Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

TIỂU LUẬN CAO học môn CHÍNH TRỊ QUỐC tế ĐƯƠNG đại LIÊN hợp QUỐC SAU CHIẾN TRANH LẠNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.82 KB, 48 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ ĐƯƠNG ĐẠI

Đề tài:
LIÊN HỢP QUỐC SAU CHIẾN TRANH LẠNH


LỜI MỞ ĐẦU
Cách đây hơn 70 năm, đông đảo đại diện đến từ 50 quốc gia đã nhóm
họp tại San Francisco để đề xuất thành lập một tổ chức quốc tế thay thế cho
Hội quốc liên trước đó hoạt động khơng hiệu quả nhằm dự phịng các cuộc
xung đột vũ trang cũng như nhằm ngăn chặn các cuộc chiến như Chiến tranh
thế giới thứ nhất và thứ hai không bao giờ xảy ra nữa. Chỉ vài tháng sau đó,
Hiến chương của Liên hợp quốc đã được ký, ra đời Tổ chức đa phương này,
"một tổ chức được hình thành với hy vọng chấm dứt tai họa chiến tranh cho
nhân loại"
So với Hội quốc liên, Liên hợp quốc chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất tồn
cầu (thành phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc
biệt là tính tồn diện của nó: chương trình nghị sự khơng bó hẹp vào vấn đề
duy trì hồ bình, an ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì phát triển
kinh tế – xã hội của cộng đồng các dân tộc; bản thân hệ thống Liên hợp quốc
bao gồm hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ chức chuyên môn tập trung
vào mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và quan hệ quốc tế ngoài lĩnh vực
chính trị - quốc phịng, từ tiền tệ đến nơng nghiệp, văn hố, khoa học – kỹ
thuật... Liên hợp quốc đã đề xuất và tham gia giải quyết các vấn đề tồn cầu
truyền thống như cấm thử vũ khí hạt nhân tồn diện, giải trừ vũ khí hạt nhân
và vũ khí thơng thường, gìn giữ hịa bình và giải quyết xung đột, hịa bình
Trung Đơng, thương mại quốc tế, chống đói nghèo,… và phi truyền thống
như khủng bố, biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu và
dịch bệnh HIV/AIDS và nhiều loại bệnh lây nhiễm khác.
Tổ chức Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống


chính trị quốc tế trong gần 70 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu
sự xuất hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước
ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa phương nói
chung. Sự đóng góp của Liên hợp quốc đối với hồ bình an ninh quốc tế, sự
2


phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng các dân tộc trong 70 năm qua là rất
đáng kể. Đặc biệt trong kỷ ngun văn mình và tồn cầu hóa hiện nay, Liên
hợp quốc càng khảng định vai trị to lớn trong quan hệ quốc tế hiện đại, khả
năng hướng tới một tổ chức siêu quyền lực trên thế giới.
1. Lý do chọn đề tài
Liên hợp quốc là một tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới với sứ mệnh giữ
gìn hịa bình và an ninh thế giới, đồng thòi thúc đẩy hợp tác và phát triển của
các quốc gia. Trải qua hơn 70 năm hoạt động và phát triển, tổ chức này có
những đóng góp to lớn trong việc giữ gìn hịa bình và tăng cường phát triển
thế giới. Liên hợp quốc đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới do tình
hình thế giới đã có q nhiều thay đổi, biến đọng phức tạp. Xu thế toàn cầu
hóa khiến khơng một quốc gia, một nhóm nước nào có thể đơn phương giải
quyết các vấn đề chung của các nước, khối , khu vực ngày càng gia tăng mạnh
mẽ tạo đà cho nhân loại phát triển. Thể chế và cơ chế đa phương ngày càng
đóng một vai trị quan trọng trong mọi mặt đời sống xã hội.
Liên hợp quốc hoạt động vì mục tiêu ngăn ngừa thảm họa chiên tranh,
giữ vững đọc lập chủ quyên an ninh thế giới. Liê Hợp Quốc thực hiện các
nguyên tắc bình đẳng vê chủ quyên, nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ
theo hiến chương Liên Hợp Quốc; giải quyết hịa bình các tranh chấp quốc tế,
không dùng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực và can thiệp vào công việc nội bộ của
các quốc gia khác. Có thể nói , vai trị của kiên hợp quốc không thể thiếu
được như một trung tâm điều hành của các quốc gia, dân tộc trong một thế
giới đnag đứng đầu trước những vấn đề toàn cầu mà khơng một quốc gia

riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu khơng có sự hợp tác đa phương.
Chính vì vậy, đối tượng nghiên cứu trong tiểu luận này là : Liên Hợp Quốc
2 Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay đã có rất nhiều đề tài viết về nghiên cứu về Liên Hợp Quốc
như:

3


1) Giáo trình luật quốc tế - Trường ĐH Luật Hà Nội; NXB Công an
nhân dân 2004;
2) HĐBA LHQ và vấn đề duy trì hịa bình, an ninh quốc tế- Thạc sỹ
Nguyễn Kim Ngân; tạp chí Luật học năm 2005: Đặc san 60 năm thành lập
LHQ;
3) Nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐBA LHQ yêu cầu cấp bách
trong giai đoạn hiện nay- Thạc sỹ Đồn Thành Nhân; tạp chí Luật học năm
2005: Đặc san 60 năm thành lập LHQ;
4) Về các tòa án do HĐBA thành lập- Thạc sỹ Lê Đức Hạnh; tạp chí
Luật học số 5/2009;
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích là làm rõ về lịch sử hinh thành của Liên Hợp Quốc cũng như
vai trị trong việc gìn giữ hào bình an ninh thế giới, gắn kết các quốc gia lại
với nhau hỗ trợ và giúp đỡ các quốc gia nghèo đói và kém phát triển . Tìm
hiểu vai trị của hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc.
Nhiệm vụ nghiên cứu tìm hiể Trong tình hình quốc tế phức tạp hiện
nay, Liên hợp quốc càng cần thể hiện được vai trị của mình trong việc ngăn
ngừa chiến tranh và thúc đẩy hợp tác quốc tế ứng phó với những thách thức
đang được đặt ra. Để có thể thực hiện vai trị này, càng cần cùng nhau thúc
đẩy cải tổ Liên hợp quốc một cách dân chủ, tồn diện, nhằm mục tiêu tăng
cường vai trị và khả năng của Liên hợp quốc, trong đó có Đại hội đồng, Hội

đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế Xã hội và các cơ quan chuyên môn của Liên
hợp quốc.
4 Ý nghĩ lý luận và thực tiễn của đề tài
Góp phần nhận thức rõ ràng hơn hơn về vị trí vài trị của Liên Hợp
Quốc trong xu thế phát triển của thế giới hiện nay trong mối quan hệ đa
phương giữa các quốc gia và nhận thức rõ ràng hơn về vai trò quan trọng của
Hội Đồng Bảo An và những yếu kém của Liên Hợp Quốc trong việc giữ vững
ổn định hịa bình thế giới.
4


5 Kết cấu đề tài
Chương: I Tổ chức liên hợp quốc
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Liên Hợp Quốc
1.2. Tơn chỉ mục đích và ngun tắc hoạt động của Liên Hợp Quốc
1. 3. Cơ cấu tổ chức của Liên Hợp Quốc
Chương 2: Vai trò của Liên Hợp Quốc sau chiến tranh lạnh.
Chương này em tập trung trình bày những vấn đề sau:
1.Tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh
2. Vai trò của Liên Hợp Quốc trước và sau chiến tranh lạnh
3. Những cố gắng trong việc việc cải tổ Hội Đồng Bảo An Liên Hợp
Quốc
Chương 3: Một số hoạt động của Liên Hợp Quốc sau chiến tranh
lạnh. Chương này gồm các vấn đề sau:
1. Hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên Hợp Quốc
2. Một số hoạt động khác.

