Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Môn CHÍNH SÁCH đối NGOẠI một số nước lớn, chinh sach doi ngoai anh voi viet nam va thuc trang quan he anh viet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.4 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI MỘT SỐ NƯỚC
Đề tài:

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VƯƠNG QUỐC ANH VỚI VIỆT
NAM VÀ THỰC TRẠNG QUAN HỆ ANH-VIỆT


Mục lục
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài...........................................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài.......................................................................4
3. Kết cấu đề tài...........................................................................................4
I. KHÁI QUÁT CHUNG:...............................................................................6
1.1. Khái quát chung về Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen..............6
1.1.1. Đôi nét về Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen:......................6
1.1.2. Nền ngoại giao Anh quốc hiện đại..................................................7
II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH VỚI VIỆT NAM VÀ THỰC
TRẠNG QUAN HỆ ANH- VIỆT...................................................................9
2.1. Chính sách đối ngoại Anh hiện nay với khu vực châu Á nói chung và
Việt Nam nói riêng....................................................................................9
2.2. Lịch sử quan hệ chính trị Anh- Việt.................................................10
2.3. Quan hệ kinh tế- thương mại Anh- Việt...........................................13
2.4. Quan hệ giáo dục- văn hóa Anh- Việt..............................................17
2.5. Các lĩnh vực hợp tác khác................................................................18
2.6. Hợp tác 2 bên tại Thành phố Đà Nẵng.............................................20
2.7. Hợp tác qua kênh đối ngoại nhân dân..............................................22
III. ĐÁNH GIÁ VÀ DỰ ĐOÁN QUAN HỆ TRONG TƯƠNG LAI........25
KẾT LUẬN....................................................................................................30
Tài liệu tham khảo.........................................................................................31


2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với mục tiêu “hội nhập sâu rộng, mở rộng quan hệ, sẵn sàng làm bạn,
làm đối tác với tất cả các quốc gia trên thế giới”, việc nghiên cứu chính sách
đối ngoại và dự đốn định hướng chính trị của một quốc gia là điều rất quan
trọng đối với Việt Nam, đặc biệt các chính sách của các nước lớn càng cần
được quan tâm.
Anh là một trong những cường quốc trên thế giới về cả kinh tế,chính trị
lẫn văn hóa. Ngồi ra Anh cịn có ảnh hưởng lớn mạnh trong EU và là một
đồng minh tin cậy lâu dài của Mỹ.
“Biết người biết ta trăm trận trăm thắng”- theo bài học lịch sử của ông cha
ta, Việt Nam đang nỗ lực không ngừng để xây dựng một mối quan hệ hữu
nghị, hòa bình và tốt đẹp với tất cả quốc gia, trong đó có Vương quốc Anh.
Để làm được điều đó, cần tìm hiểu chính sách đối ngoại Anh để có thể điều
chỉnh kịp thời và hợp lý chính sách của ta, từ đó tạo dựng điều kiện thuận lợi
nhất cho hai bên thắt chặt mối quan hệ.
Quan hệ Việt- Anh hiện nay đã trở thành mối quan hệ chiến lược với nhiều
thành tựu lớn trong tất cả các lĩnh vực. Tuy vậy, khơng thể khơng có những
hạn chế.
Đề tài này được viết với mục tiêu chính là xem xét chính sách đối ngoại
của Anh với Việt Nam trong bối cảnh quan hệ của Anh với tất cả các nước để
đánh giá đúng đắn tầm quan trọng và vị trí mối quan hệ Anh- Việt. Từ đó, dự
đốn tương lai mối quan hệ này.
Với mục tiêu trên, bài viết đi sâu vào việc phân tích chính sách cũng như
những thành tựu đạt được giữa 2 nước trên cả kênh ngoại giao nhà nước và
đối ngoại nhân dân, qua đó, đánh giá thực chất mối quan hệ Anh- Việt. Người
viết mong rằng những đánh giá trong bài sẽ đóng góp phần nào cho nền ngoại

giao nước nhà.
3


2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài
Mục đích:
 Giới thiệu về nước Anh và nền ngoại giao Anh Quốc
 Phân tích chính sách đối ngoại Anh với châu Á nói chung và Việt Nam
nói riêng
 Nêu ra những thành tựu đạt được trong lịch sử quan hệ hai nước trong
tất cả lĩnh vực: chính trị; kinh tế- thương mại; giáo dục; an ninh- quốc
phịng; y tế; du lịch
 Phân tích sự hợp tác ở quy mô địa phương- cụ thể là thành phố Đà
Nẵng
 Vạch ra những hoạt động tiêu biểu qua kênh đối ngoại nhân dân
 Đánh giá đặc trưng và thực trạng quan hệ Anh- Việt
 Dự đoán mối quan hệ trong tương lai
Nhiệm vụ:
Người viết cần nghiên cứu, tham khảo các tài liệu có liên quan qua các
phương tiện thông tin đại chúng, tại thư viện các trường Đại học và Hội đồng
Anh… để có kiến thức và tư liệu tương đối về nước Anh, nền ngoại giao Anh
quốc và quan hệ giữa 2 quốc gia.
3. Kết cấu đề tài
Đề tài được chia làm 3 phần:
 Phần I: Khái quát chung về nước Anh và nền Ngoại giao Anh Quốc
 Phần II: Chính sách đối ngoại của Anh với Việt Nam và quan hệ AnhViệt
Trong phần này, bên cạnh việc phân tích chính sách đối ngoại của Anh với
Việt Nam và nêu ra những thành công trong quan hệ toàn diện giữa 2 quốc
gia, người viết sẽ phân tích thêm những hợp tác riêng tại Thành phố Đà
Nẵng và qua kênh đối ngoại nhân dân.

 Phần III: Đánh giá và dự đoán mối quan hệ trong tương lai

4


I. KHÁI QUÁT CHUNG:
1.1. Đôi nét về Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen:
Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (United Kingdom of Great
Britain and Northern Ireland, tên gọi ngắn là United Kingdom, viết tắt là UK)
là một quốc gia nằm ở phía tây bắc châu Âu, nằm giữa Bắc Đại Tây Dương và
Biển Bắc. Vương quốc Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (gọi tắt là
Vương quốc Anh hoặc Anh) bao gồm 4 phần chính là Anh (England),
Scotland, Wales và Bắc Ai-len. Ngồi ra cịn bao gồm một số hòn đảo và
quần đảo khác tại nhiều nơi trên thế giới. Vương quốc này có chung đường
biên giới với Cộng hịa Ireland.
Thủ đơ của Vương quốc Anh (gọi tắt là Anh) là Luân-đôn và quốc khánh
là 11/6 (kỷ niệm ngày sinh Nữ hoàng Elizabeth II). Với diện tích 243.610
km2 và dân số 63.047.162 người (2011), Anh là nước đông dân thứ 22 trên
thế giới và thứ 3 trong EU (sau Đức và Pháp). Tỉ lệ các dân tộc ở Anh: Anh
83,6%; Scotland 8,6%; xứ Wales 4,9%; Bắc Ai-len 2,9%; da màu 2% và Ấn
Độ 1,8%. Tỉ lệ người theo tôn giáo ở Anh: 71,6% Thiên Chúa giáo, 2,7% Hồi
giáo, Ấn Độ giáo1%, cịn lại khơng theo tơn giáo nào. Ngơn ngữ chính là
tiếng Anh, ngồi ra có các tiếng địa phương như tiếng Scottish, tiếng Welsh,
tiếng Ai-len và tiếng Cornish.
Vương quốc Anh theo chế độ quân chủ lập hiến, có hệ thống luật pháp
theo mơ hình Luật án lệ và khơng có hiến pháp thành văn (chỉ có Bộ luật
mang tính Hiến pháp). Trong đó, Nữ hồng là Nguyên thủ quốc gia, đứng đầu
Cơ quan Lập pháp và Hành pháp. Nữ hoàng bổ nhiệm Thủ tướng và ký phê
duyệt tất cả các điều luật. Tuy vậy, trên thực chất, Hồng gia Anh có vai trị
chính thức chủ yếu về mặt nghi lễ. Quốc hội Anh gồm Thượng viện và Hạ

viện với nhiệm kỳ 5 năm. Quyền Hành pháp do Thủ tướng và các Bộ trưởng
nội các đảm nhận. Hiện tại Anh có tất cả 46 Bộ, 23 cơ quan ngang Bộ và hơn
300 cơ quan, văn phòng của Chính phủ; 122 Bộ trưởng ở Anh, kể cả Thủ
tướng (2014). Thủ tướng hiện tại của Anh là ông David Cameron.
5


