Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ĐẦU tư xây DỰNG XƯỞNG sản XUẤT nấm THƯƠNG PHẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.61 KB, 20 trang )

Ở ĐẦU
Ngành sản xuất nấm ăn đã hình thành và phát triển trên thế giới hàng trăm năm
nay. Nấm là loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng. Hàm lượng protein(đạm
thực vật) chỉ sau thịt, cá và rất giàu chất khoáng, axit amin không thay thế, các
loại vitamin A, B, C, D, E…đặc biệt nấm ăn không có độc tố. Người ta vẫn liệt
nấm ăn vào loại “rau sạch”, “thịt sạch”. Ngoài giá trị dinh dưỡng, từ lâu người
ta còn biết nấm ăn có khả năng phòng bệnh, chống béo phì, ung thư… Việc
nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, đã
trở thành một ngành công nghiệp thực phẩm.
Ở nước ta, nấm ăn cũng đã được biết đến từ lâu. Tuy nhiên, chỉ trong khoảng
một đến hai thập niên trở lại đây nghề trồng nấm mới phát triển và được xem
như là một nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Vì vậy, chúng tôi lựa chọn phương án đầu tư:
“ĐẦU TƯ XÂY DỰNG XƯỞNG SẢN XUẤT NẤM THƯƠNG PHẨM”
+ Công suất:15 tấn/năm.
+ Số ngày sản xuất: 250 ngày/năm.
+ Số lượng ca: 01 ca( 8 giờ/ ngày.
+ Địa điểm: Xã Nhân Hòa- Huyện Mỹ Hào- Tỉnh Hưng Yên.
+ Tổng số vốn đầu tư: 500.000.000 đ.
PHẦN 1: PHÂN TÍCH TÍNH KHẢ THI CỦA DỰ ÁN:
1.Phân tích tổng quan về kinh tế- xã hội của dự án:
1.1 Căn cứ pháp lý.
- Căn cứ vào công văn số 241/CP ngày 14/03/2000 của Thủ Tướng Chính Phủ
yêu cầu các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học công nghệ
và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hỗ trợ và phát triển nấm ăn.
- Căn cứ vào quyết định 09/2000/NQ/CP ngày 15/06/2000 của Chính Phủ về
một số chủ chương chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp trong đó đề cập đến việc” Phát triển các loại rau mới như
nấm ăn và nấm dược liệu”
- Căn cứ vào công văn số 358/CBNLS-CB V/V một số biện pháp nhằm phát
triển sản xuất nấm, ngày 10/07/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông


thôn.
1.2 Điều kiện tự nhiên.
Nước ta là một nước nhiệt đới và một phần cận nhiệt đới, với nền nhiệt độ
khoảng từ 25-35 độ, độ ẩm 70-80% nên chúng ta có thể trồng hầu hết các loại
nấm nhiệt đới như: nấm rơm, mộc nhĩ(nấm mèo), nấm sò( nấm bào ngư), nấm
mỡ và nấm hương.
1.3 Nguyên liệu trồng nấm.
Nguyên liệu trồng nấm ở nước ta rất dồi dào như rơm rạ, bã mía, mùn cưa…
các loại phế liệu sau khi thu hoạch rất giàu xenluzo. Nếu tính trung bình thu
được 1 tấn thóc sẽ thu được 1,2 tấn rơm rạ khô thì tổng sản lượng rơm rạ trong
cả nước khoảng vài chục triệu tấn mỗi năm. Chỉ cần dùng một lượng nhỏ rơm
rạ trong số đó là có thể tạo ra vài chục triệu tấn nấm. Mặt khác, phế thải sau khi
thu hoạch nấm qua vài bước xử lý đơn giản thì có thể dùng làm phân bón cho
chăn nuôi, trồng trọt.
1
Địa phương là một xã thuần nông, với diện tích cấy lúa lớn( chiếm trên 70%
diện tích toàn huyện), mỗi năm có hàng chục tấn rơm rạ được tạo ra, hoản toàn
đủ phục vụ cho cơ sở sản xuất.
1.4 Nguồn lao động.
Trồng nấm là một việc đơn giản không cần trình độ quá cao. Ở địa phương,
nguồn lao động trong nông thôn còn nhàn rỗi nhiều, có thể tận dụng lực lượng
này để trồng nấm, vừa tạo công ăn việc làm cho họ lúc nhàn rỗi, vừa tiết kiệm
chi phí.
1.5 Tình hình kinh tế -xã hội chung .
Trong khoảng 7 năm trở lại đây, kinh tế nước ta luôn đạt được mức tăng trưởng
ở mức cao( trên 8%/năm), kéo theo đó là đời sống nhân dân được cải thiện
đáng kể( thu nhập bình quân trên 800$/người). Do vậy, việc ăn uống của nhân
dân cũng đã được cải thiện đáng kể, đòi hỏi bây giờ là chất lượng các bữa ăn
được nâng cao. Nấm ăn là loại thực phẩm dinh dưỡng cao, cho nên sử dụng
trong các bữa ăn hằng ngày là điều tất yếu.

* Kết luận:Qua các phân tích trên, chúng tôi cho rằng việc sản xuất nấm ăn
thương phẩm là hoàn toàn phù hợp với các điều kiện hiện tại cho phép.
2. Phân tích thị trường của dự án.
2.1 Thị trường trong và ngoài nước.
Việc nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới ngày nay phát triển rất mạnh
mẽ, nó đã trở thành một ngành công nghiệp thực phẩm thực thụ. Nghề trồng
nấm đã được cơ giới hóa cao từ khâu xử lý nguyên liệu đến chăm sóc, thu hái
và chế biến đều do máy móc thực hiện như: Hà Lan, Pháp, Mỹ, Đức… Ở các
nước Châu Á như: Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan… nghề trồng nấm cũng
được phát triển mạnh. Sản lượng nấm các loại của thế giới năm 2001 đạt
khoảng 10 triệu tấn, đặc biệt trong đó Trung Quốc có sản lượng đạt khoảng
5.230 nghìn tấn nấm chiếm khoảng ½ sản lượng nấm toàn thế giới. Thị trường
tiêu thụ nấm ăn lớn nhất hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan và các nước
Châu Âu.
Nghiên cứu thị trường Mỹ, hàng năm nhập khẩu khoảng 193 triệu USD. Các
nước xuất khẩu nấm sang Mỹ chủ yếu như:Hà Lan, Indonexia, Trung Quốc,
Đài Loan, Ấn Độ, Canada. Mỹ nhập khẩu các loại nấm đông lạnh, nấm đóng
hộp, nấm tươi, trong đó chủ yếu là nấm đóng hộp chiếm khoảng 82%. Trong
những năm qua việc tiêu thụ nấm ở Mỹ tăng mạnh, đặc biệt là nấm tươi. Dự
báo trong thời gian tới nhu cầu tiêu thụ nấm tươi tiếp tục tăng và qua đó giá
nấm cung tăng theo.
Nhu cầu nấm ăn trên thế giới khoảng 15 triệu tấn mỗi năm và tăng mỗi năm
khoảng 10%. Trong khi đó sản lượng nấm hiện nay chỉ đáp ứng được ½ nhu
cầu.
Thị trường tiêu thụ nấm trong nước đang tăng nhanh và từng bước hồi sinh.
Trong đó, thị trường tiêu thụ lớn nhất của nước ta là tại TP Hồ Chí Minh và Hà
Nội, riêng tại Hà Nội có ngày cao điểm tiêu thu khoảng 30 tấn nấm mỡ, nấm
sò. Năm 2002 có 15 công ty xuất khẩu và 17 nhà máy đóng hộp nấm xuất khẩu,
sản lượng 30.000 tấn thành phẩm mỗi năm, với giá bán:
+ Nấm muối: 1.200$/tấn.

