tinh thần “dù
đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải đấu tranh giành cho kỳ được độc lập dân tộc”.
Theo Người “ Hể còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta cịn phải tiếp tục
chiến đấu, qt sạch nó đi”. Khi nền độc lập bị huy hiếp thì “Thà hy sinh tất cả chứ
nhất định khơng chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người chỉ ra, vấn
đề trước mắt cho các nước thuộc địa ở phương Đông không phải là làm ngay một
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc,

sau đó mới có điều kiện tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì theo Hồ Chí
Minh, dân tộc chưa được giải phóng thì giai cấp cũng chưa được giải phóng; Giải
phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề để giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc là tiền đề
đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước thống nhất với chủ nghĩa quốc
tế của giai cấp công nhân. Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ
19


nghĩa dân tộc cực đoan, thói kỳ thị màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán... để chia rẽ
giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra cách mạng vơ sản phải thực hiện triệt để tư
tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng.
Từ đó, muốn giải phóng mình thì nhân dân “bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đồn
kết lại và chống bọn áp bức”[24, tr.452].
Qua đó cho thấy, chủ nghĩa yêu nước trong thời đại Hồ Chí Minh đã được nâng
lên một tầm cao mới, khác về chất so với chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Chủ nghĩa
yêu nước truyền thống dựa trên lập trường của giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản chỉ
hướng tới giải phóng dân tộc chứ chưa hướng tới giải phóng giai cấp, giải phóng con
người; độc lập cho dân tộc chưa gắn liền với ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân…
rõ ràng như thế không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới và không cho
phép phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để chống lại kẻ thù chung
là chủ nghĩa đế quốc. Kế thừa có chọn lọc và phát triển chủ nghĩa yêu nước trong thời
đại mới, Hồ Chí Minh khơi dậy truyền thống yêu nước của dân tộc, biến nó thành sức
mạnh vật chất to lớn, “làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được thực hành
vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[35, tr. 172].
Bên cạnh đó, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của dân tộc cũng được Hồ
Chí Minh phát huy tối ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng
chiến chống Pháp, Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn
nữa. Hà Nội, Hải Phịng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi,

nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”[41, tr.108]. Trong
kháng chiến chống Mỹ, Người cũng khẳng định ý chí và quyết tâm chiến thắng kẻ thù:
“Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh
nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi
hoàn tồn”[44, tr. 510].
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết của dân
tộc lên tầm cao mới.
Hồ Chí Minh cũng ln coi trọng việc kế thừa và phát triển truyền thống đoàn
kết dân tộc, Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và nhân dân ta”[44, tr. 510]. Kế thừa truyền thống đoàn kết của dân tộc nhưng tư
tưởng đồn kết của Hồ Chí Minh đã có sự phát triển phù hợp với thực tiễn của đất
nước và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Nếu như trước đây, dân tộc ta chỉ quan tâm xây
dựng khối đoàn kết toàn dân thì trong thời đại Hồ Chí Minh đồn kết được phát triển ở
phạm vi rộng hơn bao gồm: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc
tế. Điều đó cho phép Đảng và Bác Hồ khơng những huy động sức mạnh dân tộc mà
còn huy động sức mạnh của thời đại để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng.
Sự kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết của dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có thể thấy trên một số vấn đề sau:
Thứ nhất, kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết dân tộc trong điều kiện
mới, điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến có nhiều tầng lớp, giai cấp, có
20


quan điểm, thái độ khác nhau trong cuộc cách mạng vơ sản. Hồ Chí Minh đã khéo léo
giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp và dân tộc, vấn đề dân tộc chỉ được giải quyết
trên lập trường của giai cấp công nhân, nhưng vấn đề dân tộc là cao hơn hết thảy, vì
theo Người, dân tộc khơng được giải phóng thì quyền lợi giai cấp ngàn năm cũng
khơng địi được. Hồ Chí Minh đã tìm ra “mẫu số chung” để từ đó huy động sức mạnh
của tồn dân tộc, tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt già, trẻ, gái,
trai, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam trong nước hay ngoài nước…đều đoàn