Thương mại của Anh đứng thứ 6 thế giới với xuất khẩu 405 tỷ USD và
nhập khẩu đạt 546 tỷ USD (2010). Thương mại có vai trị quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân (xuất khẩu chiếm khoảng 20% GDP). Thị trường chủ
yếu của Anh là EU, chiếm 53% tổng xuất khẩu và 52% tổng nhập khẩu của
Vương quốc.
Văn hóa Anh hiện nay được định hình bởi các cộng đồng dân tộc, các nền
văn hóa và các nhóm xã hội khác nhau từ xa xưa. Lịch biểu các sự kiện hàng
năm ở Vương quốc Anh ln đặc kín với những lễ hội văn hóa, xã hội và tơn
giáo, phản ánh đời sống của nước Anh đa văn hóa. Tuy đa dạng và nổi tiếng
nhưng văn hóa Anh chưa có sự đặc sắc thật sự riêng biệt để tạo bản sắc dân
tộc vì vẫn cịn hịa lẫn với nền văn hóa chung của châu Âu và phương Tây.
1.2. Nền ngoại giao Anh quốc hiện đại
Anh là một trong những cường quốc thế giới với vị thế kinh tế và chính trị
vững chắc. Nền ngoại giao Anh quốc hiện đại tuy không quá nổi trội trong
những vấn đề quốc tế như Nga hay Mỹ nhưng không thể phủ định tầm quan
trọng của nước Anh trong địa chính trị thế giới xưa và nay. Tính đến nay, Anh
là một trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên hợp
quốc; là một thành viên quan trọng của EU; là một trong những nước sáng lập
G7, G8, G20, NATO, OECD, WTO… và Khối thịnh vượng chung (The
Commonweath of Nations).
Trong quá khứ, Anh là nước có nhiều thuộc địa nhất. Đến bây giờ, Anh
vẫn có ảnh hưởng lớn đến các nước thuộc địa cũ. Khối liên hiệp Vương quốc
Anh và các quốc gia độc lập- hay còn gọi là Khối thịnh vượng chung là minh

chứng rõ ràng cho điều này. Khối thịnh vượng chung, bao gồm 53 quốc gia
độc lập đến từ nhiều châu lục trên thế giới- trước đây từng là thuộc địa của
Anh, hợp tác vì lợi ích chung, với mục tiêu thúc đẩy phát triển, dân chủ, nhân
quyền trên thế giới. Nước Anh tuyên bố: “Những hoạt động mà Vương quốc
Anh tiến hành trong Khối thịnh vượng chung rất quan trọng, góp phần cho
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, một thỏa thuận của tất
cả các nước trên thế giới và các tổ chức phát triển hàng đầu để giúp các cá
6


nhân nghèo nhất thế giới.” Tuy vậy, đối với Anh, Khối thịnh vượng chung
khơng chỉ là một nhóm các nước hoạt động vì dân chủ, nhân quyền thế giới.
Duy trì sự ảnh hưởng của mình đối với các quốc gia này là một trong những
nhiệm vụ quan trọng giúp Anh duy trì được vị trí chính trị trên trường quốc tế.
Một hướng đi lâu dài và chiến lược của chính sách đối ngoại Anh quốc là
giữ vững quan hệ với Mỹ. Anh nhận thấy mình khơng có triển vọng phát triển
trong thế giới hiện đại, vì vậy, thay vì theo đuổi lợi ích riêng, Anh phối hợp
chặt chẽ với các cường quốc và các khối liên minh khác, mà cụ thể là EU và
Mỹ. Anh chủ trương thúc đẩy châu Âu trở thành một đối tác đáng tin cậy của
Mỹ trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, mà chủ yếu là về các thách thức
an ninh. Quan hệ xuyên Đại Tây Dương của Anh- Mỹ thể hiện qua sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế, các giá trị dân chủ và những lợi ích an ninh chung.
Liên minh Anh- Mỹ ln được chính phủ Anh đánh giá cao, được xem là
“Liên minh của các giá trị”. Hướng đi này trong chính sách đối ngoại của Anh
đã được duy trì và đẩy mạnh qua nhiều thập kỷ, từ quan hệ đồng minh chống
phát xít trong Chiến tranh thế giới II, sau Chiến tranh lạnh đến cuộc Chiến
tranh Irắc hay trong vấn đề hạt nhân của Iran, Anh luôn ủng hộ chính sách của
Mỹ một cách tích cực.
Bên cạnh việc coi trọng quan hệ với Mỹ, Anh cịn đóng vai trò là cầu nối
giữa Mỹ và EU. Chủ trương này là một cách tốt để đề cao lợi ích riêng của

Anh trong EU. Đối với Anh, EU là một “hòn đá tảng” trong chính sách đối
ngoại. Cựu Thủ tướng Anh Tony Blair coi “cả hai liên minh đều là nguồn
sống đối với ảnh hưởng và sức mạnh của Anh trong cộng đồng tồn cầu”. Anh
ln tăng cường và thắt chặt mối quan hệ của mình với các nước EU thơng
qua kinh tế, thương mại nhằm tăng sự ảnh hưởng của mình trong phạm vi khu
vực châu Âu. Tuy vậy, Anh vẫn khơng sử dụng đồng tiền chung Euro và có
một số nghi vấn về việc Anh sẽ rời EU. Nguyên nhân là do những bất đồng
gần đây của Anh đối với EU trong một số chính sách.
Đối với các nước khác, Anh tuyên bố “Chính phủ Anh hoạt động cho lợi
ích quốc tế của nước Anh và hợp tác với các quốc gia khác nhằm giải quyết
7


các vấn đề chung có liên quan như thương mại, biến đổi khí hậu, an ninh hay
phát triển kinh tế”.
Với các nước lớn, như Ấn Độ, Nga, Nhật Bản hay Trung Quốc, Anh ln
thực hiện chính sách vừa tăng cường hợp tác vừa cảnh giác trước vai trò và
ảnh hưởng của các quốc gia này trên thế giới.
Với khu vực châu Phi nói riêng, Anh cho rằng giải quyết xung đột ở khu
vực này là nhiệm vụ sống còn để tháo gỡ những bế tắc về kinh tế- chính trị
của nó; Anh coi châu Phi là trọng tâm trong việc đảm bảo lợi ích sự thịnh
vượng được chia sẻ một cách cơng bằng và rộng rãi.
II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH VỚI VIỆT NAM VÀ THỰC
TRẠNG QUAN HỆ ANH- VIỆT
2.1. Chính sách đối ngoại Anh hiện nay với khu vực châu Á nói chung
và Việt Nam nói riêng
Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, có thể khẳng định, khơng phải là
trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Anh. Như đã nói ở trên, Châu Âu và
Mỹ mới là “hòn đá tảng” đã được xác định lâu dài. Tuy nhiên, vậy khơng có
nghĩa khu vực Châu Á khơng có vị trí quan trọng đối với “xứ sở sương mù”.