+ Nấm đóng hộp:1.800$/tấn.
2
+ Mộc nhĩ, nấm mỡ, nấm hương:1.700- 6.500$/tấn.
Sản lượng nấm của nước ta trong một vài năm trở lại đây giao động ở mức
150.000 tấn/năm, trong khi đó nhu cầu trong nước và thế giới ngày càng tăng.
Theo chủ chương của Chính Phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
Khoa học và Công nghệ thì đến năm 2010 Việt Nam cần đạt khoảng 1 triệu
tấn/năm.
2.2 Định hướng về thị trường tiêu thụ.
Thị trường tiêu thụ nấm tươi chủ yếu tập trung vào các thành phố như: Hà Nội,
Hải Dương, Vĩnh Phúc và tại địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Việc tiêu thụ chủ yếu là bán cho các nhà hàng, khách sạn và các quán ăn.
Ngoài ra, còn tiêu thụ qua các tiểu thương ở các chợ đầu mối.
2.3 Khả năng cạnh tranh về giá.
Vị trí của cơ sở rất gần với nguồn nguyên liệu nên sẽ tiết kiệm được chi phí vận
chuyển, nguồn nhân công giá rẻ có sẵn trong địa bàn. Điều này khiến chi phí
đầu vào của sản phẩm được giảm đi. Bên cạnh đó, cơ sở nằm gần đường quốc
lộ và gần thị trường tiêu thụ nên giá thành sẽ cạnh tranh được với thi trường.
* Kết luận: Từ những cơ sở nêu trên, việc đầu tư cơ sở sản xuất nấm thương
phẩm được xem là cần thiết, phù hợp với nhu cầu của thị trường, phù hợp với
chu chương chính sách. Định hướng tương lai là hướng ra thị trường nước
ngoài còn nhiều tiềm năng.
3. Phân tích về mặt công nghệ- kỹ thuật và môi trường của dự án.
3.1 Công nghệ- kỹ thuật.
3.1.1 Sản phẩm của dự án.
Dự án dự tính nuôi trồng 3 loại nấm là: Nấm rơm, nấm sò, nấm mỡ với đặc
điểm của 3 loại như sau:
a) Nấm rơm(tên khoa học Voivariella volvacca).
- Nhận dạng: Cây nấm phát triển qua 2 giai đoạn chính là: dạng búp và dạng
dù.

+ Dạng búp: Tai nấm nhỏ, nằm trong bọc, tạo thành hình giống búp cây từ
hình cầu( hình nút) đến trứng và sau đó là hình trứng kéo dài.
+Dạng dù: Là lúc cây nấm trưởng thành xe vỏ bọc, đưa mũ lên nhờ cuống tròn,
thon. Mũ xòe rộng thành tán dù. Phần vỏ bọc ban đầu được giữ lại, bọc lấy
chân nấm nên được gọi là bao nấm. Cuống nấm là bó sợi xốp, xếp theo kiểu
vòng tròn đồng tâm, khi non thì mềm và dòn, khi già thì xơ cứng khó bẻ gãy.
Mũ nấm hình nón, cũng có sắc tố đen nhưng nhạt dần từ trung tâm ra rìa mép.
- Đặc điểm sinh lý: Nấm rơm là loại nấm ăn, sinh trưởng và phát triển tốt ở
nhiệt độ 30 độ đến 32 độ C. Độ ẩm nguyên liệu 65-70%, độ ẩm không khí
80%, độ pH=7. Loài nấm ưa thoáng. Nấm rơm sử dụng trực tiếp xenlulozo làm
chất dinh dưỡng.
- Chu kỳ sống: Chu kỳ sinh trưởng và phát triển của nấm rơm rất nhanh.Từ lúc
trồng đến khi thu hoạch khoảng 10-12 ngày. Những ngày đầu nhỏ như hạt tấm,
màu trắng( đinh ghim),2-3 ngày sau lớn bằng hạt ngô, quả táo ta, quả trứng và
trưởng thành giống như chiếc ô, có cấu tạo các phần hoàn chỉnh. Các tỉnh phía
Bắc có thể trồng từ 15/3 đến15/10 dương lịch.
b) Nấm mỡ.
3
- Nhận dạng: Nấm mỡ là loại nấm ăn, có nguồn gốc từ những nước có khí hậu
ôn đới. Quả thể nấm( cây nấm) rắn chắc, phần mũ màu trắng hay nâu tùy từng
loài và cuống. Quả thể chín, màng bao bị rách, bào tử bắt đầu phát tán từ phiến,
nấm nở ra như cái ô.
- Đặc điểm sinh lý: Hệ sợi nấm phát triển tốt ở nhiệt độ 24-25 độ C, giai đoạn
hình thành “ cây nấm” ở 16-18 độ C. Độ ẩm trong môi trường nuôi trồng từ 65-
70%. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Độ pH=7-8%( môi trường trung tính
đến kiềm yếu). Độ thoáng nơi trồng vừa phải. Trong thời gian phát triển không
cần ánh nắng mặt trời. Nấm mỡ không xử dụng trực tiếp xenlulozo như các loại
khác, do đó cần có lượng khoáng nhất định cho nấm ăn: đam( nito) 2,2-2,5%;
photpho( P) 1,2-2,5%; canxi( Ca) 2,5-3%; tỷ lệ C/N( lượng cacbon/nito) là14-
16; lượn amoni( NH

4
) <0,1%; độ ẩm 65-70%. Các khoáng chất này cần phải
được chộn với nguyên liệu chính để tạo môi trường thích hợp nhất cho nấm
phát triển. Nấm mỡ chỉ thích hợp với mùa đông ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ
và các tỉnh vùng cao có nhiệt độ thấp.
c) Nấm sò( nấm bào ngư).
- Nhận dạng: Nấm có dạng phễu, mọc thành cụm gồm 3 phần: mũ, phiến và
cuống.
- Đặc điểm sinh lý: Theo Singe( 1975) có tất cả 39 loại nấm sò, chia thành 2
nhóm lớn: nhóm ưa nhiệt độ trung bình ra quả thể ở 13-20 độ C và nhóm ưa
nhiệt ra quả thể ở nhiệt độ 24-28 độ C. Có thể trồng nấm quanh năm nhưng
muốn trồng cho năng suất cao nhất thì trồng từ tháng 10 đến tháng 3 dương
lịch năm sau. Độ ẩm giá thể thích hợp cho nấm sò phát triển từ 65-70%, độ ẩm
không khí trên dưới 80%, độ pH=7( trung bình). Trong giai đoạn nuôi sợi, nấm
sò không cần ánh sáng đến khi thành quả thể thì chỉ cấn ánh sáng khuêch
tán( ánh sáng trong phòng là vừa đủ). Ngược lại, giai đoạn nuôi sợi rất cần độ
thông thoáng, đến khi nấm lên chỉ cần độ thoáng vừa phải. Nấm sò sử dùng
trực tiếp xenlulozo của giá thể, song để tăng năng suất cao, người ta bổ sung
thêm phụ gia giàu đạm, vitamin khi xử lý nguyên liệu.
Đặc điểm về dinh dưỡng được cho trong bảng sau.
Bảng 1: Tỷ lệ % so với chất khô.
Độ ẩm Protein Lipit Hydrat-cacbon Tro Calo
Trứng 74 13 11 1 0 156
Nấm mỡ 89 24 8 60 8 381
Nấm sò 91 30 2 58 9 345
Nấm rơm 90 21 10 59 11 369
Bảng 2: Hàm lượng vitamin và chất khoáng.
Axitnicotinic Ribo-
flavin
Thia-