5



CHƯƠNG I:
TỔ CHỨC LIÊN HỢP QUỐC
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Liên Hợp Quốc
Liên Hợp Quốc là một tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới với thành viên
là những nước độc lập có chủ quyền. Liên Hợp Quốc được hình thành theo
sáng kiến của Liên Xơ, Anh và Mỹ; tổ chức này chính thức ra đời ngày
24/10/1945 tại hội nghị San Francisco (Mỹ). Tên gọi “Liên hợp quốc” đã
được Tổng thống Mỹ Franklin D.Roosevelt sáng lập ra và được sử dụng lần
đầu tiên trong “Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc” vào ngày 1/1/1942, trong đó
26 quốc gia đã khẳng định cam kết tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại các nước
thuộc phe phát xít. Sự ra đời của Liên Hợp Quốc được xem như là một sự
kiện quan trọng và là sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau.
Đầu tháng 9/1939, phát xít Đức đã mở cuộc tấn công xâm lược ồ ạt vào
Ba Lan, bắt đầu cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai. Ngọn lửa chiến tranh đã
nhanh chóng lan ra tồn Châu Âu rồi bao trùm cả khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. Đến cuối năm 1941, trận tuyến của cuộc chiến tranh đã hình
thành hai phe: phe các nước phát xít có Đức, Ý, Nhật Bản và phe các nước
đồng minh chống phát xít gồm: Liên Xơ, Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc và
nhiều nước khác. Mặc dù có chế độ chính trị, xã hội khác nhau nhưng các
nước đồng minh đều xác định kẻ thù chung là chủ nghĩa phát xít. Vì vậy,
tháng 6 năm 1941 các nước đồng minh chống phát xít đã ký tuyên bố tại
London (Anh) để khẳng định sự hợp tác với nhau và với các nước tự do khác
cả trong chiến tranh cũng như trong hòa bình.
Sự thất bại của Hội quốc liên (tiền thân của Liên Hợp Quốc) cũng đã
đặt ra yêu cầu phải thiết lập một thể chế đa phương hữu hiệu có tính tồn cầu,
nhằm duy trì hịa bình và anh ninh quốc tế. Trong một thời gian dài, hệ thống
an ninh tập thể của Hội quốc liên tỏ ra không hiệu quả vì khơng được sự ủng
hộ quan tâm của các cường quốc. Những nỗi kinh hoàng của Chiến tranh thế
6



giới lần thứ nhất chưa đủ sức thuyết phục các quốc gia hiểu rằng quyền lợi
hịa bình của họ địi hỏi phải có một trật tự quốc tế với các quyền lợi quốc gia
truyền thống làm ưu tiên hàng đầu. Hội quốc liên trở thành một thể chế cứng
nhắc, không thể hiện được chức năng dàn xếp hoặc thiết lập các liên minh
năng động, nhằm ngăn chặn các hoạt động bành trướng của một số cường
quốc.
Trong những năm đầu của chiến tranh thế giới lần thứ hai, Tổng thống
Mỹ Franklind. Roosevelt đã nảy sinh ý tưởng về việc thành lập một hệ thống
an ninh tập thể hiệu quả hơn so với Hội quốc liên. Ông là người đề xướng
việc thành lập một tổ chức để đảm bảo hịa bình quốc tế thay cho Hội Quốc
Liên. Ông đã bày tỏ vấn đề này với Thủ tướng Anh Churchill và tiếp theo là
tìm cơ hội thảo luận với ngun sối Stalin (Liên Xơ). Nhiều cuộc thảo luận
đã diễn ra trong từng chính phủ về việc hình thành một tổ chức an ninh tập thể
mới, với cấu trúc, chức năng và quyền hạn của tổ chức này.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai ngày càng ác liệt với quy mô
càng ngày càng lớn. Điều đó địi hỏi các quốc gia chống phát xít phải hợp tác
chặt chẽ với nhau bằng cam kết mang tính pháp lý quốc tế. Đây chính là cơ sở
dẫn đến cuộc họp mặt của đại diện 26 quốc gia tham chiến chống khối trục
phát xít vào ngày 1/1/1942 tại Washington. Các nước này đã thông qua một
tuyên bố quan trọng, đó là “Tun ngơn của 26 nước” hay cịn gọi là “Tun
ngơn liên hợp của các dân tộc”, đánh dấu sự hình thành của khối đồng minh
chống phát xít. Tên gọi Liên Hợp Quốc chính là xuất hiện từ đây. Chính phủ
các nước lớn như Liên Xơ, Anh, Mỹ, Trung Quốc đều đã ký vào bản tuyên
ngôn này.
Sự hình thành khối đồng minh với nhiều quốc gia trên thế giới có chế
độ chính trị - xã hội khác nhau là nhằm tạo sự đảm bảo vững chắc trong việc
đánh bại các nước phát xít, cứu lồi người khỏi thảm họa chiến tranh. Song
mặt khác, khối đồng minh ấy lại không phải là một khối thống nhất bởi giữa
các nước tham chiến tuy có mục tiêu chung nhưng do bản chất chế độ chính

7


trị- xã hội khác nhau, lợi ích quốc gia khác nhau cho nên có những mục tiêu
khác nhau trong quá trình tham gia quan hệ. Một vấn đề quan trọng nữa là
quan hệ giữa các cường quốc và các nước nhỏ hơn trong tổ chức này. Ngay từ
đầu, ba nước Mỹ, Anh, Liên Xơ đã nhất trí cho rằng các nước có vai trị lớn
trong việc đánh bại phe trục phải được trao trách nhiệm gìn giữ hịa bình sau
chiến tranh và phải đóng vai trị lãnh đạo mà khơng bị ý chí tập thể của nhiều
quốc gia nhỏ hơn ngăn trở.
Sau cuộc họp của đại diện 26 nước trong mặt trận đồng minh chống
phát xít 1/1/1942, một loạt các hội nghị quốc tế về việc thành lập Liên Hợp
Quốc đã được tiến hành trong thời gian chiến tranh.
Cuối tháng 10/1943, theo sáng kiến của Liên Xô, hội nghị ngoại
trưởng ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh đã được tổ chức tại Matxcơva. Hội nghị đã
nhấn mạnh sự cần thiết phải thành lập một tổ chức toàn cầu trong thời gian
sớm nhất, có thể được, duy trì hịa bình và an ninh thế giới trên cơ sở nguyên
tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các nước u chuộng hịa bình, không
phân biệt nước lớn hay nhỏ. Hội nghị đã đánh dấu bước tiến thực tiễn đầu tiên
trong quá trình hình thành tổ chức Liên Hợp Quốc. Bên cạnh những vấn đề
thống nhất chung, các bên cũng đưa ra nhiều quan điểm khác về cơ cấu tổ
chức Liên Hợp Quốc. Thực chất điều này phản ánh lợi ích quốc gia, lợi ích
giai cấp trong quan hệ quốc tế.
Từ ngày 28/11 đến ngày 1/12/1943 lần đầu tiên những người đứng đầu
ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh là Stalin, Roosevelt và Churchill đã họp mặt tại
thủ đô Têhêran của Iran. Họ đã đưa ra một tuyên bố chung quan trọng, trong
đó có nhấn mạnh sự quyết tâm của ba nước sẽ cùng nhau cộng tác trong thời
gian chiến tranh cũng như hịa bình sau này. Đồng thời, họ cũng nhấn mạnh
tầm quan trọng của sự hợp tác giữa ba nước và của một tổ chức quốc tế đối
với hịa bình an ninh lâu dài của các dân tộc.