Châu Á hiện đại là nơi nổi lên những quốc gia mạnh về kinh tế lẫn quân sự
tiêu biểu như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ… Đây là những đối thủ cần phải
dè chừng đối với Anh và kể cả với các cường quốc khác. Anh thực hiện chính
sách đối ngoại “hợp tác cùng có lợi” đối với các nước lớn trong khu vực này.
Tuy không phải là đối tác quan trọng hàng đầu về thương mại hay liên minh
quân sự như Mỹ nhưng Anh cũng có khá nhiều hoạt động nhằm giữ vững
quan hệ với các nước này, đặc biệt là Ấn Độ- một thành viên quan trọng trong
Khối thịnh vượng chung.
Sự nổi lên mạnh mẽ và bành trướng một cách nhanh chóng của Trung
Quốc ở Biển Đơng là một mối quan ngại lớn với Anh. Song song với việc
giao lưu hợp tác, Anh vẫn luôn cảnh giác và cố gắng hạn chế sự nổi dậy mạnh
hơn của Trung Quốc.

8


Bên cạnh đó, những quốc gia phát triển như Singapore, Malaysia, Thái
Lan, Ả Rập hay những quốc gia đang phát triển với như Philippines hay Việt
Nam cũng là mục tiêu cần chú ý quan tâm. Cùng với chiến lược xoay trục của
Mỹ, Anh- một đồng minh thân thiết của Mỹ cũng tăng cường vai trị của mình
thơng qua quan hệ hợp tác với các nước châu Á, trong đó có ASEAN và Việt
Nam. Nổi bật hơn cả ở khu vực châu Á là hợp tác về lĩnh vực giáo dục và
nhân quyền, dân chủ. Ngồi ra cịn có các hợp tác về kinh tế, thương mại hay
quân sự.
Việt Nam tuy khơng phải là một cường quốc nhưng lại có vị trí địa chiến
lược vơ cùng quan trọng trong khu vực Đơng Nam Á. Vì thế, Anh khơng thể
khơng quan tâm đến Việt Nam. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thống
nhất đất nước, quan hệ giữa hai nước đã được thắt chặt hơn qua hàng loạt
chuyến thăm cấp cao giữa 2 quốc gia và các ký kết hợp tác trên nhiều lĩnh
vực. Năm 2010- đánh dấu 40 năm quan hệ 2 nước cũng là thời điểm quan hệ

giữa 2 bên phát triển hơn bao giờ hết. Anh đã nâng tầm “quan hệ đối tác vì sự
phát triển” với Việt Nam lên thành “quan hệ đối tác chiến lược”. Đây là một
bước đi quan trọng, khẳng định sự quan tâm của Anh đối với Việt Nam nói
riêng và với khu vực châu Á nói chung. Anh ln có nhu cầu củng cố vai trị
và vị trí của mình tại các khu vực có thuộc địa cũ, vì thế việc Anh luôn thúc
đẩy quan hệ quốc gia ở khu vực này là điều dễ hiểu
2.2. Quan hệ chính trị Anh- Việt
Việt Nam và Anh thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ ngày 11/9/1973.
Tuy nhiên, quan hệ hai nước chỉ thực sự phát triển thực chất từ giữa thập kỷ
90. Hợp tác đầu tiên giữa hai nước là giải quyết vấn đề hồi hương người Việt
Nam ra đi bất hợp pháp từ các trại tị nạn ở Hồng Kông.
Chuyến thăm chính thức Anh của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tháng
5/2004 và của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An tháng 3/2005 đánh dấu một
mốc phát triển quan trọng trong quan hệ hai nước. Tháng 3/2007, lần đầu tiên
Thủ tướng Anh Tony Blair đã cử Đặc phái viên Thủ tướng, Thượng Nghị sỹ
9


Charles Powell, sang Việt Nam trao thư của Thủ tướng Anh cho Thủ tướng
Việt Nam, trong thư nêu bật sự hài lịng của phía Anh về sự phát triển tốt đẹp
cũng như mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ Anh và Việt Nam trong
thời gian tới.
Tháng 3/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Anh theo
lời mời của Thủ tướng Gordon Brown, trong bối cảnh quan hệ hai nước đang
phát triển nhanh chóng đồng thời là năm diễn ra sự kiên quan trọng kỷ niệm
35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong chuyến thăm, hai
Thủ tướng đã ra Tuyên bố chung khẳng định thúc đẩy quan hệ hai nước đi vào
chiều sâu, hiệu quả và ổn định theo hướng “Quan hệ Đối tác vì sự phát
triển” dựa trên 5 trụ cột chính: chính trị-ngoại giao, thương mại-đầu tư, hợp
tác phát triển, giáo dục-đào tạo và di cư và chống tội phạm có tổ chức.

Ngày 13/1/2009, Việt Nam và Anh tiến hành Tham vấn chính trị cấp Thứ
trưởng Ngoại giao lần đầu tiên. Hai bên đã ký MOU về hợp tác Việt Nam Anh đến năm 2013, đề ra các mục tiêu và biện pháp cụ thể tăng cường hợp tác
trong các lĩnh vực ưu tiên.
Tháng 9/2010, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm
thăm chính thức Anh. Nhân dịp này, hai nước ký Tuyên bố chung chính thức
nâng cấp quan hệ Việt Nam - Anh lên thành “Đối tác chiến lược” với 7 lĩnh
vực hợp tác chủ yếu là chính trị-ngoại giao, các vấn đề toàn cầu và khu vực,
thương mại-đầu tư, hợp tác phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giáo dục-đào
tạo, an ninh-quốc phòng và giao lưu nhân dân.
Nhằm triển khai cụ thể Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược Việt Nam –
Anh, hàng năm các Bộ, ngành, cơ quan hai nước xây dựng và ký kế hoạch
hành động cho năm tiếp theo. Ngày 26/10/2011, hai bên đã tiến hành Đối
thoại chiến lược Việt Nam – Anh lần thứ nhất tại London nhằm trao đổi các
vấn đề an ninh – chiến lược quốc tế và khu vực hai bên cùng quan tâm.
Về hợp tác trên diễn đàn quốc tế và khu vực, hai bên đã có sự hợp tác chặt
chẽ và hiệu quả trong thời gian Việt Nam là thành viên không thường trực
10