min
Axitascobic Iron Canxi Phospho
Trứng 0,1 0,31 0,4 0 2,5 50 210
Nấm
mỡ
42,5 3,7 8,9 26,5 8,8 71 912
Nấm

108,7 4,7 4,8 0 15,2 33 1348
Nấm
rơm
91,9 3,3 1,2 20,2 17,2 71 677
4
(Đơn vị tính:mg/100g chất khô)
Bảng 3: Thành phần axit amin.
Lizin Histidin Arginin Threonin Valin Methionin Isoloxin
Trứng 913 295 790 616 859 406 703
Nấm mỡ 527 179 446 366 420 126 366
Nấm sò 321 87 306 264 390 90 266
Nấm rơm 384 187 366 375 607 80 491
(Đơn vị tính:mg/100g chất khô)
Sau khi thu hoạch nấm sẽ được đem đi bán tươi hoặc được đóng túi và bảo
quản lạnh ở nhiệt độ 5-8 độ C( giữ được nấm trong 2-3 ngày).
3.1.2 Cách thức sử dụng nấm.
- Chần nấm: Đun nước sôi thả nấm vào luộc khoảng 5 phút vớt ra ngâm vào
nước lạnh, rửa sạch nấm, khi chế biến vớt nấm ra để ráo nước.
- Tác dụng của chần nấm: Loại bỏ mùi ngái của rơm rạ và nước tự do. Cố định
các chất dinh dưỡng, nấm sẽ giòn ngon hơn và ăn không ngán.
- Các món ăn chính:
+ Nấm luộc: Cho nấm chần vào nước đun sôi 1-2 phút sau đó vớt ra để nguội.

Làm nước mắm gừng, tỏi, ớt, khi ăn chấm vào nước mắm có mùi béo ngậy và
thơm của nấm.
+ Nấm xào: Trước hết xào nấm với gia vị chín, tiếp theo xào cùng với thịt và
rau gia vi, cà chua hoặc ít thịt.
+ Nấm rán trứng: Nấm băm nhỏ, trộn đều với trứng đem rán.
+ Nấm nấu mỳ: Trước hết xào nấm chín với gia vị vừa đủ, cho nước vào đun
sôi, thả mỳ tôm, hoặc bánh đa, miến vào nồi nấm.
+ Lẩu nấm: Nấm tươi rửa sạch để ráo nước, dùng nhúng lẩu.( nhúng kỹ trong
khoảng 10 phut)
+ Ngoài ra còn chế biến thành rất nhiều món khác.
* Chú ý: Không được xào nấm tái ăn sẽ không tốt cho sức khỏe. Khi chế biến
không cho bột ngọt( mỳ chính), không cho nhiều thịt, không cho trẻ em ăn quá
200g/ngày.
3.1.3 Công nghệ sản xuất và nuôi trồng nấm.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu nhiều đơn vị trong nước về quy trình công nghệ,
năng suất, thiết bị. Chúng tôi lựa chọn phương án tiếp nhận công nghệ sản xuất
nấm ăn của Trung tâm Công nghệ Sinh học thực vật với những lý do sau:
Trung tâm Công nghệ Sinh học là đơn vị, tập trung quy tụ các nhà khoa học
nghiên cứu và sản xuất nấm ăn có nhiều kinh nghiệm từ nhiều đơn vị trong cả
nước.Trung tâm có đội ngũ cán bộ khoa học chuyên về sản xuất chế biến nấm
ăn và nấm dược liệu trong cả nước với 70 người( trong đó có 1GS, 3 TS, 4
ThS, và trên 30 cán bộ có trình độ đại học).
Đơn vị chuyển giao công nghệ có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tổ chức
triển khai công nghệ, sản xuất và nuôi trồng nấm ở nhiều địa phương trong cả
nước.
Quy trình công nghệ đã được áp dụng thành công trong nhiều tỉnh miền Nam
và dựa trên cơ sở kết quả tính toán, tổ chức sản xuất và áp dụng thực tế trong
nhiều năm.
5
Đơn vị từng được giải thưởng khoa học sáng tạo VIFOTECH( 1997) và nhiều

giải thưởng khác. Chủ trì nhiều phương án độc lập cấp nhà nước, về các
chương trình nấm ăn và nấm dược liệu.
Công nghệ, máy móc thiết bị đơn giản được chế tạo trong nước và cho phép
thu hồi nhanh.
Bảng 4:Quy trình sản xuất nấm ăn.
Giống nấm được mua tại Phòng khuyến nông, Trung tâm Công nghệ sinh học
Thực vật, Viện di truyền Nông nghiệp, đường Phạm Văn Đồng, Hà Nội.
Quy trình sản xuất nấm ăn như sau:
Sử dụng nguyên liệu là rơm rạ. Sau khi gặt lúa đem phơi khô, để tránh mốc,
đánh đống bảo quản dùng dần. Khi thấy rơm rạ có màu đen, vụn nát là đã bị
mốc do phơi không được nắng, bị thấm nước mưa nhiều ngày không trồng
được nấm.
- Cách trồng nấm rơm trên rơm rạ:
a) Xử lý nguyên liệu.
Rơm rạ phơi khô, sạch không bị mốc. bị nhiễm các loại nấm khác trải ra tưới
ướt bằng nước vôi( 3,5 kg vôi pha với 1000 lít nước), sau đó đánh đống ủ, sau
2-3 ngày đảo lần thứ nhất, ủ tiếp trong khoảng 2-3 ngày nữa, đảo lần 2 là được.
Thời gian ủ kéo dài từ 4-6 ngày.
Dùng tay cầm nắm rơm rạ đã ủ lên nếu thấy nước chảy thành dòng là rơm rạ bị
ướt, cần trải rộng ra phơi rồi mới đem trồng nấm. Rơm rạ đủ ướt là rơm rạ khi
vắt vài cọng thấy nước chảy ra thành giọt là tốt nhất. Nếu không chảy thành
giọt là rơm quá khô cần tưới thêm nước.
Trong thời gian ủ cần bổ sung thêm nguồn đạm. Người ta thường sử dụng phân
vô cơ như Ure, N.P.K với liều lượng không quá 5%, vào nguyên liệu trước khi
xếp mô.
b) Xếp mô.
Giống Nguyên liệu và xử lý nguyên
liệu
Cấy giống
Chăm sóc và thu hái