kết lại trong một mặt trận để chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong tác phẩm “Đường
cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc xác định: Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp,
nghĩa là sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống cường quyền. Người cũng chỉ rõ,
đoàn kết rộng rải nhưng phải lấy cơng nơng làm gốc, vì theo Người, ai bị áp bức càng
nặng thì tinh thần cách mạng càng bền, chí cách mệnh càng quyết: “Cơng nơng là tay
khơng rồi, nếu thua thì chỉ mất một kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới cho nên họ
gan góc. Vì những cớ ấy, nên cơng nơng là gốc cách mệnh…”[30, tr. 266].
Thứ hai, đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh phải trên lập trường của giai cấp
cơng nhân, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế để chống kẻ thù chung
của giai cấp, của nhân loại, đó là chủ nghĩa đế quốc. Tiếp nhận lý luận chủ nghĩa Mác
- Lênin và qua khảo sát thực tiễn về bản chất của chủ nghĩa đế quốc và số phận của
những “người cùng khổ”, Người đã đi đến khái quát: “Vậy là, dù màu da có khác
nhau, trên đời này, chỉ có hai giống người: giống người bị bóc lột và giống người bóc
lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thơi: Tình hữu ái vơ sản”[27, tr.
266]. Từ đó, Người đã làm được một việc quan trọng là: “Gắn phong trào cách mạng
Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà
chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin”[3, tr. 10].
Thứ ba, theo Hồ Chí Minh, đồn kết rộng rãi nhưng phải lấy cơng nông làm gốc
và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong khi khẳng định cách mạng
là sự nghiệp chung của quần chúng nhân dân, bằng tư duy biện chứng, Người chỉ rõ:
Khối quần chúng có đơng đến hàng triệu, hàng chục, hàng trăm triệu mà không được tổ
chức lại, không được giác ngộ đưa ra tập dượt đấu tranh thì sẽ rời rạc như đũa mỗi chiếc
một nơi và không thành lực lượng cách mạng được. Bác cảnh báo sẽ nguy hại khôn
lường nếu khối quần chúng ấy không được tổ chức lại và bị kẻ thù lợi dụng cho mưu đồ
chống lại dân tộc, chống lại bản thân quần chúng. Từ đó, Hồ Chí Minh yêu cầu cách
mạng “trước hết phải có Đảng cách mạng, để trong thì vận động quần chúng, ngồi thì
liên lạc với vô sản giai cấp mọi nơi”[30, tr.267]. Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết
định sự thành bại cách mạng vì dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh dân tộc được phát
huy hơn gấp nhiều lần trước đây. Qua đó, cho thấy, Hồ Chí Minh khơng những đã kế
thừa truyền thống đồn kết của dân tộc mà cịn phát triển truyền thống ấy lên một tầm

cao mới, khắc phục những hạn chế trong tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của một
số nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế lỷ XX.
Hồ Chí Minh luôn kế thừa và phát triển truyền thống nhân nghĩa của dân tộc
Việt Nam, tư tưởng đó khơng dừng lại ở “thương người như thể thương thân”, hay
21


“lá lành dùm lá rách” mà tình thương yêu dành cho tất cả mọi người, không phân
biệt màu da, chủng tộc. Lòng yêu thương trước hết dành cho những người lao động
nghèo khổ, những người chịu thiệt thòi trong xã hội, yêu thương đối với những kẻ
lầm đường lạc lối, “đối với kẻ lầm đường lạc lối, lịng Hồ Chí Minh còn rộng hơn
biển cả. Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ
mà lạc bầy…Hồ Chí Minh tin rằng người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước
thống nhất, độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn
lửa”[14, tr. 304]. Tình yêu thương con người của Bác ln gắn liền với căm ghét bọn
áp bức, bóc lột và kiên quyết đấu tranh, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để thực hiện mục
tiêu giải phóng con người.
Ngồi ra, Hồ Chí Minh cịn kế thừa và phát triển truyền thống lạc quan, yêu
đời, cần cù, dũng cảm, thông minh, hiếu học dân tộc trong điều kiện mới. Tinh thần
lạc quan trong tư tưởng của Người luôn xây dựng trên cơ sở niềm tin có tính khoa
học, u đời nhưng sẳn sàng cống hiến cả cuộc đời cho đất nước, cho nhân dân, cần
cù là làm việc có kế hoạch khoa học, cho kết quả cao, tiết kiệm thời gian và chi
phí…Có thể thấy, khi mà con đường cứu nước đang gặp sự bế tắc, các giá trị truyền
thống của dân tộc vốn là sức mạnh tinh thần to lớn cũng không thể phát huy để bảo
vệ đất nước nhưng khi đến thời đại Hồ Chí Minh thì “tất cả những gì tốt đẹp của
dân tộc trong bốn nghìn năm lịch sử đều sống dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ
hết”[14, tr. 288]. Hồ Chí Minh khơng những đã kế thừa mà còn phát triển các giá trị
truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới cao hơn. Đúng như cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã viết: “Từ đầu những năm 20 của thế kỷ này, một con người đã trở
thành thân thiện của quá trình gặp gỡ lịch sử giữa một dân tộc, một thời đại, làm