HĐBA/LHQ khóa 2008-2009, trong khn khổ ASEM và quan hệ hợp tác đối
tác ASEAN – EU.
Trong những năm qua, hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao, nổi bật là:
- Phía ta : Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1993); Chủ tịch Quốc hội Nông Đức
Mạnh (1994); Thủ tướng Phan Văn Khải dự ASEM-2 và thăm Anh (1998);
Phó Thủ tướng Vũ Khoan (2003); Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên
(2003); Chủ tịch nước Trần Đức Lương (5/2004); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Văn An (3/2005); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (3/2008); Phó Thủ tướng
Trương Vĩnh Trọng (4/2009); Phó Chủ tịch Quốc hội ng Chung Lưu
(7/2009); Phó Thủ tướng Hồng Trung Hải (10/2009); Phó Thủ tướng kiêm
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân (3/2010), Phó Thủ

tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm (9/2010), Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Sinh Hùng (12/2011), Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (4/2014), Bộ
trưởng Nguyễn Bắc Son (5/2014)
- Phía Anh: Cơng tước Xứ York - Hoàng tử Andrew (1999, 2006, 2008,
2009 và 10/2010); Cơng chúa Anne (1995 và 2002); Phó Thủ tướng John
Prescott (2001 và 2004); Ngoại trưởng Anh (1995); Bộ trưởng John Hutton
(06/2008), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Jack Straw (9/2008); Thứ trưởng Thường
trực BNG Anh Peter Ricketts (13/1/2009); Quốc Vụ khanh Bill Rammell dự
ASEM FMM-9 (5/2009); Thị trưởng Khu Tài chính London (7/2009, 3/2011),
Quốc Vụ khanh Alan Duncan (6/2010, 5/2011), Quốc Vụ khanh Jeremy
Browne (4/2011); Nhóm Nghị sĩ Anh – Việt (9/2011), BTNG Anh William
Hague (4/2012).
2.3. Quan hệ kinh tế- thương mại Anh- Việt
Về các thỏa thuận và hiệp định được ký kết, từ năm 1990 đến nay, có rất
nhiều thỏa thuận và hiệp định kinh tế giữa Việt Nam và Anh. Tiêu biểu có thể
kể ra một số cái tên như: Hiệp định vận tải hàng không (8/1994); Hiệp định
khung về tài chính (9/1994); Thỏa thuận giải quyết nợ song phương và Hiệp
định tránh đánh thuế trùng (4/1995); Thỏa thuận về quy chế chuyên gia tư vấn
11


kỹ thuật (1995); Thỏa thuận tài trợ tín dụng giảm nghèo (11/2001 với nhiều
nước khác và WB); Hiệp định quy thế và hoạt động của Hội đồng Anh tại Việt
Nam (12/2001); Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (8/2002); Hiệp
định về tài sản ngoại giao (9/2003) …
Về thương mại, quan hệ thương mại Việt Nam và Anh tăng nhanh từ
những năm 90 đến nay. Chính sách thương mại của Anh tương đối cởi mở,
không theo chủ nghĩa bảo hộ. Trong các vấn đề tranh chấp thương mại giữa ta
và EU (vụ kiện bán phá giá, vụ hải sản nhiễm kháng thể, vấn đề GSP, giày mũ
da), Anh thường có lập trường ủng hộ Việt Nam. Anh cũng ủng hộ Việt Nam

gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và quy chế kinh tế thị trường.
Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam sang Anh tăng trung bình
17%/năm, ta liên tục xuất siêu. Những mặt hàng xuất chủ yếu : giày dép
(53%), dệt may (12%), chè và cà phê (8%), gạo (8%), thuỷ sản (3%), cao
su… Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Anh: hàng gia cơng chế biến và
thiết bị cơng nghiệp (38%), hố chất (21%), thiết bị viễn thông (6%), thuốc lá
(3%)… Kim ngạch thương mại song phương năm 2011 đạt hơn 3 tỷ đô-la,
tăng khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước.
Trao đổi thương mại Việt Nam - Anh (đơn vị : triệu USD)
Năm

2006

2007

2008

2009

Kim ngạch hai chiều

1620

1668

1966

1750

Xuất khẩu sang Anh


1179

1431

1580

1330

10.4

-

Tăng
Nhập khẩu từ Anh

16.1

21%

%
201,3

237

12

%
386


15.5%
420

201

201

0

1

217

304

0

4

168

239

1

8

26
%
511


42
%
646


Tăng

10.4

17.7

62.8

%

%

%

10%

21
%

17
%

(Nguồn: Bộ Cơng Thương)
Hiện Anh có 138 văn phịng đại diện thương mại thường trú và chi nhánh

kinh doanh tại Việt Nam. Năm 1998, Anh thành lập Hiệp hội doanh nghiệp
Anh tại Việt Nam (BBGV) nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế với Việt Nam và
các hoạt động từ thiện tại Việt Nam.
Ngày 19/7/2007, hai bên đã ký thoả thuận thành lập Uỷ ban hỗn hợp về
kinh tế và thương mại (JETCO) nhằm đề ra các biện pháp thúc đẩy quan hệ
kinh tế, thương mại và đầu tư song phương và tiến hành phiên họp đầu tiên tại
Hà Nội. Các phiên họp của JETCO diễn ra theo cơ chế định kỳ hàng năm và
luân phiên.
Tháng 11/2011, Anh tuyên bố thành lập Hội đồng Kinh doanh Anh –
ASEAN nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Anh với các nước
ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Về đầu tư, các công ty Anh vào Việt Nam sớm (1988-1989) nhưng thời
gian đầu chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dầu khí (chiếm 70%). Cho đến nay,
đầu tư của Anh đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực mới như ngân hàng, tài chính,
cơng nghiệp chế tạo, dịch vụ, may mặc... Nhìn chung các dự án đầu tư của
Anh có quy mơ vừa và nhỏ, tập trung vào các lĩnh vực khai khoáng với 7 dự
án, tổng số vốn đầu tư là 715,6 triệu USD; tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp
chế biến, chế tạo với 55 dự án, tổng vốn đăng ký là 714,4 triệu USD, chiếm
32,2% vốn đăng ký; đứng thứ ba là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 548
triệu USD vốn đăng ký, chiếm 25,3% và các lĩnh vực ngân hàng, dịch vụ tài
chính và bảo hiểm.
Các nhà đầu tư Anh có mặt tại 17 địa phương trong cả nước. Dẫn đầu về
thu hút vốn đầu tư của Anh là các dự án dầu khí ngồi khơi với 712,6 triệu
USD (chiếm 33%), tiếp theo là Đồng Nai có 10 dự án với tổng số vốn đăng
ký là 598,17 triệu USD (chiếm 27,8%), còn lại là các địa phương khác.
13


Tính đến hết năm 2011, Anh có 151 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng
ký là 2,55 tỷ USD (đứng thứ 3 trong các nước EU, sau Hà Lan và Pháp và

đứng thứ 17/94 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam).
Ngoài ra, các công ty Anh thuộc British Virgin Island đã đầu tư vào Việt Nam
với số vốn khoảng 3 tỷ đô-la.
Nhân chuyến thăm Anh của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân (911/3/2010), hai bên đã ra Tuyên bố chung về phát triển mơ hình Hợp tác Cơng
– Tư tại Việt Nam, nhất là trong thu hút đầu tư cho các dự án phát triển hạ
tầng cơ sở tại Việt Nam trong thời gian tới.
Các cơng ty lớn có mặt tại Việt Nam: Cơng ty dầu khí BP, nhơm BHP
Billiton, động cơ máy bay Rolls-Royce, viễn thơng Vodafone, vận tải P&O,
hố chất dược GlaxoSmithKline, các ngân hàng HSBC, Standard Chartered,
bảo hiểm Prudential. Standard Chartered Bank và HSBC là hai ngân hàng
100% vốn nước ngoài đầu tiên được thành lập tại Việt Nam.
Đầu tư của Việt Nam sang Anh: Tính đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam
đã có 2 dự án đầu tư sang Anh với tổng vốn đầu tư là 500.000 USD. Trong đó
có 1 dự án trong lĩnh vực dịch vụ của Cty Vải Thuận Kiều để trưng bày và
quảng bá sản phẩm Việt Nam và Liên hiệp Hàng hải Việt Nam đầu tư làm
dịch vụ đại lý Hàng hải; 1 dự án của Công ty Đầu tư và Phát triển chè mở đại
lý tiêu thụ chè tại London.
Về các dự án hợp tác cùng phát triển, Anh và Việt Nam đã ký kết thoả
thuận Quan hệ đối tác phát triển giai đoạn 2006-2016:
Ngày 19/9/2006 hai bên ký Thỏa thuận về Quan hệ đối tác phát triển giữa
hai nước giai đoạn 2006-2016, theo đó Chính phủ Anh viện trợ khơng hồn
lại cho Việt Nam 250 triệu Bảng Anh trong giai đoạn 2006-2010 với khoảng
70% ngân sách để hỗ trợ cho các Chương trình liên quan đến giảm nghèo của
Việt Nam.
Thoả thuận có các mục tiêu tổng quát sau:

14


- Tăng trưởng có lợi cho giảm nghèo và đạt được các Mục tiêu Phát triển

thiên niên kỷ của Việt Nam.
- Tăng cường cơng tác quản lý tài chính và trách nhiệm giải trình của nhà
nước trước người dân, chống tham nhũng nhằm bảo đảm các nguồn vốn cơng
ích được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.
- Tơn trọng các thoả ước nhân quyền về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã
hội và văn hoá mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.
Tháng 8/2010, Việt Nam và Anh đã họp đánh giá giữa kỳ thực
hiện Thỏa thuận về Quan hệ đối tác phát triển giai đoạn 2006-2016, trên cơ sở
đó quyết định mức độ và các lĩnh vực ưu tiên hợp tác giai đoạn 2011-2016
phù hợp với các mục tiêu phát triển của Việt Nam và các chính sách viện trợ
của Anh trong giai đoạn này. Tháng 5/2011, hai bên ký Thỏa thuận Đối tác
phát triển Việt Nam – Anh giai đoạn 2011-2016, đưa Anh trở thành đối tác
đầu tiên cam kết ODA cho Việt Nam đến năm 2016 với tổng trị giá là 70 triệu
bảng Anh.
Về việc hỗ trợ ODA, Anh đã bắt đầu viện trợ không hoàn lại cho Việt
Nam từ những năm 1992. Những khoản hỗ trợ này đã giúp ích rất nhiều cho
Việt Nam trong việc phát triển kinh tế- xã hội.
Về hình thức hỗ trợ, từ năm 1998, Bộ Phát triển quốc tế Anh (DFID) đã
quyết định chuyển từ tiếp cận theo dự án sang tiếp cận theo chương trình
ngành hoặc lĩnh vực trong khn khổ phát triển tồn diện (CDF). Do vậy,
DFID không xây dựng các dự án hợp tác song phương theo cách làm truyền
thống, mà sử dụng hình thức đồng tài trợ hoặc uỷ thác để tham gia tài trợ cho
các chương trình/dự án có ưu tiên cao tại Việt Nam nhằm giảm chi phí giao
dịch cho Việt Nam và khuyến khích sự phối hợp trong các nỗ lực tập thể giữa
các nhà tài trợ với Việt Nam.
Ngày 22/2/2005, Chính phủ Anh thông qua sáng kiến giảm nợ đa
phương, tuyên bố sẽ trả nợ thay cho Chính phủ Việt Nam 10% nợ đến hạn của
các khoản vay Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) thuộc WB trong thời gian
15



2005-2015 (khoảng 90 triệu USD). Đây là sáng kiến của Anh nhằm vận động
các nước G8 và các nhà tài trợ khác cùng tham gia sáng kiến này để tạo điều
kiện cho Việt Nam tập trung nguồn lực hơn nữa cho Chương trình Xóa đói
giảm nghèo đang được thực hiện thành công.
Ngày 25/1/2010, Lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và đại diện DFID đã
ký Văn bản tài trợ 17 triệu Bảng Anh cho Chương trình mục tiêu quốc gia về
Cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn trong giai đoạn 2010-2013.
Hiện nay Anh là nhà tài trợ khơng hồn lại lớn nhất cho Việt Nam trong
EU, nhà tài trợ song phương đầu tiên trên thế giới cam kết ODA cho Việt
Nam đến năm 2016 và là nước đầu tiên cung cấp ODA cho Việt Nam bằng
phương thức hỗ trợ trực tiếp ngân sách và trả nợ quốc tế cho Việt Nam. Anh
cũng là nhà tài trợ điều phối trong lĩnh vực phòng chống tham những tại Việt
Nam.
2.4. Quan hệ giáo dục- văn hóa Anh- Việt
Trong những năm qua, hợp tác giữa Việt Nam và Anh trong lĩnh vực giáo
dục đào tạo phát triển tích cực. Hàng năm, Chính phủ Anh dành từ 25-30 suất
học bổng cho học sinh Việt Nam. Số người Việt Nam nhận học bổng của
Chính phủ Anh cho đến nay là trên 600. Hiện có khoảng hơn 7000 sinh viên
Việt Nam đang theo học tại các trường của Anh.
Hội đồng Anh (BC) là một tổ chức được Chính phủ Anh uỷ quyền đối với
các hoạt động về văn hóa và giáo dục tại Việt Nam. Hội đồng Anh có mặt tại
Việt Nam từ cuối 1993, có trụ sở ở Hà Nội và TP HCM. Đến nay, Hội đồng
Anh đã tổ chức các lớp bổ túc tiếng Anh miễn phí cho trên 1.000 cán bộ của
ta, trong đó có hơn 40 cán bộ cấp Thứ trưởng và tương đương. Ngồi ra,
thơng qua Hội đồng Anh, Chính phủ Anh đã giúp ta đào tạo tiếng Anh và
cung cấp nhiều học bổng ngắn hạn cho công chức của ta. Nhân chuyến thăm
Việt Nam của Hoàng tử Andrew (10/2009), Thủ tướng Chính phủ đã Quyết
định gia hạn hoạt động của Hội đồng Anh tại Việt theo Nghị định số
18/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001 của Chính phủ.

16


Tháng 3/2008, Việt Nam đã ký với Anh Hiệp định cấp Chính phủ về hợp
tác giáo dục – đào tạo, hai bên nhất trí sẽ thiết lập từ 40 đến 60 liên kết trường
học cấp (phổ thông, trung cấp, đại học) trong 3 năm và cam kết cho phép
thành lập trường Apollo tại Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
tiếng anh. Trong chuyến thăm Việt Nam, Hoàng tử Anh Andrew đã chứng
kiến Lễ ra mắt trường Đại học Apollo tại Hà Nội (9/2008) và Đại học Anh tại
Hà Nội (10/2010).
Tháng 3/2010, nhân chuyến thăm Anh của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện
Nhân, hai bên đã kýTuyên bố chung trong đó Chính phủ Anh và hệ thống các
trường đại học hàng đầu của Anh cam kết ủng hộ Việt Nam thành lập trường
đại học công lập đẳng cấp quốc tế Việt – Anh. Hai bên đang tích cực phối hợp
triển khai dự án này tại Đại học Đà Nẵng.
Việt Nam và Anh phối hợp tổ chức nhiều hoạt động quảng bá văn hố, du
lịch trên kênh truyền hình BBC và trên hệ thống taxi London; Tuần lễ Văn
hoá Việt Nam tại Anh.
2.5. Các lĩnh vực hợp tác khác
Về An ninh- Quốc phòng, tháng 9/1996, Anh cử tuỳ viên quốc phòng đầu
tiên tại Việt Nam thường trú tại Malaysia (từ tháng 3/2008 thường trú tại
Brunei và từ tháng 5/2011 thường trú tại Singapore). Trong lĩnh vực xuất
khẩu sản phẩm quốc phòng (do Bộ Thương mại và Đầu tư Anh quản lý) có 1
đại diện tại Đại sứ quán Anh tại Hà Nội phụ trách. Ta cử Tùy viên Quốc
phòng thường trú tại Đức kiêm nhiệm tại Anh.
Từ năm 1996 đến nay, hai bên đã trao đổi một số đoàn quân sự. Về phía
Việt Nam thăm Anh có Thứ trưởng Quốc phịng (9/2001, 9/2003 và 11/2011),
Phó Tư lệnh các Qn chủng Phịng khơng-Khơng qn, Hải qn (1996,
1998, 1999); Phó Tổng Tham mưu trưởng (2004). Phía Anh sang thăm ta có
Học viện nghiên cứu quốc phòng (1999, 2001, 2003), Tổng tham mưu trưởng