Chế biến
6
Rơm rạ sau khi xử lý, xếp thành từng lớp, mỗi mô chừng 3-4 lớp. Sau mỗi lớp
vừa dẫm đạp vừa tưới nước và cấy giống. Giống cấy từng điểm, cách bìa mô 5-
10 cm và cách nhau khoảng 20 cm.
Nếu nguyên liệu là rơm rạ cọng dài, người ta thường bó thành từng bó( đường
kính 10-15 cm), xoắn nhẹ nửa vòng bẻ gập lại chỗ xoắn, xếp bó sát cạnh nhau
thành 2 dãy đối xứng,đầu gập hướng ra 2 bên,mỗi mô rộng 50 đến 60cm.hai
đầu mô,các bó được xếp hình rẻ quạt. Xếp xong lớp nào cấy giống lớp ấy,lớp
tiếp sau thụt vào 5-10cm để tránh ra 2 bên.
Nếu rơm ngắn cũng bó hoặc không, xếp thành một dãy và cắt 2 đầu ngọn, mô
rộng 40cm và ko phải làm 2 đầu mô. Nếu rạ thì xếp so le, sao cho phần gốc
hướng ra 2 bên và chỉ xếp một dãy, nếu rơm tuốt máy bị rối, tơi thì nhồi vào
khuôn, khuôn bằng gỗ hoặc tôn có dạng hình thang rộng 40-50cm,dài 60-
120cm, cấy một lớp giống viền xung quanh cách mép khuôn 4-5cm.Tiếp tục
nhồi đủ 3 lớp. Lớp trên cùng trải rộng đều khắp bề mặt.
Lượng giống mỗi khuôn khoảng 200-500g. Mỗi lớp giống cấy xong dùng tay
ấn chặt, nhất là xung quanh thành khuôn.Trung bình một tấn rơm rạ khô xếp
được 75-80 mô nấm. Sau khi xếp mô xong cần phơi 1-2 nắng để tránh bề mặt
quá ướt dễ phát sinh nấm mốc.Kinh nghiệm của những người trồng nấm, người
ta còn dùng rơm rạ vụn vải xung quanh mô và đốt, vừa để sát khuẩn vừa cung
cấp muối khoáng cho nấm. Sau đó dập lửa bằng cách tưới nhẹ lớp nước
*Lưu ý:khi xếp mô nấm cần chú ý đến việc đi lại chăm sóc,giữa các lối phải
chừa lối đi 30-40cm để không dẫm đạp các nấm mọc ở chân,tốt nhất nên xếp
chiều dài mô vuông góc với lối đi chính.nếu do hướng nắng hướng gió thì xếp
song song.
c) Chăm sóc.
Sau khi cấy giống từ 3-5 ngày không cần tưới, những ngày sau khi thấy bề mặt
mô khô cần phun tưới nhẹ nước trực tiếp xung quanh, không được tưới mạnh
làm nấm tổn thương ảnh hưởng tới năng suất vì lúc này sợi nấm đã phát triển ra

ngoài thành mô. Đến ngày thứ 7-8 bắt đầu xuất hiện nấm con, 3-4 nấm đã bằng
quả táo ta, quả trứng và chỉ sau vài giờ nấm đã trở thành dạng dù. Nấm ra mật
độ dày, kích thước lớn, phải tưới 2-3 lần, mỗi lần chỉ 0,1 lít nước cho mỗi mô.
Nếu tưới quá nhiều nấm sẽ bị thối chân và chết.
d) Thu hái nấm.
Nấm rơm lớn nhanh, thường từ khi xuất hiện nụ đến thu hoạch khoảng 4- 5
ngày. Trên một mô nấm thời gian thu hoạch một đợt kéo dài 3-4 ngày, nấm ra
nhiều nhất vào ngày thứ 2- 3, còn ngày đầu ngày cuối số lượng không đáng kể.
Từ lúc trồng đến lúc thu hái hết lần một khoảng từ 15-17 ngày. Khi thu hết lần
một, khoảng 7-8 ngày sau nấm ra lần hai, và khoảng 3-4 ngày là kết thúc một
đợt nuôi trồng( thời gian một đợt khoảng khoảng 25-30 ngày). Sau đó, dọn vệ
sinh sạch sẽ, quét nước vôi, để 3-4 ngày sau có thể trồng thêm đợt nữa.
Nấm rơm được hái ở giai đoạn trứng là luc nấm có chất lượng cao nhất.
- Cách trồng nấm mỡ trên rơm rạ:
a) Chế biến nguyên liệu.
Quá trình xử lý nguyên liệu trồng nấm mỡ phải phối trộn thêm phụ gia để tạo
môi trường thích hợp cho nấm phát triển.
* Công thức 1:
7
Rơm rạ khô:1000 kg.
Đạm sunfat amon: 20 kg.
Đạm ure: 5 kg.
Bột nhẹ( CaCO
3
): 30 kg.
Supe lân: 30 kg.
* Công thức 2:
Rơm rạ khô: 1000kg.
Đạm Ure: 3 kg.
Phân gà: 150 kg.

Bột nhẹ( CaCO
3
): 30 kg.
Rơm rạ khô được làm ướt bằng nước vôi: cứ 1 tấn rơm rạ cần 10 kg vôi đã tôi,
hòa vào bể nước trong, cho vào bình ôdoa. Rơm rạ bỏ vào bể xi măng hoặc ao
hồ, kênh rạch cho ướt rồi vớt lên, cứ một lớp rơm rạ dày 20-30 cm lại tưới
một lớp nước vôi. Những vùng không có ao hồ thì phải rải rơm rạ ra sân bãi,
phun nước trực tiếp bằng máy bơm hoặc bằng bình ôdoa trong nhiều giờ( kiểu
mưa dầm) đến khi rơm rạ chuyển màu nâu thẫm, lấy nước vôi trong tưới lên
một lượt cuối cùng và ủ đống. Hoặc lợi dụng lúc trời mưa, tãi rơm rạ ra sân cho
ướt rồi tưới lại bằng nước vôi và ủ đống.
b) Ủ đống.
Rơm rạ đã làm ướt, để ráo khoảng 12 giờ, bắt đầu ủ đống. cứ 1 tấn rơm rạ đã
ráo cho thêm 5kg ure, 20kg sunfat amon, để 3-4 ngày, đảo lần thứ nhất, sau 3-4
ngày đảo lần 3, bổ sung thêm 30kg bột nhẹ ( CaCo
3
); để 3-4 ngày đảo lần 3, bổ
sung thêm 30kg lân, để 3-4 ngày đảo lần 4 rồi giữ tơi vào khay. đống ủ được để
lên kệ có đáy dày 0.2m, rộng 1.5m; dài 1.5m, (khối vuông dài 1.5m) tại điểm
giữa kệ cho cọc tre để thông khí. khi chất rơm rạ dày 30cm lại rắc một lớp hóa
chất. lúc đảo thì đảo từ trên xuống, từ trong ra ngoài. ngày đầu có thể nén chặt
rơm rạ, các lần sau không được nén để tạo thông thoáng, cho đống ủ lên men
tốt.
Cứ một tấn rơm rạ đanh đống ủ đo được 13m
3
. mỗi lần đảo lưu ý kiểm tra
nhiệt độ. lấy một nắm rơm rạ vắt nhẹ không thấy nước chảy ra tay là đống ủ
quá khô, cần bổ sung thêm nước, nếu khi vắt nước chảy ra thành dòng là đống
ủ quá ẩm ướt, cần phơi lại sau đó mới ủ đống. nếu thời gian quá nóng , gió
mạnh hay quá lạnh cần che phía ngoài đống ủ để giữ nhiệt độ. nếu trời mưa to,