Từ ngày 9/12/1943 Mỹ đã thành lập nhóm nghiên cứu tổ chức tương
lai có trụ sở ở Washington. Tuy nhiên, phải đến hội nghị trù bị tại Dumbarton
8


Oaks (từ tháng 9 đến tháng 10/1944) các vấn đề chính liên quan đến tổ chức
sắp ra đời mới được đưa ra thảo luận một cách kỹ lưỡng. Tại hội nghị, đại
diện tồn quyền của bốn nước Liên Xơ, Mỹ, Anh và Trung Hoa dân quốc đã
đàm phán sơ bộ việc soạn thảo Hiến Chương Liên Hợp Quốc. Hội nghị chia
thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu từ ngày 21/8 đến ngày 28/9 gồm các đại
diện Liên Xô, Mỹ và Anh; giai đoạn sau từ ngày 29/8 đến ngày 7/10 gồm các
đại diện Mỹ, Anh và Trung Hoa dân quốc. Cách bố trí như vậy là nhằm thể
hiện sự trung lập của Liên Xô trong cuộc chiến chống Nhật. Hội nghị đã thảo
luận một số vấn đề then chốt như: tổ chức Liên Hợp Quốc sẽ gồm các cơ quan
là “Đại hội đồng”, “Hội đồng bảo an”, “Ban thư ký”, “Tòa án quốc tế”, và
theo yêu cầu của Mỹ sẽ gồm có cả: “Hội đồng kinh tế- xã hội”. Hội đồng bảo
an sẽ gồm 11 thành viên trong đó 5 nước là thành viên thường trực( là bốn
nước tham dự hội nghị Dumbarton Oaks và Pháp). Tuy nhiên, hội nghị không
thỏa thuận được về thủ tục bỏ phiếu trong Hội đồng bảo an. Vấn đề này được
chuyển lên ba nguyên thủ quốc gia Stalin, Roosevelt và Churchill giải quyết
tại Hội nghị Yanta (Liên Xô) vào tháng 2/1945.
Ba vị dứng đầu nhà nước Liên Xô, Mỹ và Anh đã giải quyết những vấn
đề vướng mắc còn lại trong việc thành lập Liên Hợp Quốc. Hội nghị nhất trí
một lần nữa khẳng định việc thành lập Liên Hợp Quốc và thảo luận vấn đề
quan trọng nhất là vấn đề biểu quyết ở Hội đồng bảo an mà ở hội nghị
Dumbarton Oaks còn gác lại( tức là áp dụng nguyên tắc nhất trí trong năm ủy
viên thường trực Hội đồng bảo an và công nhận quyền phủ quyết (veto) của
từng Ủy viên thường trực). Hội nghị cũng thỏa thuận là sẽ triệu tập hội nghị
quốc tế thành lập Liên Hợp Quốc vào tháng 4/1945 và soạn thảo một bản
Hiến chương dựa trên những đề nghị của hội nghị trước đây.

Ngày 25/04/1945 tại thành phố San Francisco (Mỹ) hội nghị quốc tế
thành lập Liên Hợp Quốc đã được tiến hành. Hội nghị kéo dài hai tháng với
sự tham gia của đại diện 50 quốc gia với trên 850 đại biểu cùng các cố vấn,
chuyên gia, nhân viên kỹ thuật, tất cả gần tới 3500 người. Hội nghị căn cứ vào
9


các đề nghị của Hội nghị Dumbarton Oaks, sự thỏa thuận tại Yanta và những
đề nghị bổ sung của các chính phủ để soạn ra Hiến chương Liên Hợp Quốc
gồm 19 chương với 111 điều khoản.
Ngày 25/06/1945 Hiến chương được hội nghị nhất trí thơng qua. Ngày
26/10/1945, tại tịa nhà cựu chiến binh ở San Francisco 50 đoàn đại biểu đã
long trọng tiến hành lễ ký kết vào bản Hiến chương Liên Hợp Quốc. Có thể
nói, Hiến chương Liên Hợp Quốc là một điều ước quốc tế quan trọng nhất của
thời kỳ sau chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay. Nó quy định mục tiêu,
nguyên tắc, thành viên, cơ cấu tổ chức, hình thức và lề lối hoạt động của các
cơ quan chính yếu Liên Hợp Quốc. Hiến chương Liên Hợp Quốc được cộng
đồng quốc tế coi là nguồn quan trọng nhất của luật pháp quốc tế đương đại.
Mặt khác, Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng là sản phẩm thỏa hiệp của sự
đấu tranh giữa hai hệ thống pháp luật khác nhau( xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa). Do vậy, việc thực thi những điều khoản trong Hiến chương là một
quá trình tiếp tục hợp tác và đấu tranh liên tục trên tinh thần thiện chí và thái
độ tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên lớn cũng như nhỏ, giàu cũng như
nghèo vì mục tiêu cao cả của Liên Hợp Quốc.
Bốn tháng sau, ngày 24/10/1945, sau khi được phê chuẩn Hiến chương
Liên Hợp Quốc bắt đầu có hiệu lực. Liên Hợp Quốc đã được thành lập từ
đống tro tàn của cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Từ đó, hàng năm ngày
24/10 trở thành ngày kỷ niệm của Liên Hợp Quốc.
Liên Hợp Quốc ra đời là một sự kiện quan trọng và do tác động tổng
hợp của nhiều yếu tố. Đó là vai trị yếu kém của Hội quốc liên trong việc duy

trì hịa bình và an ninh quốc tế; sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ hai
với những hậu quả thảm khốc của nó với lồi người. Đó là những nỗ lực to
lớn của các nước nhằm thiết lập một thể chế tồn cầu có hiệu quả hơn trong
việc giữ gìn hịa bình và an ninh quốc tế nhằm loại trừ khả năng xảy ra chiến
tranh Thế giới thứ ba và đảm bảo một trật tự thế giới mới trong quan hệ quốc
tế sau chiến tranh Thế giới thứ hai. Việc thành lập Liên Hợp Quốc cho thấy
10