quân đội Anh (3/2004).
Hai bên đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác Quốc phòng (11/2011).

17


Những năm gần đây, Bộ Nội vụ Anh và Bộ Cơng an Việt Nam tăng cường
trao đổi các nhiều đồn thăm viếng cấp cao. Quốc vụ khanh Bộ Nội vụ Anh
Des Browne thăm Việt Nam (10/2004), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Anh Jack
Straw (9/2008). Phía Việt Nam thăm Anh có Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng
Anh (9/2004, 9/2006), Tổng Cục trưởng Tổng Cục Cảnh sát Trần Văn Thảo
(2/2007), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường (6/2008), Bộ trưởng Bộ Nội
vụ Trần Văn Tuấn (5/2009), Thứ trưởng thường trực Bộ Công an Đặng Văn
Hiếu (11/2011). Hai bên hợp tác trao đổi thơng tin trong lĩnh vực phịng
chống tội phạm, khủng bố, nhập cư bất hợp pháp, chương trình đào tạo tiếng
Anh cho Bộ Công an Việt Nam.
Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về các vấn đề di cư (10/2004), Bản ghi nhớ về
đấu tranh phòng chống tội phạm (2006), Hiệp định chuyển giao người bị kết
án tù (9/2008), Bản ghi nhớ Hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp
(9/2008) và Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự (1/2009) nhằm mở rộng
quan hệ hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa hai nước.
Về lĩnh vực du lịch, khách du lịch Anh vào Việt Nam tăng mạnh những
năm gần đây, từ 70.000 lượt năm 2004 lên 105.000 lượt năm 2011.
Chính phủ Anh đã quyết định miễn thị thực quá cảnh cho cán bộ của Việt
Nam mang hộ chiếu ngoại giao và công vụ. Hai bên đang đàm phán khả năng
ký kết Hiệp định miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao và công
vụ.
2.6. Hợp tác 2 bên tại Thành phố Đà Nẵng
Ngoài việc hợp tác ở mức độ quốc gia- quốc gia, Anh và Việt Nam cũng
tập trung vào việc đầu tư các dự án kinh tế, thương mại, giáo dục ở một số địa

phương. Bên cạnh 2 trung tâm văn hóa kinh tế chính trị lớn của Việt Nam là
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng cũng là một điểm
đến thu hút nhiều nhà đầu tư Anh.
Ở mức độ quan hệ hữu nghị giữa 2 địa phương, Đà Nẵng chưa thiết lập
quan hệ chính thức với địa phương nào của Anh. Tuy vậy, việc Anh đầu tư

18


khá nhiều dự án về kinh tế cũng như thúc đẩy các dự án thương mại và giáo
dục tại Đà Nẵng là một điểm đáng chú ý.
Về thương mại, kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2012 đạt 27,3 triệu USD,
trong đó xuất khẩu là chủ yếu với 27 triệu USD. Nhìn chung, kim ngạch bn
bán giữa các doanh nghiệp Đà Nẵng với đối tác Anh còn hạn chế và chỉ tăng
nhẹ so với các năm trước. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: da, giày, hàng may
mặc, đồ chơi trẻ em, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, thủy sản, nến, cafe.
Về đầu tư, đến nay, có 3 doanh nghiệp FDI có vốn đầu tư trực tiếpcủa Anh
tại Đà Nẵng là Trung tâm Đào tạo tiếng Anh của Viện Ngôn ngữ quốc tế Phân viện Việt Nam (ILA) (500.000 USD); Công ty Thuốc lá Imperial Vina
(24,7 triệu USD); và Công ty TNHH Nhà và vườn E.N.I.G.M.A (160 ngàn
USD).
Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có cơng ty mẹ đặt tại quần đảo Virgin thuộc
Anh (British Virgin Islands) như VinaCapital, công ty sản xuất đồ may mặc
Knitwear, Công ty phát triển bất động sản Magnum... đã có nhiều dự án đầu
tư quy mô lớn tại Đà Nẵng với tổng vốn hơn 1 tỷ USD.
Ngồi ra, trên địa bàn thành phố có nhiều văn phòng đại diện (VPĐD), chi
nhánh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi từ Anh như Chi nhánh
Công ty Liên doanh Castrol Việt Nam, VPĐD Công ty Bảo hiểm nhân thọ
Prudential, Chi nhánh Trường đào tạo Anh ngữ Apollo, Chi nhánh Ngân hàng
HSBC.
Về viện trợ phi chính phủ, các tổ chức phi chính phủ của Anh hoạt động

tích cực tại Đà Nẵng, tập trung vào các lĩnh vực giáo dục, đào tạo nghề cho
trẻ em có hồn cảnh khó khăn.
Trong 10 năm từ năm 2004 đến nay, tổng giá trị viện trợ của các tổ chức
phi chính phủ Anh đạt khoảng 16 tỷ đồng.
Hợp tác giữa Đà Nẵng và Anh chủ yếu phát triển trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Với sự tài trợ của Hội đồng Anh tại Việt Nam, vào các năm 2008 và
2011, lãnh đạo Ban chỉ đạo Đề án Phát triển Nguồn nhân lực chất lượng cao

19


đã thăm và làm việc với các trường đại học ở Anh để tìm hiểu khả năng hợp
tác.
Thành phố Đà Nẵng đã ký các bản ghi nhớ hợp tác về giáo dục với trường
Royal Holloway thuộc Đại học London, Đại học Nottingham, Đại học
Southampton. Nhiều trường đại học của thành phố đã thiết lập quan hệ với
các trường của Anh.
Trong khuôn khổ triển khai Đề án Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, UBND thành phố và Hội đồng Anh Việt Nam đã ký kết thỏa thuận hợp
tác, theo đó Hội đồng Anh là cơ quan tư vấn, hỗ trợ thủ tục và hồ sơ cho các
ứng viên của thành phố theo học tại Anh. Đến nay, thành phố đã cử tổng cộng
61 lượt học viên học tại Anh theo Đề án.
Tháng 01 năm 2013, nhân chuyến thăm Vương quốc Anh của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng, hai Chính phủ đã ký kết Biên bản ghi nhớ về việc thành
lập Đại học Việt- Anh. Căn cứ theo biên bản ghi nhớ này, Đại học Đà Nẵng,
Đại học Aston (Anh) và Hội đồng Anh đã hoàn chỉnh xong văn kiện đề án và
trình lên Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam phê duyệt. Tháng 12/2013 Đại
học Việt Anh đã chính thức đi vào hoạt động dựa trên cơ sở vật chất của Đại
học Đà Nẵng.
Về lĩnh vực y tế, tháng 01/2013, Sở Y tế thành phố Đà Nẵng đã phối hợp
với tổ chức Newborns Vietnam và Đại học Canterbury Christ Church (Anh)