đống ủ để ngoài trời phải làm mái che tránh nước thấm sâu vào trong đống ủ.
nền đất nơi đặt đống ủ phải có nơi thoát nước, nhiệt độ trong đống ủ 70
0
C đến
80
0
C vào ngày thứ tư đến ngày thứ 7 kết thúc quá trình ủ, độ ẩm đống ủ phải
đạt 65-70%, độ pH 7-7.5; rơm rạ có mùi thơm dễ chịu, không có mùi khai của
amoniac và rơm rạ có màu nâu sẫm là được.
c) Vào luống.
Có thể vò rối hoặc cuộc rơm rạ thành bó rạ, cao 18-20cm, bó vừa chặt tay, bề
mặt phẳng. trung bình 1 tấn rơm rạ khô sau khi ủ vào luống được 30-35m
2
.
Sau khi vào luống 7-8 ngày thì kiểm tra nhiệt độ trong luống, nếu đạt 28
0
C ,
không có mùi amoniac là tiến hành cấy giống.
d) Cấy giống.
Dùng que săt uốn cong để lấy giống trong chai ra. Kiểm tra thật kỹ xem giống
có bị nhiễm bệnh không( như giống có màu khác thường, màu xanh ), bẻ tơi
8
hạt giống rắc đều lên bề mặt luống, cứ một mét vuông rắc 300-350g giống. Lấy
tay hoặc cào giũ nhẹ cho các hạt giống cho nó lọt xuống 3cm-5cm. Lấp phẳng
bề mặt nguyên liệu như lúc đầu, lấy giấy báo hoặc giấy để thấm nước phủ kín
bề mặt luống. Hàng ngày tưới nước đủ ướt lớp giấy phủ. Khoảng 15 ngày sau
thì tiến hành phủ đất.
e) Đất phủ và phủ đất.
Đất phủ lên nấm mỡ là đất giàu chất hữu cơ và có dạng viên( có thể lấy từ đất
trồng lúa, hoặc đất trồng màu), độ pH=7, kích thước 0,3-1cm.

Dùng quốc, xẻng đập nhỏ đất, cho xảo thưa lắc nhẹ cho loại bỏ các hạt đất
dạng tấm, bụi rác, lấy hết đất to chỉ để lại những hạt dạng gạo tới hạt ngô là
được, mỗi mét vuông đất chừng 20-25 kg đất là được. Lấy đất đã làm sạch,
phủ lên luống dày chừng 2-2,5 cm, phủ xong tưới nhẹ một lớp nước lên bề mặt.
Sau khoảng 3-4 ngày mới tưới nước tiếp, tưới nước cho thấm toàn bộ lớp đất
phủ là được. Những ngày sau giảm dần lượng nước tưới cho tới khi thấy nấm
mọc lên( tức là sau khi phủ 15-20 ngày).
f) Chăm sóc.
Khi thấy trên luống xuất hiện các chấm trắng, lớn dần từ hạt ngô đến miệng
chén uống nước. Nếu nấm mọc nhiều thì tăng dần lượng nước tưới. Tùy theo
nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió mà điều chỉnh hệ thống cửa ra vào và lượng nước
tưới. Nên tưới nấm bằng bình ôdoa, ngửa vòi lên trên, tưới dải đều khắp bề mặt
phủ một lượt rồi quay lại tưới lượt 2,3. Không được tưới tập trung một chỗ,
không để nước thấm sâu xuống lớp giá thể.
*Cần lưu ý: Thời kì nuôi sợi, nấm không cần ôxy tự nhiên nên chỉ cần thông
thoáng vừa phải, ngày mở cửa nơi trồng nấm 2 lần, mỗi lần từ 15-20 phút là đủ.
Thời kì nấm lên,dùng nhiều ôxy tự nhiên,nồng độ CO2 trong nhà nuôi nấm
tăng lên,cần mở cửa nhiều lần trong ngày để điều hòa không khí.Nếu nhiệt độ
ngoài trời thấp hơn trong nhà,cần mở cửa để nhiệt độ hạ xuống nhanh và ngược
lại.Vì nhiệt độ trong nhà tăng cao, thông thoáng kém,nấm phát triển nhanh,
cuống dài, mũ sẽ nhỏ và cúp.
Nếu tưới nước không đủ, nấm không lên được khỏi mặt đất, cuống cũngngắn,
gốc phình to dạng củ, mũ lớn hơn bình thường và mọc thưa.
Độ ẩm không khí bão hòa kéo dài liên tục trong nhiều ngày thì quả thể nấm có
vết đen, vi sinh vật và sâu hại xuất hiện.
Nếu lượng ôxy không đủ, nấm cũng sẽ có dạng mũ bé, cuống lại to.
Nếu gió lùa nhiều, nấm sẽ chuyển sang màu vàng, mũ xuất hiện các vảy nhỏ
g)Thu hái nấm
Muốn hái nấm phải hái trước giai đoạn rách màng bao, dùng tay trái khẽ xoay
quả nấm, lấy hết phần gốc và cuống lên. Nếu nấm mọc thành cụm thì hái cả

cụm tránh hái tỉa. Sau khi hái xong cần loại bỏ phần “rễ”già, nấm nhỏ bị chết,
bổ sung đất phủ vào nơi vừa hái. Một đợt trồng nấm cho đến khi thu hoạch kéo
dài khoảng 2,5-3 tháng.
- Cách trồng nấm sò trên rơm rạ:
a) Xử lý nguyên liệu.
Có hai phương pháp xử lý nguyên liệu để trồng nấm sò.
+ Thứ 1 : Nguyên liệu từ 300 kg khô trở lên, được ủ đống trong 6-7 ngày, để
nhiệt độ đống ủ đạt 60-70
0
C , thời gian kéo dài 6-7 ngày.
9
Rơm rạ trước khi đem ủ phải làm ướt bằng nước vôi theo tỷ lệ 3,5kg vôi tôi hòa
với 1000 lít nước, ủ trong 3 ngày, đảo đống ủ, sau đó ủ tiếp 3 ngày nữa, đảo lần
2 rồi ủ tiếp 2 ngày là được. trong khi đảo, điều chỉnh độ ẩm. phía ngoài đống ủ
nên dùng nylon, bao dứa vây quanh để nhiệt độ đống ủ lên cao ( chú ý không
che kín đỉnh đống ủ).
Rơm rạ đã ủ trong 8 ngày phải đảm bảo yêu cầu: độ ẩm 65% (vắt chặt nấm rơm
rạ thấy nước ướt vân tay), nếu nước chảy thành dòng là quá ẩm, nước không
dính vân tay là quá khô, nếu nước ướt có thể trải ra phơi, nếu khô bổ sung thêm
nước, ủ lại 1-2 ngày mới trồng.
Sau khi ủ rơm rạ phải có mùi thơm, màu vàng óng, mềm là được. Thời gian ủ
8 hoặc 9 ngày tùy thuộc tính chất rơm rạ: rơm rạ mềm chỉ cần ủ 8 ngày, rơm rạ
cứng ủ 9 ngày. Sau đó băm rơm rạ thành đoạn 15-20cm hoặc nhỏ hơn càng tốt.
+ Thứ 2: Khử trùng nguyên liệu trong hơi nước ở nhiệt độ 100-125
0
C kéo dài
trong 90-180 phút.
Nguyên liệu là rơm rạ đã chặt ngắn 10-15 cm, ngâm trong nước vôi 15-20 phút,
vớt ra để ráo nước 1-2 ngày.
Nguyên liệu sau khi kiểm tra đủ độ ẩm, phối trộn thêm 5-10% bột cám gạo