nên một sự nghiệp lớn lao. Con Người ấy là Hồ Chí Minh. Dân tộc ấy là dân tộc
Việt Nam”[11, tr. 10].
Tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam có mối quan hệ
biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, các giá trị truyền thống tộc là cội
nguồn tư tưởng lý luận có ảnh hưởng sâu sắc đến con người, cuộc đời và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người đã kế thừa, “là kết tinh các giá trị tinh thần của nhân dân ta
suốt bốn nghìn năm lịch sử”[14, tr. 287] và phát triển các giá trị truyền thống ấy lên
tầm cao mới trong thời đại mới. Vấn đề này đã góp phần khẳng định tính đúng đắn,
khoa học, cách mạng tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời thấy được công lao to lớn
của Người trong giữ gìn và làm phát triển các giá trị truyền thống dân tộc Việt
Nam. Đây còn là cơ sở quan trọng để khắc phục những nhận thức lệch lạc về nguồn
gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và là vũ khí sắc bén để đấu tranh chống lại
có hiệu quả các quan điểm sai trái chống phá tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực
thù địch hiện nay./.

22


KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam có mối quan
hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, giá trị truyền thống dân tộc Việt
Nam là nguồn gốc tư tưởng lý luận quan trọng đối với sự hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh; hành trang đầu tiên khi Người ra đi tìm đường cứu nước; tư
tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển giá trị truyền thống dân tộc lên tầm
cao mới. Đây là một trong những quy luật, nguyên tắc cơ bản của quá trình hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc mối quan hệ trên là cơ sở để khẳng định tính đúng
đắn, cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc
Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo, bảo
vệ có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam trong

tình hình mới./.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Bình (2000), “Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản,
số 11.
2. Quang Cận (1999), “Thử tìm tiếp một định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Cộng sản, số 21.
3. Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến
lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2007.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội tồn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội tồn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
9. Phạm Văn Đồng (2000), “Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình ảnh của dân tộc, tinh hoa
của thời đại”, Tạp chí Cộng sản, số 10.
10. Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại và tương lai, tập 1, Nxb Sự Thật,
Hà Nội, 1991.
11. Phạm văn Đồng, Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1990.
12. Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu
nước mạnh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993.

13. Phạm Văn Đồng, Hồ Chủ tịch, tinh hoa của dân tộc, lương tâm của thời đại, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1976.
14. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1980.
15. GS Trần Văn Giàu, sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997.
16. Hà Huy Giáp, Bác Hồ người Việt Nam đẹp nhất, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1977.
17. Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh - Q trình hình thành và phát
triển, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993.
18. Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
19. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
20. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Một số chuyên đề về lịch sử Việt Nam
(Tập bài giảng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
24


21. GS Đinh Xuân Lâm và PGS, TS Bùi Đình Phong, Văn hóa và triết lý phát triển
văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
22. Hoa. Levan, Nền tảng văn hóa dân tộc trong tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh,
Nxb Hà Nội, 2005.
23. Nguyễn Bá Linh (1994), “Đối tượng và phương pháp nghiên cứu, học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh”, Tư tưởng Hồ Chí Minh một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994.
24. Hồ Chí Minh (1921), “Bản truyền đơn bằng tiếng Việt của Ban nghiên cứu thuộc
địa Đảng Cộng sản Pháp”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002.
25. Hồ Chí Minh (1921), “Đơng Dương”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
26. Hồ Chí Minh (1923), “Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp”, Hồ Chí Minh,
Tồn tập, tập 1, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
27. Hồ Chí Minh (1924), “Đồn kết giai cấp”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
28. Hồ Chí Minh (1924), “Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ”, Hồ Chí Minh,
Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
29. Hồ Chí Minh (1925), “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập
2, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
30. Hồ Chí Minh (1927), “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
31. Hồ Chí Minh (1941), “Lịch sử nước ta”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb,
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
32. Hồ Chí Minh (1942), “Nên học sử ta”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
33. Hồ Chí Minh (1948), “6 điều khơng nên và 6 điều nên làm”, Hồ Chí Minh, Tồn
tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6.
34. Hồ Chí Minh (1950), “Gửi họ Nguyễn Sinh”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb,
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
35. Hồ Chí Minh (1951), “Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu tồn quốc lần II của
Đảng”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
36. Hồ Chí Minh (1955), “Chủ nghĩa Lênin và cơng cuộc giải phóng các dân tộc bị áp
bức”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
37. Hồ Chí Minh (1957), “Cách mạng tháng Mười và sự nghiệp giải phóng các dân
tộc phương Đơng”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002.
38. Hồ Chí Minh (1958), “Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai”, Hồ Chí
Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
39. Hồ Chí Minh (1960), “Con đường dẫn tơi đến Lênin”, Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập
10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

25


×