ký kết Biên bản ghi nhớ thực hiện chương trình đào tạo điều dưỡng nhi sơ
sinh tại trường Cao đẳng kỹ thuật y tế II và Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng.
Chương trình đào tạo này đã được Bộ Y tế phê duyệt vào tháng 02/2013.
Song song với chương trình đào tạo là cuộc đua xe đạp tự do cho các điều
dưỡng nhi tại bệnh viện phụ sản nhi Đà Nẵng vào tháng 5/2013. Năm 2014,
chương trình “Đạp xe vì trẻ thơ” được tiếp tục và đã quyên góp được hơn
70.000 USD.
Có thể thấy rằng, Đà Nẵng- với sự phát triển và định hướng phát triển của
chính nó- là một điểm đầu tư hấp dẫn cho nhiều doanh nghiệp địa phương
cũng như những tập đoàn xuyên quốc gia đến từ nhiều nước, trong đó có Anh.
20


Những dự án quan trọng này sẽ giúp tạo cơ hội cho các địa phương của Anh
hiểu rõ và quan tâm về Đà Nẵng hơn, từ đó tạo lập quan hệ hữu nghị giữa Đà
Nẵng và địa phương đó trong tương lai. Quan hệ quốc gia- quốc gia cũng nhờ
đó mà được thắt chặt hơn.
2.7. Hợp tác qua kênh đối ngoại nhân dân
Đối ngoại nhân dân cũng là một kênh hợp tác quan trọng giữa Việt và Anh
song song với Ngoại giao Nhà nước. Việt Nam và Anh chính thức phát triển
kênh đối ngoại nhân dân bắt đầu từ năm 2010. Các tổ chức, cá nhân ở Anh
cũng như Việt Nam đã cùng hợp tác hoặc gây quỹ, tài trợ và tổ chức các
chương trình về giáo dục, y tế, trao đổi văn hóa giữa hai quốc gia trong đó
nhiều nhất là về lĩnh vực y tế.
Ở Việt Nam:
Năm 2013, Tổ chức Newborns- một tổ chức từ thiện của Anh với những
dự án nhằm giảm tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh đã hợp tác với Sở Y tế thành
phố Đà Nẵng và Đại học Canterbury Christ Church (Anh) ký kết Biên bản ghi
nhớ thực hiện chương trình đào tạo điều dưỡng nhi sơ sinh tại trường Cao
đẳng kỹ thuật y tế II và Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng. Chương trình đào

tạo này đã được Bộ Y tế phê duyệt vào tháng 02/2013.
Theo đó, các điều dưỡng tại Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng sẽ được đào
tạo bởi các chuyên gia đến từ ĐH Canterbury Christ Church của Anh để phát
triển các kỹ năng chuyên sâu giúp cải thiện chất lượng chăm sóc trẻ sơ sinh và
các bà mẹ. Năm 2013, một giải đua xe đạp tự do dành cho các điều dưỡng đã
được mở ra nhằm gây quỹ cho chương tình. Giải này có tên là “Đạp xe vì trẻ
thơ”
Để thể hiện sự ủng hộ của Anh đối với hoạt động của tổ chức Newborns
Vietnam, Đại sứ Anh tại Việt Nam, Tiến sĩ Antony Stokes cũng sẽ tham gia
đạp xe cùng các cua-rơ vào ngày cuối cùng của hành trình, trên chiếc xe đạp
“chính hãng của Anh” do hãng xe đạp Condor London cung cấp. Chương
trình này được đánh giá rất cao vì chất lượng đào tạo và sự sáng tạo của nó.
Năm 2014, qua giải đua xe đạp vào tháng 3, Newborns đã quyên góp được
21


hơn 70.000 USD. Số tiền này được bổ sung vào quỹ đào tạo điều dưỡng nhằm
giúp cho trẻ sơ sinh và các bà mẹ có một điều kiện tốt nhất có thể, từ đó giảm
thiểu số lượng trẻ sơ sinh tử vong.
Bên cạnh đó, về lĩnh vực Y tế, tổ chức Facing the world gồm 10 bác sỹ
đến từ Anh cũng là một dự án nổi bật. Tổ chức này dành 2 tuần ở thành phố
Đà Nẵng để phẫu thuật chỉnh hình cho các em nhỏ dị tật- nạn nhân của chất
độc màu da cam trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Hằng năm, có khoảng 10
bác sỹ đến từ Anh tham gia chương trình này, kết hợp với các bác sỹ Việt
Nam để tiến hành các ca phẫu thuật.
Bác sỹ Nial Kirkpatrich từ bệnh viện Chelsea & Westminster ở Luân Đơntham gia chương trình Facing the world 2013 cho rằng chiến dịch này là cần
thiết nhằm mang đến một cuộc sống mới cho các em nhỏ bị dị tật vì chất độc
da cam. Với những thành công lớn trong việc phẫu thuật cho các em nhỏ
những năm trước, Facing the world năm nay đang được rất nhiều gia đình có
con em bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam chờ đón và mong đợi.

Ở Anh:
Tháng 6 tới đây, ca sĩ Thu Minh của Việt Nam sẽ sang Anh để tham dự lễ
ra mắt chính thức dự án "United for Wildlife" - dự án liên hiệp giữa bảy tổ
chức bảo vệ động vật hoang dã lớn nhất thế giới dưới sự chủ trì của Quỹ từ
thiện Hồng gia Anh (Royal Foundation). Quỹ này do Hoàng gia Anh thành
lập và quản lý, tuy vậy nó chuyên hoạt động ở kênh đối ngoại nhân dân hơn là
ở cấp độ ngoại giao nhà nước. Royal Foundation đã thực hiện rất nhiều dự án
bảo vệ môi trường và thiên nhiên ở các nước. Năm nay, Quỹ đã mở rộng quy
mô lớn hơn bằng cách kêu gọi sự hợp tác từ các cá nhân, các tổ chức ở các
nước đang phát triển.
Thu Minh là nghệ sĩ Việt Nam duy nhất vinh dự nhận được lời mời và
là một trong số những khách mời hiếm hoi đến từ châu Á. Mục đích của dự án
này là tạo nên một sự cam kết lâu dài và bền vững để giải quyết các thách
thức toàn cầu đang đe dọa môi trường thiên nhiên thế giới và vấn nạn buôn
bán trái phép các loài động vật hoang dã. Thu Minh cho biết: "Với vai trò là
22