hoặc bột ngô. Dồn nguyên liệu vào túi nylon chịu nhiệt, trọng lượng mỗi túi
1,5-2 kg ( túi có miệng cỡ rộng 20cm, dài 40cm), nút cổ túi bằng ống nhựa và
bông không thấm nước. đưa các túi chất vào nồi thanh trùng. nếu nồi áp suất có
nhiệt độ 121-125
0
C thì hấp trong 90 phút; nồi hấp cách thủy muốn nhiệt độ
trong túi được 95
0
C thì hấp 180 phút, để nguội 24 giờ, hấp lại lần thứ 2 như lần
1.
b) Cấy giống.
Sau khi nguyên liệu được xử lý xong thì chuẩn bị túi nylon.
Nếu trồng trên rơm rạ thì dùng túi kích thước 30×40cm. mỗi túi cấy 40-50g
(tức 40kg giống cho 1 tấn nguyên liệu). Khu vực cấy giống cần sạch sẽ , nếu có
điều kiện thì chuẩn bị một phòng riêng để hạn chế bào tử nấm mốc trong không
khí rơi vào túi nấm gây nhiễm bệnh.
Cho một lớp nguyên liệu vào túi đã gấp đáy vuông, cứ 5-7cm rắc một lớp
giống nấm xung quanh thành túi, làm như thế đủ 3 lớp, lớp trên cùng rắc giống
đều trên bề mặt. sau đó lấy bông nút miệng lại, quấn thật chặt nút túi. bịch ( túi)
nấm đã cấy giống căng tròn , độ nén vừa phải. trọng lượng một túi từ 2 đến 3
kg( với nguyên liệu là rơm rạ, bã mía), mùn cưa, bông phế thải là 1,2-1,5kg.
c) Ươm và rạch túi.
Bịch ( túi ) đã cấy giống cho vào phòng ươm, đặt lên các giá có sẵn hay đặt
trực tiếp lên nền đất theo chiều phần nút quay lên. khoảng cách giữa các bịch là
10cm.
Thời gian ươm 25-30 ngày. nhà ươm phải thoáng mát,sạch sẽ, không cần ánh
sáng. Sợi nấm sẽ phát triển ăn sâu vào nguyên liệu làm trắng hết bịch, bịch rắn
chắc. nếu giống không ăn kín nguyên liệu hoặc không phát triển có thể do
nguyên liệu nhiễm bẩn, nên vứt bỏ các bịch đó ra xa. nếu thấy bịch đó có màu
xanh, đen là di nhiễm nấm cũng vứt bỏ đi.

Sau khi cấy giống 25-30 ngày, dùng sao nhọn, sắc, rạch 4-5 đường xung
quanh, các đường rạch đều nhau, dài 3-4cm. gỡ bỏ nút bông, phơi sấy khô đưa
10
thanh trùng ở 121-125
0
C trong 90 phút để dùng lại đợt trồng sau. úp miệng túi
quay xuống và đặt túi cách nhau 15-20cm để khi nấm ra không chạm nhau.
d) Chăm sóc và thu hái.
Sau khi rạch bịch 4-6 ngày, nấm bắt đầu lên thì tưới nước. tùy theo lượng nấm
ra nhiều ít mà điều chỉnh lượng nước tưới, số lần tưới trong ngày. dùng bình
ôdoa hay bình phun sương tưới ít một nhưng kéo dài thời gian tưới sao cho bề
mặt mũ nấm lúc nào cũng có lớp nước đọng. trung bình ngày tưới nước 4-6 làn.
trong giai đoạn này độ ẩm rất quan trọng, thiếu nước “cây” nấm cằn cỗi. nhẹ
cân ăn rất dai. ngược lại, nếu tưới quá nhiều, nấm sẽ có màu vàng, thối rữa. sau
mỗi lần thu hái ngừng tưới từ 5 đến 7 ngày để nám tiếp tục ra đợt khác.
nấm sò mọc tập trung thành cụm trên thành bịch nên lúc hái phải hái cả cụm.
hái đúng độ tuổi sẽ đạt năng suất cao. hái trước lúc nấm có “làn khói trắng”
bay ra từ cây nấm ra là nấm quá già. nấm quá già ăn không ngon, dai. khi hái
không để sót các “cây” nhỏ lại, phải cấu sạch hết chân để nâm ra tiếp đợt sau.
Thời gian thu hái nấm một đợt trồng kéo dài 30-45 ngày kể từ khi hái lứa đầu
tiên.
3.2 Công suất.
Công suất thiết kế của cơ sở là: 15 tấn/ năm.
Trong đó:+ 60% là nấm sò.
+ 30% là nấm rơm.
+ 10% là nấm mỡ.
Những năm đầu tiên sau khi đầu tư( chưa ổn định) dự kiến sản xuất qua các
năm đạt công suất như sau:
+ Năm 1: 70% sản lượng = 10,5 tấn.
+ Năm 2: 90% sản lương = 13,5 tấn.

+ Năm 3: 100% sản lượng = 15 tấn.
Dự kiến sau 3 năm sản xuất đạt 100% công suất.
Trong tương lai khi phương án đi vào hoạt động có lãi, chúng tôi có thể nâng
cấp công xuất lên bằng cách đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại hoặc mở rộng
nhà xưởng theo nhu cầu của thị trường tăng.
3.3 Xây dựng và tổ chức thi công.
a) Mô tả.
Cơ sở sản xuất nấm thương phẩm được bố trí trên địa điểm được quy hoạch
trên diện tích 750m
2
. Các hạng mục xây dựng bao gồm bao gồm: Tiền thuê
đất, san lấp, xây lắp các nhà xưởng
b) Địa điểm.
Địa điểm được bố trí ở xã theo tiêu chí như sau:
+ Không ảnh hưởng đến môi trường sinh hoạt của dân cư.
+ Thuận lợi về giao thông, vận chuyển.
+ Gần nguồn điện nước.
+ Địa hình tương đối ổn định, không phức tạp.
c) Các hạng mục xây dựng.
11
Đơn vị tính: 1000 đồng
TT Hạng mục Kích
thướ
c
Khối
lượng
Đơn giá Thành tiền
1 Xây dựng
1.1 San lấp mặt bằng lu chặt từng
lớp K95%