quyết tâm của cả cộng đồng quốc tế muốn xây dựng một hệ thông an ninh tập
thể hữu hiệu hơn nhằm duy trì hịa bình và an ninh quốc tế.
1.2. Tơn chỉ mục đích và ngun tắc hoạt động của Liên Hợp Quốc
1.2.1. Tơn chỉ mục đích
Theo quy định của Hiến chương, tơn chỉ của Liên Hợp Quốc gồm có
bốn điểm sau:
Duy trì hịa bình và an ninh thế giới.
Tơn chỉ đầu tiên của Liên Hợp Quốc là “Duy trì hịa bình và an ninh
thế giới; và nhằm mục đích đó, áp dụng những biện pháp tập thể có hiệu quả
để ngăn ngừa và thủ tiêu các mối đe dọa hịa bình, chấm dứt các hành vi xâm
lược hoặc các hành vi phá hoại hịa bình, dựa trên ngun tắc chính nghĩa và
luật pháp quốc tế, dùng phương pháp hịa bình để điều chỉnh hoặc giải quyết
những tranh chấp quốc tế hay những tình thế có thể làm hại cho hịa bình”.
Lời nói đầu của của Hiến chương cũng nêu rõ: “Liên Hợp Quốc tập
trung lực lượng để duy trì hịa bình và an ninh thế giới” và “cam kết khơng
dùng vũ lực, nếu khơng phải vì lợi ích chung”
Những quy định nêu trên đã xác định nhiệm vụ chủ yếu của Liên Hợp
Quốc là duy trì hịa bình và an ninh thế giới. Để thực hiện nhiệm vụ này, Liên
Hợp Quốc có thể áp dụng những biện pháp tập thể có hiệu quả để chấm dứt
ngay những hành vi xâm lược đe dọa và phá hoại hịa bình. Những biện pháp
tập thể này chỉ có thể áp dụng sau khi được Hội đồng bảo an quyết định theo

nguyên tắc nhất trí giữa năm nước lớn. Đối với các cuộc tranh chấp và những
tình thế có hại cho hịa bình thế giới, Liên Hợp Quốc phải giải quyết bằng
phương pháp thương lượng hịa bình, theo ngun tắc chính nghĩa và theo luật
pháp quốc tế, nghĩa là một mặt tổ chức này có thể giải quyết các mối tranh
chấp quốc tế bằng cách thương lượng hịa bình trong lúc chưa xảy ra tình
trạng xâm lược, mặt khác phải kiên quyết chấm dứt hành vi xâm lược nếu đã
xảy ra. Có như vậy, Liên Hợp Quốc mới trở thành một tổ chức quốc tế bảo vệ
hịa bình và an ninh trên tồn thế giới.
11


Xúc tiến quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tơn trọng
quyền bình đẳng và dân tộc tự quyết của nhân dân.
Theo điều một của Hiến chương, tôn chỉ thứ hai của Liên Hợp Quốc là
“Phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc
bình đẳng về quyền lợi và tự quyết của nhân dân, và sẽ dùng những biện pháp
thích đáng để củng cố hịa bình ở khắp nơi”.
Theo tơn chỉ này, tất cả các quốc gia, tất cả nhân dân thuộc các dân tộc
đều có quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế theo ý mình. Tất cả các
dân tộc chưa được độc lập đều có quyền thực hiện nền độc lập dân tộc của
mình theo nguyên tắc dân tộc tự quyết, khơng ai có thể dùng thủ đoạn cưỡng
bức can thiệp vào sinh hoạt của bất cứ dân tộc nào.
Nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi và dân tộc tự quyết là nền tảng phát
triển quan hệ hữu nghị giữa các nước, là cơ sở cho an ninh và hịa bình thế
giới.
Xúc tiến sự hợp tác quốc tế trên các mặt kinh tế, xã hội và văn
hóa.
Theo điều 1 của Hiến chương tơn chỉ thứ ba của Liên Hợp Quốc là:
“Thực hiện sự hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn
hóa và các vấn đề có tính chất phục vụ lợi ích chung của nhân loại trên thế

giới, phát triển và khuyến khích việc tơn trọng nhân quyền và quyền tự do cơ
bản của tồn thể nhân loại, khơng phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay
tôn giáo”.
Cũng như các tôn chỉ khác của Liên Hợp Quốc, tôn chỉ này có ý nghĩa
vơ cùng to lớn. Để bảo vệ hịa bình và an ninh thế giới thì Liên Hợp Quốc
chẳng những phải giải quyết các cuộc tranh chấp quốc tế bằng phương pháp
hịa bình, chấm dứt các hành vi xâm lược, phát triển quan hệ hữu nghị giữa
các nước mà còn phải đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế rộng rãi trên nhiều mặt.
Tính chất rộng rãi của sự hợp tác này không những biểu hiện về mặt chính trị
mà cịn biểu hiện ở chỗ cần phải hợp tác giữa các nước về mặt kinh tế, xã hội,
12


văn hóa và phải tơn trọng nhân quyền cũng như các quyền tự do cơ bản. Đó là
những điều kiện cần thiết cho việc giữ gìn hịa bình an ninh thế giới, thúc đẩy
hợp tác và phát triển giữa các quốc gia.
Xây dựng Liên Hợp Quốc thành một trung tâm điều hòa hành
động hành động của các nước
Điều 1 của Hiến chương có quy định tơn chỉ cuối cùng của Liên Hợp
Quốc là “Để đạt được mục đích chung kể trên, Liên Hợp Quốc phải là một
trung tâm điều hòa hành động của các nước”, nhằm tạo cho Liên Hợp Quốc
có vai trị quốc tế thất sự hơn Hội quốc liên, để giải quyết các vấn đề chung,
vấn đề giữa các quốc gia, làm cho lợi ích chung hơn lợi ích riêng, hạn chế tình
trạng vơ chính phủ trong quan hệ quốc tế.
Theo tôn chỉ này, Liên Hợp Quốc phải là một trung tâm quan trọng cho
tất cả mọi quốc gia có chế độ chính trị xã hội khác nhau cùng thương lượng
và hợp tác với nhau. Lẽ tất nhiên, nó cũng khơng ngăn cấm các nước hữu
quan thương lượng bên ngoài Liên Hợp Quốc để giải quyết những vấn đề xích
mích với nhau theo nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
1.2.2. Nguyên tắc hoạt động của Liên Hợp Quốc

Để thực hiện các tôn chỉ của Liên Hợp Quốc, bản Hiến chương Liên
Hợp Quốc quy định rõ ràng những nguyên tắc cơ bản mà cả tổ chức Liên Hợp
Quốc cũng như các nước thành viên phải tuân theo. Nguyên tắc này được nêu
rõ trong lời nói đầu và trong điều 2 của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Nó gồm
5 điểm chính sau:
Điểm 1. Ngun tắc chủ quyền bình đẳng giữa các nước
Lời nói đầu của Hiến chương có quy định sự bình đẳng về quyền lợi
của các nước lớn và nhỏ. Khoản 1 trong điều 2 của Hiến chương cũng nêu rõ:
“Tổ chức này(tức Liên Hợp Quốc) xây dựng trên nguyên tắc chủ quyền bình
đẳng của các nước hội viên. Điều đó có nghĩa là các nước đều có chủ quyền
một cách toàn vẹn về lãnh thổ và độc lập về chính trị của mỗi nước phải được
tơn trọng. Mỗi nước phải làm tròn nghĩa vụ quốc tế mà mình đã đảm nhận.
13