đại sứ của chương trình bảo vệ tê giác, tơi mong rằng sự có mặt của mình tại
sự kiện lớn này cùng bạn bè quốc tế sẽ một lần nữa góp một phần ảnh hưởng
và kêu gọi cơng chúng Việt Nam nâng cao nhận thức hơn trong việc bảo vệ
loài tê giác nói riêng và động vật hoang dã nói chung".
Không thể không kể đến một kênh đối ngoại nhân dân rất quan trọng khác
giữa Anh và Việt đó là Hội sinh viên Việt Nam tại Anh (SVUK)- với gần 8000
thành viên. Từ khi thành lập đến nay, SVUK đã duy trì và phát triển các hoạt
động của mình nhằm tăng cường hiểu biết giữa sinh viên hai nước cũng như
thắt chặt mối quan hệ của cộng đồng sinh viên Việt Nam tại Anh. Qua những
hoạt động truyền thống như Giải bóng đá thường niên (SVUK Cup) hay
chương trình biểu diễn nghệ thuật thường niên (SVUK Show), trong năm qua,
các bạn trẻ Việt Nam học tập tại Anh đã có thêm hai sân chơi mới để thể hiện

tài năng sáng tạo của mình cũng như mở rộng hơn sự giao lưu giữa các sinh
viên Việt Nam. Một chương trình mới là cuộc thi ảnh “SVUK in Focus” và
cuộc thi clip ngắn “SVUK in Motion” lần đầu tiên được tổ chức, thu hút sự
tham gia của đông đảo sinh viên với kết quả thành cơng ngồi mong đợi.
Theo Chủ tịch SVUK 2013-2014 Bùi Cẩm Vân, các sinh viên Việt Nam tại
Anh đã rất tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện trong các phong trào
“Cơm có thịt” hay “Sách cho nơng thơn”. Ngồi ra trong năm qua, SVUK
cũng đã lập trang web chính thức mới nhằm cung cấp các thơng tin chính
thống hỗ trợ sinh viên Việt Nam học tập và sinh sống tại Anh và trang
Fanpage - diễn đàn để các sinh viên Việt Nam trên khắp mọi miền nước Anh
có thể kết nối với nhau và giao lưu với sinh viên Việt Nam tại các nước khác.
Bà Lê Thị Thu Hằng, Tham tán Công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Vương
quốc Anh và Bắc Ireland, đánh giá cao sự đóng góp nhiệt tình và hiệu quả của
cộng đồng sinh viên Việt Nam tại Anh vào các hoạt động chung nhằm tăng
cường quan hệ hữu nghị Việt Nam – Anh. Đặc biệt trong năm 2013, các bạn
trẻ Việt Nam với lịng nhiệt tình, hăng hái và tinh thần trách nhiệm cao đã
đóng góp rất lớn cho thành cơng của nhiều sự kiện quan trọng nhân kỷ niệm
40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, như chuyến thăm của
23


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Anh hồi đầu năm, lễ đặt bia tưởng niệm
100 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt chân tới Anh hay Lễ hội mùa hè Việt
Nam tại sông Thames, Ngày hội khám phá Việt Nam tại Edinburgh, Scotland

Cũng theo bà Lê Thị Thu Hằng, vai trò của SVUK đã được ghi nhận qua
việc tổng hội đã trở thành thành viên của Mạng lưới hữu nghị Anh-Việt Nam,
lực lượng vận động cho quan hệ mọi mặt giữa hai nước vừa chính thức được
thành lập đầu năm nay. Bà Lê Thị Thu Hằng lưu ý đến công tác phát triển
Đảng trong giới sinh viên Việt Nam tại Anh, kêu gọi Ban chấp hành SVUK

thông qua các Vietsoc tích cực giới thiệu các sinh viên ưu tú có nguyện vọng
được kết nạp Đảng để Đại sứ quán có hướng bồi dưỡng, kết nạp các đảng
viên trẻ, tạo sức mạnh mới cho Đảng.
III. Đánh giá csđn Anh với VN và dự đoán quan hệ trong tương lai
Đặc trưng quan hệ Anh- Việt là một mối quan hệ đối tác hữu nghị thân
thiện và tốt đẹp. Từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1973,
hai bên đã có nhiều hợp tác về an ninh, kinh tế, văn hóa và tiêu biểu nhất là
giáo dục. Năm 2008 với ký kết “ Đối tác hữu nghị vì sự phát triển” đã đánh
dấu sự phát triển mới trong quan hệ 2 bên, đưa mối quan hệ đi sâu hơn vào
thực chất. Đến 2010, mối quan hệ đã được nâng lên tầm “Đối tác chiến lược”
với việc mở rộng và đi sâu vào các hoạt động hợp tác trên tất cả các lĩnh vực.
Trong đó, các trụ cột chủ yếu là: chính trị- ngoại giao, thương mại- đầu tư,
giáo dục- đào tạo, an ninh- quốc phòng…
Hai bên liên tục trao đổi các đoàn cấp cao đi thăm và làm việc tại thủ đơ
cũng như các tỉnh thành có dự án hợp tác quan trọng. Hiện nay, số lượng các
đoàn cấp cao trao đổi giữa hai bên tăng liên tục do các điều kiện khách quan
và chủ quan về lợi ích hai bên. Những con số ấn tượng ở các mảng đầu tư,
thương mại, ODA hay trao đổi giáo dục là những con số minh chứng một
cách đầy đủ và cụ thể những thành công trong quan hệ hai quốc gia.
Ông Mark Kent- Cựu Đại sứ Anh tại Việt Nam đã đánh giá rất cao đất
nước và con người Việt Nam. Ông rất vui mừng trước những thay đổi đáng kể
24


ở Việt Nam hiện nay và cho rằng thị trường Việt Nam tại Châu Âu có kỳ vọng
tiến xa hơn nữa “Việt Nam ngày nay cũng được biết đến ở nước Anh như một
nền kinh tế đang nổi, đầy tiềm năng, một địa chỉ du lịch hấp dẫn và với rất
nhiều loại sản phẩm “Made in Vietnam” được bày bán tại các cửa hàng lớn
nhỏ ở khắp nơi trên đất Anh.”
Trong cuộc gặp gỡ cấp cao ngày 16/4 vừa qua, Phó Thủ tướng Việt Nam

Vũ Đức Ninh và Bộ trưởng Ngoại giao Anh William Hague đã có cuộc tiếp
xúc thân mật trao đổi về quan hệ hai bên. Hai bên chia sẻ đánh giá tích cực về
quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam-Anh thời gian qua. Trao đổi đoàn và
tiếp xúc cấp cao thường xuyên, đặc biệt là chuyến thăm đầu tiên của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng tới Anh vào tháng 1/2013, đã tạo động lực chính trị
mạnh mẽ thúc đẩy hợp tác giữa hai nước.
Về lĩnh vực thương mại và kinh tế, Anh đã nâng mục tiêu FDI vào Việt
Nam lên 3 tỷ USD và khẳng định sẽ cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam
đến năm 2016. Việt Nam tỏ rõ sự cảm ơn chân thành và thiện chí hợp tác lâu
dài với Anh trong những năm tới thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi để các
công ty của Anh kinh doanh và đầu tư có hiệu quả trên cơ sở bình đẳng và
cùng có lợi. Hợp tác kinh tế, thương mại giữa 2 phía đã cho thấy sự hiệu quả
và hữu nghị tốt đẹp trong quan hệ hai bên.
Là một quốc gia thành viên cam kết mạnh mẽ nhất đối với thương mại tự
do trong Liên minh châu Âu (EU), Anh khẳng định sẽ làm hết sức mình để
thúc đẩy EU hồn tất đàm phán Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU
trong năm 2014, cũng như cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam tăng cường quan
hệ tồn diện với EU; tích cực ủng hộ EU sớm công nhận Việt Nam là nước có
nền kinh tế thị trường.
Về lĩnh vực giáo dục- đào tạo, hai bên ưu tiên thúc đẩy triển khai các dự
án trường đại học của Anh tại Việt Nam, cụ thể là trường British University
tại Hà Nội và nâng cấp trường đại học Việt- Anh tại Thành phố Đà Nẵng
thành trường có đẳng cấp quốc tế trong khu vực. Ngồi ra, hai bên còn tăng

25


×