750 m
2
12 9.000
1.2 Thuê đất 30
tr
/360m
2
62.500
1.3 Rào kẻm gai, cột BTCT,kẻm gai
đan ô 20x 20
110
m
110m 110 12.100
1.4 Nhà văn phòng 4x10 40m
2
900 36.000
1.5 Nhà cấy 5x10 50m
2
900 45.000
1.6 Nhà vệ sinh 2x5 10m
2
100 1.000
1.6 Cổng 3x3 9m
2
900 8.100
2 Lán trại 650m
2
120 78.000
3 Công lắp đặt thiết bị 100
công

40 4.000
Tổng 255.700
Ngoài ra, trong thời gian xây dựng, cơ sở tiến hành lắp đặt thiết bị phục vụ hoạt
động sản xuất như sau:
+ 01 lò xấy nguyên liệu: 20.000.000 đ.
+ 01 hệ thống thiết bị cho nhà cấy: 18.000.000 đ.
+ 01 hệ thống phun tưới: 15.000.000 đ.
Thời gian xây dựng các hạng mục được thực hiện trong 4 tháng.
3.4 Môi trường của dự án.
Cơ sở sản xuất được thực hiện ở vị trí không ảnh hưởng đến sinh hoạt của dân
cư, tổ chức khép kín. Đảm bảo, về vệ sinh môi trường. Mặt khác, trồng nấm là
xúc tiến quá trình tuần hoàn hữu ích trong nông nghiệp( rơm, rạ, mùn cưa,
bông vun…) đến trồng nấm, sau trồng nấm bã nấm chế biến thành phân bón
hữu cơ trả lại cho cây trồng. Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng quá trình sản
xuất của cơ sở không gây hại đến môi trường.
* Kết luận: Qua các điều trình bày trên ta có thể thấy được rằng, việc tiến hành
đầu tư cơ sở sản xuất nấm là phù hợp với điều kiện về mội trường và với một
công nghệ sản xuất không quá phức tạp chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện
được.
4. Phân tích tài chính và hiệu quả kinh tế của dự án.
Phương án xây dựng cơ sở sản xuất nấm của chúng tôi sẽ sản xuất 15 tấn nấm
mỗi năm cung cấp cho các vùng lân cận.
4.1 Nhu cầu vốn đầu tư.
- Tổng giá trị vốn đầu tư: 365.005.000 đ.
- Thiết bị: 53.000.000 đ.
- Xây lắp: 255.700.000 đ.
- Chi phí khác: 46.305.000 đ.
- Chi phí dự phòng: 10.000.000 đ.
4.2 Nhu cầu về vốn lưu động.
12

Vốn lưu động năm đầu tiên đi vào hoạt động sản xuất, sẽ được lấy từ nguồn
vốn tự có. Các năm tiếp theo nguồn vốn tự có sẽ được bổ sung từ dự án, khi dự
án đi vào hoạt động có lãi.
Tổng nguồn vốn lưu động cần sử dụng là: 78.921.680 đ.
4.2 Nguồn vốn đầu tư.
Vốn cố định: Vay dài hạn từ ngân hàng thương mại với lãi suất 26%( 2%/tháng
cộng 2% phí/năm.).
Vốn lưu động: Được huy động từ nguồn vốn tự có của bản thân chủ cơ sở.
4.3 Bảng cân đối kế toán tại thời điểm cơ sở đi vào hoạt động sản xuất.
Dự kiến tại thời điểm cơ sở đi vào sản xuất ta có bảng cân đối kế toán đợn giản
của cơ sở như sau:
Đơn vị: đồng
Tài sản Số tiền Nguồn vốn Số tiền
1 2 3 4
A. Tài sản lưu động và đầu
tư ngắn hạn
78.921.680 A. Nợ phải trả. 300.000.000
1. Tiền 78.921.680 1. Nợ ngắn hạn.
2. Các khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn.
2. Nợ dài hạn. 300.000.000
3. Các khoản phải thu. 3. Nợ khác.
4. Hàng tồn kho.
5. Tài sản lưu động khác.
6. Chi sự nghiệp.
B. Tài sản cố định, đầu tư
dài hạn.
365.005.000 B. Nguồn vốn chủ
sở hữu.
143.926.680

1. Tài sản cố định. 365.005.000 1. Nguồn vốn, quỹ. 143.926.680
2. Các khoản đầu tư tài
chính.
2. Nguồn kinh phí,
quỹ khác.
3. Chi phí đầu tư xây dựng
co bản dở dang.
4. Các khoản thu quy, ký
cược dài hạn
Tổng cộng tài sản. 443.926.680 Tổng cộng nguồn
vốn.
443.926.680
4.4 Phân tích tài chính.
4.4.1 Thống kê chi phí, doanh thu.
Công suất thiết kế: 15 tấn/ năm. Trong đó: 60% nấm sò; 30% nấm rơm; 10%
nấm mỡ).
Ngày sản xuất thực tế: 250 ngày/năm( ngày làm 8 tiếng, sáng: 7
h
-11
h
, chiều:1
h

-5
h
).
Những năm đầu tiên sau khi đầu tư( chưa ổn định) dự kiến sản xuất qua các
năm đạt công suất như sau:
13
+ Năm 1: 70% sản lượng = 10,5 tấn.

+ Năm 2: 90% sản lương = 13,5 tấn.
+ Năm 3: 100% sản lượng = 15 tấn.
Dự kiến sau 3 năm sản xuất đạt 100% công suất.
-Hạch toán doanh thu:
Giá thành sản xuất sản phẩm dự kiến như sau:
+ Nấm sò: 20.000 đ/1kg.
+ Nấm rơm: 50.000 đ/1kg.
+ Nấm mỡ: 35.000 đ/1kg.
Doanh thu hàng năm như sau:
+ Năm 1: 320.250.000 đ.
+ Năm 2: 411.750.000 đ.
+ Từ năm thứ 3 trở đi: 475.500.000 đ.
- Hạch toán các khoản chi phí:
Phân bổ khấu hao tài sản cố định theo quy định số 206/2003/QĐ-BTC ngày
12/12/2003 của Bộ Tài Chính. Khấu hao tài sản theo khung như sau;
+ Khấu hao hệ thống hàng rào, lán trại trong 5 năm, mỗi năm dự trù khấu hao:
18.020.000 đ.
+ Khấu hao phần xây dựng trong 10 năm, mỗi năm dự trù khấu hao: 9.010.000
đ.
+ Khấu hao lò xấy nguyên liệu trong 10 năm, mỗi năm dự trù khấu hao:
2.000.000 đ.
+ Khấu hao thiết bị trong nhà cấy trong 10 năm, mỗi năm dự trù khấu hao:
1.800.000 đ.
+ Khấu hao hệ thống tưới nước trong 6 năm, mỗi năm dự trù khấu hao:
2.500.000 đ.
* Chú ý: Phương pháp tính khấu hao là phương pháp khấu hao đường thẳng.
Chi phí lương nhân công: 10 nhân công( 1.000.000 đ 1 người/tháng)-
120.000.000 đ.
Chi phí rơm rạ sử dụng làm nguyên liệu qua các năm:( đơn giá: 500 đ/1 kg.)
+ Năm 1: 29.925.000 đ.