Ngun tắc này nói rõ bất luận chế độ chính trị của nước đó như thế nào, dù
lớn hay nhỏ cũng đều bình đẳng với nhau về chủ quyền”. Các nước này đều
được quyền tự chủ về đối nội và được độc lập về đối ngoại.
Điều 2. Nguyên tắc tôn trọng sự tồn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị
của các nước.
Khoản 4 trong điều 2 của Hiến chương quy định “Trong quan hệ quốc
tế của mình, các nước hội viên khơng được có hành động đe dọa hoặc dùng
vũ lực hay bất cứ phương pháp nào khác trái với tôn chỉ Liên Hợp Quốc để
xâm phạm đến sự tồn vẹn lãnh thổ và nền độc lập chính trị của mỗi nước hội
viên hoặc bất cứ nước nào khác”.
Nguyên tắc này nhằm khẳng định sự thiêng liêng của lãnh thổ, nền độc
lập dân tộc và có tác dụng ngăn chặn chiến tranh và các hành vi xâm lựợc.
Theo nguyên tắc này, tất cả những hành vi xâm phạm sự tồn vẹn lãnh thổ và
độc lập chính trị của các nước khác, như đe dọa bằng vũ lực hay can thiệp vào
công việc nội bộ của nước khác,… đều trái với tôn chỉ của Liên Hợp Quốc và

là phi pháp.
Điều 3. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ
nước nào.
Khoản 7 trong điều 2 của Hiến chương quy định: “Không được coi
rằng bản Hiến chương này ủy quyền cho Liên Hợp Quốc can thiệp vào công
việc về bản chất thuộc thẩm quyền nội bộ của một nước nào, và không bắt
buộc một nước hội viên nào đề nghị giải quyết các việc ấy theo thủ tục quy
định ở Hiến chương; nhưng nguyên tắc này không cản trở việc dùng các biện
pháp trong chương VII”.
Đây là ngun tắc quan trọng trong việc giữ gìn hịa bình và an ninh
thế giới. Nguyên tắc này xuất phát trực tiếp từ nguyên tắc chủ quyền bình
đẳng giữa các nước, giúp các thành viên tham gia và đóng góp, khơng can
thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, tức là tôn trọng chủ quyền của
nước khác.
14


Điều 4. Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp
hịa bình.
Khoản 3 trong điều 2 của Hiến chương quy định: “Các nước hội viên
phải dùng phương pháp hịa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế của mình,
để khơng làm nguy hại đến nền hịa bình, an ninh và chính nghĩa trên thế
giới”.
Đây là nguyên tắc quan trọng để ngăn ngừa chiến tranh và vạch trần
những kẻ đi xâm lược. Theo quy định của Hiến chương, Hội đồng bảo an có
trách nhiệm xúc tiến việc giải quyết tranh chấp ấy. Nếu tranh chấp đó đã trở
thành một cuộc xâm lược giữa nước này với nước kia, Hội đồng bảo an có
quyền dùng hành động của mình để chấm dứt cuộc xâm lược đó.
Điều 5. Nguyên tắc chung sống hịa bình.
Lời nói đầu của Hiến chương nêu rõ: các nước cần phải “cố gắng nhân

nhượng nhau, chung sống hòa thuận với nhau trên tinh thần thân thiện láng
giềng”. Hơn nữa, tư tưởng chung sống hịa bình này cũng đã thể hiện ngay
trong bản thân tổ chức Liên Hợp Quốc. Vì Hiến chương có quy định tất cả các
nước, không kể thuộc chế độ xã hội nào, nếu bằng lịng gìn giữ hịa bình thế
giới đều có thể trở thành hội viên của Liên Hợp Quốc. Nguyên tắc này chứng
tỏ Liên Hợp Quốc cần phải liên hợp mọi nước lớn nhỏ cùng bảo vệ hịa bình
thế giới. Chỉ có như thế, Liên Hợp Quốc mới thực hiện được mục đích cao
nhất của mình là bảo vệ hịa bình và an ninh quốc tế.
1.3. Cơ cấu tổ chức Liên Hợp Quốc.
Tổ chức Liên Hợp Quốc gồm có 6 cơ quan chính: Đại hội đồng, Hội
đồng bảo an, Hội đồng kinh tế xã hội, Tòa án quốc tế, Ban thư ký và Hội đồng
quản thác. Tuy nhiên đến nay thì vai trị của Hội đồng ủy thác đã khơng cịn
lớn như trước, hoạt động hạn chế do hầu hết các lãnh thổ quản thác đã đươc
trao trả độc lập. Ngoài ra Liên Hợp Quốc cịn 17 tổ chức chun mơn và tự
trị, 16 tổ chức kinh tế xã hội. Trụ sở chính của Liên Hợp Quốc đặt tại
NewYork (Mỹ) nhưng bộ máy hành chính nằm rải rác ở khoảng 600 địa điểm
15


trên thế giới với khoảng 160.000 nhân viên. Ngôn ngữ làm việc chính của
Liên Hợp Quốc là tiếng ẢRập, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nga và Trung Quốc.
Chức năng nhiệm vụ của 5 cơ quan chính của Liên Hợp Quốc có thể sơ lược
như sau:
Đại Hội Đồng (General Assembly- GA)
Đây là cơ quan đại diện rộng rãi nhất, bao gồm tất cả các nước thành
viên của Liên Hợp Quốc. Mỗi thành viên có đồn đại biểu 5 người và một số
lượng không hạn chế về chuyên gia và cố vấn. Mỗi thành viên có một phiếu
bầu.
Đại hội đồng có chức năng và quyền hạn như: Xem xét và kiến nghị về
ngun tắc hợp tác trong việc duy trì hịa bình và an ninh quốc tế; nghiên cứu

và đề xuất để thúc đẩy hợp tác nhằm phát triển luật pháp quốc tế, thực hiện
các quyền con người, hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, y tế…; xem xét và thông qua ngân sách Liên Hợp Quốc và
phân bổ sự đóng góp của các thành viên không thường trực của Hội đồng bảo
an, các thành viên trong Hội đồng kinh tế xã hội, bầu Tổng thư ký, thẩm phán
tòa án quốc tế.
Đại hội đồng có 7 ủy ban để thực hiện các vấn đề cụ thể:
Ủy ban 1: Về các vấn đề chính trị, an ninh bao gồm cả giải trừ quân bị
Ủy ban 2: Về các vấn đề kinh tế và tài chính.
Ủy ban 3: Về các vấn đề xã hội nhân đạo và văn hóa.
Ủy ban 4: Về các vấn đề quản thác các lãnh thổ nằm dưới sự bảo trợ
của LHQ.
Ủy ban 5: Về các vấn đề hành chính và ngân sách.
Ủy ban 6: Về các vấn đề pháp luật
Ủy ban 7: Ủy ban chính trị đặc biệt.
Theo quy định trong điều 11 khoản 2 và điều 12 khoản 1 của Hiến
chương, quyền hạn của Đại hội đồng và của Hội đồng bảo an khác nhau về
thực chất cũng như về pháp lý. Đại hội đồng có quyền thảo luận về các vấn đề
16


hịa bình thế giới, nhưng trước hoặc sau việc thảo luận việc dùng hành động
đó, Đại hội đồng phải giao lại cho HĐBA. Tức là Đại hội đồng không được
quyết định yêu cầu dùng hành động trong vấn đề đó. Nếu HĐBA không yêu
cầu, Đại hội đồng không được đưa ra đề nghị gì về các vấn đề đã được ghi
trong chương trình nghị sự của HĐBA. Vì chỉ có HĐBA mới có quyền áp
dụng hành động (như dùng hành động chính trị, kinh tế hay quân sự để châm
dứt một sự xung đột nào đó) trong việc gìn giữ hịa bình và an ninh thế giới.
Trước vấn đề như thế, Đại hội đồng chỉ có thể đưa ra những đề nghị thơng
thường. Đề nghị này chủ yếu có tác dụng về mặt cơng lý chứ khơng có hiệu

lực bắt buộc thi hành.
Mỗi năm Đại hội đồng họp một lần bắt đầu vào ngày thứ 3 của tuần
thứ 3 của tháng 9, tính từ tuần đầu tiên có ít nhất một ngày làm việc. Ngồi
khóa họp thường lệ hàng năm của Đại hội đồng, khi xét thấy cần thiết thì
HĐBA hoặc quá nửa số các nước hội viên có thể yêu cầu triệu tập cuộc họp
bất thường của Đại hội đồng.
Mỗi nước hội viên có một lá phiếu ở Đại hội đồng. Đối với các vấn đề
quan trọng như các đề án về bảo vệ hịa bình và an ninh thế giới, bầu cử
những nước ủy viên không thường trực trong HĐBA, những nước ủy viên
trong Hội đồng kinh tế xã hội, phê chuẩn những nước mới xin gia nhập Liên
Hợp Quốc hay tước bỏ quyền lợi của các nước hội viên… thì được quyết nghị
với 2/3 số các nước hội viên cố mặt tại hội nghị và có tham gia bỏ phiếu. Các
vấn đề khác có thể quyết nghị bằng quá nửa số các nước hội viên có mặt tại
hội nghị và có tham gia bỏ phiếu. Ngồi ra, không kể đến những vấn đề đã
được quy định, nếu Đại hội đồng muốn xếp thêm một vấn đề nào đó vào các
loại vấn đề quan trọng cũng chỉ cần được nửa hơn số các nước hội viên đồng
ý là có thể được thơng qua.
Hội Đồng Bảo An: (Secủity Council- SC)
Là một trong sáu cơ quan chính của Liên Hợp Quốc, Hội đồng bảo an
được thành lập nhằm duy trì hịa bình và an ninh quốc tế. Theo Điều 39 của
17


Hiến chương Liên Hợp Quốc, HĐBA là cơ quan duy nhất của Liên Hợp Quốc
có quyền quyết định đánh giá thực tại của các mối đe dọa đối với hòa bình,
phá hoại hịa bình hoặc hành động xâm lược, và sẽ khuyến nghị hoặc quyết
định các biện pháp cần được tiến hành phù hợp với các Điều 41 và 42, để duy
trì hoặc khơi phục hịa bình và an ninh quốc tế. Trong khi thực hiện chức năng
này, HĐBA được coi là hành động với tư cách thay mặt cho tất cả các thành
viên Liên Hợp Quốc. Trên thực tế, những chức năng mà HĐBA được trao có

thể được coi là nhằm 3 mục tiêu: gìn giữ hịa bình, vãn hồi hịa bình và kiến
tạo hịa bình.
HĐBA có 15 thành viên: 5 ủy viên thương trực là các thành viên cố
định trong HĐBA và có quyền phủ quyết (đó là: Mỹ, Anh, Pháp, Nga và
Trung Quốc) và 10 ủy viên khơng thường trực được các nước cịn lại trong
Liên Hợp Quốc bầu chọn và làm việc trong nhiệm kỳ 2 năm, luân phiên theo
khu vực địa lý.
Hội đồng kinh tế xã hội (Economic and Social Council- ECOSOC):
Đây là một trong những cơ quan chính của Liên Hợp Quốc có nhiệm
vụ nghiên cứu báo cáo và xúc tiến việc hợp tác quốc tế về các mặt kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục, y tế và các vấn đề tương tự khác nhằm nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần của các dân tộc trên thế giới.
Hội đồng kinh tế có 5 ủy ban khu vực và 17 ủy ban và tiểu ban thường
trực giúp việc. Thành phần trong Hội đồng kinh tế xã hội gồm có 18 nước hội
viên Liên Hợp Quốc do Đại hội đồng bầu ra. Nhiệm kỳ của các nước ủy viên
là 3 năm. Mỗi năm bầu lại 6 nước. Hội đồng kinh tế xã hội mỗi năm họp 2
lần. Những nước đã hết nhiệm kỳ có thể được bầu lại.
Tịa án quốc tế:
Đây là cơ quan tư pháp chính của Liên Hợp Quốc có nhiệm vụ giải
quyết những tranh chấp giữa các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong tòa
án quốc tế có 15 thành viên thẩm phán. Những người này do Đại hội đồng và
HĐBA tuần tự bầu ra theo danh sách ứng cử viên thống nhất. Người ứng cử
18


phải được đa số phiếu tuyệt đối ở Đại hội đồng cũng như HĐBA mới được
trúng cử. Nhiệm kỳ của thẩm phán là 9 năm.
Việc tổ chức quyền hạn và thủ tục cơng tác của Tịa án quốc tế đều
được quy định tỉ mỉ trong “Quy ước của tòa án quốc tế”. Quy ước này là một
bộ phận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Ngoài việc xét xử những vụ tố tụng quốc tế bằng tư pháp, tòa án quốc
tế còn có trách nhiệm phát biểu những ý kiến tư vấn đối với các vấn đề pháp
luật đã được giao cho nghiên cứu. Hiến chương cũng quy định Đại hội đồng
hay HĐBA có thể nhờ tịa án quốc tế góp ý kiến trong phạm vi tư vấn đối với
bất cứ vấn đề nào thuộc luật pháp. Những bản án xét xử bằng tư pháp và
những ý kiến tư vấn của tòa án quốc tế đều phải là ý kiến chung của q nửa
số các thẩm phán có mặt tại phiên tịa hay phiên họp. Trong trường hợp có số
phiếu ngang nhau đối với hai ý kiến khác nhau thì chủ tịch hoặc quyền chủ
tịch bỏ phiếu quyết định.
Ban thư ký:
Ban thư ký là cơ quan hành chính- tổ chức của Liên Hợp Quốc, đặc
biệt có trách nhiệm giúp cho việc hồn thành những nghị quyết mà Liên Hợp
Quốc thông qua, bảo đảm việc đăng lục và công bố các hiệp ước quốc tế, xuất
bản các văn kiện của Liên Hợp Quốc.
Đứng đầu ban thư ký là Tổng thư ký do Đại hội đồng bổ nhiệm theo
kiến nghị của HĐBA, nhiệm kỳ là 5 năm, hết nhiệm kỳ có thể được bổ nhiệm
lại theo thủ tục quy định trong Hiến chương. Các cán bộ nhân viên trong Ban
thư ký đều do Tổng thư ký bổ nhiệm.
Ngoài nhiệm vụ lãnh đạo ban thư ký và làm báo cáo hàng năm lên Đại
hội đồng về sự hoạt động của Liên Hợp Quốc, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
cịn có thể u cầu HĐBA chú ý đến những vấn đề mà ơng xét thấy có nguy
hại đến hào bình và an ninh thế giới. Tổng thư ký cũng thi hành những nhiệm
vụ khác mà các tổ chức chính của Liên Hợp Quốc như Đại hội đồng,

19


HĐBA… đã giao cho. Tổng thư ký và các nhân viên trong ban thư ký đều
phải chịu trách nhiệm trước Liên Hợp Quốc.


20


CHƯƠNG 2:
VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC SAU CHIẾN TRANH LẠNH
2.1 Khái quát tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh
Chiến tranh lạnh là một cuộc đối đầu về ý thức hệ, kinh tế và địa chính
trị giữa hai phe Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa sau Thế chiến thứ hai.
Đây có lẽ là cuộc chiến trang lạnh được nhiều người biết đến trong lịch sử của
thế kỷ 20. Bản chất chung của cuộc chiến là sự mâu thuẫn giữa Mỹ và Liên
bang Xô Viết những năm sau chiến tranh của Thế chiến thứ hai. Sau khi trật
tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có rất nhiều chuyển biến sâu sắc.
Trước hết, đó là thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy
nhiên đây mới chỉ là thời kỳ quá độ. Các học giả Trung Quốc gọi đó là trạng
thái “một siêu cường, nhiều cường quốc”. Mặc dù có những cách khái quát
khác nhau nhưng nhìn chung các ý kiến đều thống nhất ở chỗ là Mỹ hiện là
cường quốc vượt trội, là cường quốc duy nhất có khả năng ảnh hưởng ở cấp
độ toàn cầu. Trật tự thế giới trong tương lai sẽ phát triển theo xu thế là tiến tới
một hệ thống đa cực, cân bằng về sức mạnh. Bên cạnh đó, các vấn đề tồn cầu
đang nổi lên, địi hỏi phải có sự hợp tác giữa các nước; vì có lợi ích đan cài
nên các nước, đặc biệt là giữa các nước lớn vừa hợp tác vừa đấu tranh với
nhau. Các nước vừa và nhỏ cố gắng thi hành chính sách đối ngoại độc lập, tự
chủ hơn. Các quốc gia có xu hướng liên kết với nhau trên từng vấn đề, dựa
trên cơ sở lợi ích tương đồng, coi trọng cải thiện và phát triển quan hệ với các
nước láng giềng.
Cuộc chiến tranh lạnh đã cho các nước bài học sâu sắc trong việc phát
triển kinh tế. Đồng thời, chiến tranh lạnh cũng chia đôi thế giới thành hai thị
trường lớn gần như biệt lập nhau: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Việc
các cường quốc tăng cường chạy đua vũ trang đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế nói chung và cuộc sống của nhân dân các nước này nói riêng. Trong

khi đó, một số nước vì lý do chủ quan hoặc khách quan, lấy chiến lược cạnh
21


tranh và phát triển kinh tế làm chính, đã thu được những thành tựu to lớn như
Nhật Bản, các nước NICs… Vì vậy, sau chiến tranh lạnh tất cả các quốc gia
đều tiến hành điều chỉnh chiến lược phát triển, hướng vào lĩnh vực kinh tế.
Thực tế cho thấy không phải tiềm lực quân sự mà nền kinh tế phồn vinh mới
chính là sức mạnh của mỗi quốc gia. Từ đó, những hoạt động kinh tế khơng
cịn giới hạn trong thị trường truyền thống mà nó ngày càng được mở rộng
trên qui mơ tồn cầu. Một thị trường thế giới, một nền kinh tế toàn cầu dần
dần xuất hiện. Kinh tế phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, mang lại những
thay đổi có lợi cho các nước tư bản phát triển. Đồng thời khoa học cơng nghệ
có bước đột phá, càng thúc đẩy q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa. Đó cũng
là cơ sở thúc đẩy cơng cuộc tồn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ sau chiến
tranh lạnh. Nói một cách khác, tồn cầu hóa kinh tế chính là mặt chủ yếu của
cơng cuộc tồn cầu hóa hiện nay mà thành quả của nó là sự ra đời của WTO
(1/1/1995). Nhân tố kinh tế có vị trí và tác dụng ngày càng lớn trong việc giao
dịch quốc tế. Vì vậy, các nước đều tích cực điều chỉnh quan hệ với các nước
khác để xây dựng một trật tự kinh tế có lợi cho mình. Lợi ích kinh tế là động
lực chính cho quan hệ song phương và đa phương, là nhân tố thúc đẩy hợp tác
và đấu tranh. Quan hệ quốc tế nhờ đó mà năng động linh hoạt hơn.
Sau chiến tranh lạnh, trong bối cảnh của sự hịa dịu, một loạt các điểm
nóng trên thế giới bắt đầu được hạ nhiệt. Trước hết là ở những khu vực được
coi là đối đầu căng thẳng nhất giữa Liên Xô và Mỹ. Vào thời kỳ chiến tranh
lạnh, khu vực Trung Đông luôn trong trạng thái không ổn định. Những cuộc
chiến tranh đẫm máu đã xảy ra mà nguyên nhân chính là sự đối đầu giữa hai
cực Xơ- Mỹ và hai khối Đông- Tây. Nhưng dần dần dấu hiệu hịa dịu đã xuất
hiện. Tiến trình hịa bình đi được những bước đầu tiên sau khi các nước ngày
càng nhận thức được rằng: chiến tranh không phải là biện pháp hữu hiệu để

giải quyết vấn đề.
Bên cạnh đó, sau chiến tranh lạnh cũng xuất hiện các mâu thuẫn mới
làm nảy sinh nhưng nguy cơ mới, như mâu thuẫn giữa phương Tây với thế
22


giới Hồi giáo, mâu thuẫn giữa các nền văn minh, xuất hiện nguy cơ khủng bố.
Những cuộc đụng độ, xung đột, bạo lực và căng thẳng diễn ra ở mức độ khác
nhau ở một số khu vực. Các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp tài
nguyên… bùng lên dữ dội.
2.2 Vai trò của Liên Hợp Quốc sau chiến tranh lạnh
Trong chiến tranh lạnh, Liên Hợp Quốc đơn giản là diễn đàn để các
nước lớn, nhất là Mỹ và Liên Xơ cơng kích nhau. Sự tham gia của Mỹ vào tổ
chức này nhằm đảm bảo cho tổ chức này mạnh mẽ hơn, nhưng sự tham gia đó
cũng là một phần trong việc thiết kế về mặt tổ chức. Liên Hợp Quốc đã khơng
có được tầm cỡ như trong viễn cảnh ban đầu của nó là do chiến tranh lạnh và
ưu tiên tiếp theo là những toan tính về quyền lực. Ngay từ trước khi Hiến
chương Liên Hợp Quốc được ký kết, căng thẳng Xô- Mỹ về tương lai của Ba
Lan và những quốc gia Đông Âu khác đã lên cao. Rõ ràng là, thay vì là một
thể chế thống nhất, Liên Hợp Quốc trong thời gian này đã trở thành một diễn
đàn cho cuộc ganh đua giữa Mỹ và Liên Xô cũng như đồng minh của hai siêu
cường này. Họ có quan điểm khác nhau về việc ai sẽ là Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc, rồi là việc nước nào sẽ tham gia vào Đại hội đồng. Cả Mỹ và Liên Xô
đều dùng lá phiếu phủ quyết nhiều tới mức mà Hội Đồng Bảo An gần như tê
liệt.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, vai tò và tác dụng của LHQ ngày
càng giảm xuống. Mặc dù vẫn là tổ chức quốc tế quan trọng nhất, nhưng Liên
Hợp Quốc đang ngày càng trở nên hữu danh vô thực. Ra đừi và thay thế Hội
quốc liên từ tháng 10/1945, với mục tiêu chủ yếu là duy trì hịa bình và an
ninh quốc tế, hợp tác để phát triển kinh tế xã hội của các dân tộc trên thế giới,

tạo điều kiện cho việc giải trừ vũ khí, giảm thiểu ngân sách qn sự…Tóm
lai, Liên Hợp Quốc là một cơng cụ quan trọng để cộng đồng quốc tế điều
hành công việc thế giới. Nhưng những năm qua, điểm lại hoạt động của Liên
Hợp Quốc, nhất là 2 thập niên gần đây thì thất vọng chỉ trích nhiều hơn là hài
lịng. Liên Hợp Quốc ngày càng cho thấy rõ vai trò bất lực của mình trong vai
23


trị duy trì hịa bình như ở Angola, Xơmali hay ở Nam tư cũ. Thất bại trong
nhiệm vụ của mình là đối phó với các cuộc khủng hoảng trên thế giới. Liên
Hợp Quốc cũng khơng đưa ra được một chính sách nào để phòng ngừa đối
với các cuộc tranh chấp đang nhen nhúm như ở Angiêri, Bắc Phi hay ở
Brundi. Còn những cuộc tranh chấp đang trên đà giải quyết như ở Trung
Đơng hay Bắc Ai-len thì Liên Hợp Quốc gần như hoàn toàn vắng mặt. Trong
những vấn đề khác như mở rộng khối NATO hay các chính sách ở Đông Nam
Á, hay liên quan đến Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân thì Liên Hợp
Quốc cũng chỉ có một vai trị thứ yếu. Đứng về mặt thống kê, về mặt con số
thì Liên Hợp Quốc có mặt ở mọi nơi vá ai cũng thấy sự can thiệp của Liên
Hợp Quốc. Nhưng về mặt chính trị thì khác, vì phải thấy là các cuộc khủng
hoảng rốt cuộc thường được giải quyết mà khơng có những tiếng nói của Liên
Hợp Quốc.
Tuy nhiên, Liên Hợp Quốc đã và đang cố gắng điều chỉnh cơ cấu và
hoạt động của mình nhằm phát huy tác dụng hơn nữa. Tại Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc mỗi năm khai mạc một lần, đại biểu của các nước đều tích cực đưa
ra các sáng kiến, đề xuất những yêu cầu và đồng thời phát biểu ý kiến đối với
những vấn đề trọng đại trên thế giới. Những chương trình thảo luận và những
quyết nghị của đại hội mặc dù khơng mang tính cưỡng chế, nhưng nó cũng
hình thành một sức mạnh to lớn về mặt đạo lý, có ảnh hưởng tích cực đối với
trật tự trên thế giới.
Trong việc gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tế Liên Hợp Quốc đã góp

phần giải quyết nhiều điểm nóng xung đột ở các châu lục trên thế giới, góp
phần gìn giữ hịa bình và an ninh thế giới. Bên cạnh đó, HĐBA Liên Hợp
Quốc cũng thường xuyên mở những phiên họp để thảo luận và nghiên cứu
việc ngăn chặn những cuộc xung đột ở các nơi trên thé giới, cố gắng thúc đẩy
những điểm nóng đó cùng ngồi lại để có thể tìm ra biện pháp nhằm giải quyết
mâu thuẫn. Trong vòng 50 năm qua, Liên Hợp Quốc đã xúc tiến hồn thành
172 hiệp định hịa bình, phái đội duy trì hịa bình với tư cách là người thứ ba
24


để đảm bảo khách quan công bằng, tạo nên vùng đệm giữa hai đối phương
đang xung đột. Liên Hợp Quốc đã thành lập 49 lực lượng hoạt động gìn giữ
hịa bình ở khắp các châu lục Á, Âu, Mỹ La Tinh, Châu Phi. Liên Hợp Quốc
đã góp phần đạt được gần 200 giải pháp hịa bình thơng qua thương lượng
chấm dứt các xung đột khu vực (như Nammibia, Cônggô, Ănggôla,
Môdămbich, Campuchia, Đơng Timo…). Hiện tại cũng có hàng chục ngàn
binh lính và cảnh sát dân sự của 111 nước tham gia vào hoạt động gìn giữ hịa
bình ở hơn 17 điểm nóng trên khắp thế giới. Đã có hàng ngàn nhân viên giữ
gìn hịa bình của Liên Hợp Quốc đổ máu để duy trì cho cuộc sống bình yên
của nhiều dân tộc trên thế giới. Liên Hợp Quốc cũng đã chi hàng chục tỉ đơla
cho hoạt động gìn giữ hịa bình và an ninh thế giới, tạo ra sức mạnh cộng
đồng quốc tế ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, đấu tranh địi cắt giảm và
giải trừ qn bị.
Ngồi ra, Liên Hợp Quốc còn tham gia giải quyết xung đột như: yêu
cầu ngừng bắn, thực hiện giám sát, hòa giải, lập ra các ủy ban điều tra, môi
giới trung gian và trực tiếp đề ra giải pháp. Năm 1991, tại khóa họp lần thứ 46
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã quyết định cử ra một điều phối viên chuyên
lo về các cuộc bầu cử, giúp cho LHQ có những bước đột phá mới trong trong
lĩnh vực viện trợ bầu cử đối với các nước hội viên. Về mặt tài giảm quân bị,
tháng 1 năm 1946 Liên Hợp Quốc đã thơng qua nghị quyết đầu tiên có liên

quan đến việc sử dụng hịa bình ngun tử năng lượng và hủy bỏ vũ khí
nguyên tử cũng như các loại vũ khí có sức hủy diệt khác. Ủy ban tài qn của
Liên Hợp Quốc đã thương thảo đối với các vấn đề khống chế những loại vũ
khí nguy hiểm, lần lượt đề xuất và thông qua điều ước ngăn cấm một phần
việc thí nghiệm hạt nhân (1963); điều ước khơng phổ biến rộng vũ khí hạt
nhân (năm 1970) và đến năm 1995 lại quyết định điều ước này có giá tri mãi
mãi; điều ước ngăn cấm đặt vũ khí hạt nhân dưới đáy biển (năm 1971); điều
ước ngăn cấm vũ khí sinh vật (năm 1972), v.v… Về phương diện phi thực dân
hóa, Liên Hợp Quốc đã có những thành tích to lớn. Năm 1960, Đại hội đồng
25


×