+ Năm 2: 38.475.000 đ.
+ Từ năm thứ 3 trở đi: 42.750.000 đ.
Chi phí giống trồng nấm qua các năm: (đơn giá: 15.000 đ/1 kg).
+ Năm 1: 23.152.500 đ.
+ Năm 2:29.767.500 đ.
+ Từ năm thứ 3 trở đi: 33.075.000 đ.
Các chi phí khác được tính 200.000 đ/1 tấn rơm ra.
Trong đó:
+ Năm 1: 11.970.000 đ.
+ Năm 2: 15.390.000 đ.
+ Từ năm thứ 3 trở đi: 17.100.000 đ.
Chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng được tính bằng 5% doanh thu.
Trong đó:
+ Năm 1: 16.012.500 đ.
+ Năm 2: 20.587.500 đ.
14
+ Từ năm thứ 3 trở đi: 23.775.000 đ.
Lãi vay trả trong 3 năm( 20,4%/năm), mỗi năm trả: 61.200.000 đ.
Trả gốc hàng năm: 100.000.000 đ.
Thuế suất hàng năm( tính từ năm có lãi)là: 28%.
4.4.2 Các chỉ số phản ánh hiệu quả đầu tư.
a) Giá trị hiện tại thuần(NPV).
Qua bảng tính trang bên ta tính được NPV của dự án là: 150.610.000 đ > 0.
Như vậy, trong 10 năm của thời kỳ phương án đầu tư, thu nhập của dự án sau
khi quy về hiện tại là dương. Vậy dự án có hiệu quả.
b) Tỷ suất sinh lời nội bộ( IRR).
Từ bảng tính trên ta tính được IRR của dự án là: 54% > 26%( lãi xuất vay vốn
đầu tư).Như vậy, phương án này có khả năng sinh lời.
c)Thời gian hoàn nợ giản đơn.
Nhìn vào bảng luồng tiền qua từng năm ta có thể thấy được rằng sau một năm

dự án đi vào sản xuất kinh doanh thì năm thứ 2 đã hoàn trả vốn và có lãi. Vậy
đự án là hoàn toàn khả thị.
15
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Vay 300
Xây dựng cơ bản 255.7
Thiết bị 53
Dự phòng 10
Chi phí khác 46.305
Doanh thu 320.25 411.75 475.5 475.5 475.5 475.5 475.5 475.5 475.5 475.5
Chi phí 295.59 318.75 331.23 270.03 270.03 252.01 249.51 249.51 249.51 249.51
- Lương 120 120 120 120 120 120 120 120 120 120
- Mua rơm, rạ 29.925 38.475 42.75 42.75 42.75 42.75 42.75 42.75 42.75 42.75
- Mua giống 23.1525 29.7675 33.075 33.075 33.075 33.075 33.075 33.075 33.075 33.075
- Chi phí khác 11.97 15.39 17.1 17.1 17.1 17.1 17.1 17.1 17.1 17.1
- Chi phí quản lý, bán hàng 16.0125 20.5875 23.775 23.775 23.775 23.775 23.775 23.775 23.775 23.775
- Khấu hao 33.33 33.33 33.33 33.33 33.33 15.31 12.81 12.81 12.81 12.81
- Lãi vay 61.2 61.2 61.2
Lợi nhuận trước thuế 24.66 93 144.27 205.47 205.47 223.49 225.99 225.99 225.99 225.99
Thuế 6.9048 26.04 40.3956 57.5316 57.5316 62.5772 63.2772 63.2772 63.2772 63.2772
Lợi nhuận sau thuế 17.7552 66.96
103.874
4
147.938
4
147.938
4
160.912
8
162.712

8
162.712
8
162.712
8 162.7128
Trả gốc 100 100 100
Lãi ròng -65.005
-
48.9148 0.29 37.2044
181.268
4
181.268
4 176.2228 175.5228 175.5228 175.5228 175.5228
NPV
$150.6
1
IRR 54%
(Đơn vi: triệu đồng)
16
17
5. Hiệu quả về mặt kinh tế xã hội.
Khi phương án đầu tư hoàn thành, đưa vào hoạt động sẽ mang lại những hiệu
quả kinh tế sau:
- Tăng sản lượng nấm toàn vùng.
- Góp phần giải quyết một số vấn đề kinh tế xã hội ở địa phương.
- Đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất
trên một đơn vị diện tích và nâng cao hiệu quả sản xuất của nông
nghiệp, góp phần thực hiện cánh đồng 50 triệu.
- Tăng thêm doanh thu cho chủ đầu tư.
- Tăng thêm lợi nhuận cho chủ đầu tư.

- Tăng thêm khoản nộp thuế cho nhà nước.
- Tạo thêm hàng trăm công lao động, tăng thêm thu nhập cho xã hội mỗi
năm hàng chục triệu đồng.
PHẦN 2: CHIÊN LƯỢC KINH DOANH, KẾ HOẠCH KINH DOANH
CỦA DỰ ÁN.
1. Chiến lược kinh doanh.
1.1 Thực trạng của nghề trồng nấm ở nước ta.
Theo phân tích đã nói ở trên, trồng nấm không cần nhiều diện tích, vốn đầu tư
thấp, kỹ thuật không khó lắm nếu so với hoa lan, cây kiểng nhưng lại tạo ra
nhiều giá trị vượt trội so với cây trồng và vật nuôi khác, gấp 20 lần so với trồng
lúa và cả chục lần so với trồng rau…
Tuy nhiên, hàng chục năm nay nghề trồng nấm ở nước ta vẫn bình bình, nhìn
tổng thể thì không lên cũng không xuống được bao nhiêu. Tổng sản lượng nấm
của nước ta nhiều năm nay chỉ giao đông xung quanh con số 150 nghìn tấn.
Đồng bằng sông Cửu Long cung ứng phần lớn nấm rơm cho cả nước và 1 kg
nấm rơm tươi xuất khẩu cũng có giá tới 7 USD , nhưng ở đó nấm chỉ đứng sau
tôm cá.
Bên cạnh đó, thống kê của ngành nông nghiệp cũng cho thấy, tổng sản lượng
quy lúa của nước ta khoảng 40 triệu tấn mỗi năm và lượng phụ phẩm cũng
tương đương. Nếu kể thêm các phế phẩm khác như mạt cưa, xác cà phê, điều,
mía đường… thì ta sẽ có nguồn nguyên liệu gần như vô tận để chế biến nấm.
Trên thị trường quốc tế, việc xuất khẩu nấm ăn của chúng ta không được thuận
lợi do vướng phải những tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu.
1.2 Chiến lược kinh doanh của cơ sở.
Đánh giá chung về cơ sở có thể nhận thấy một điểu đơn giản như sau. Trước
tiên chúng tôi là một cơ sở nhỏ bé, các trang thiết bị còn chưa hiện đại, khó
lòng cạnh tranh với các công ty đang hoạt động lâu năm trong lĩnh vực sản xuất
nấm thương phẩm. Do vậy, chiến lược kinh doanh của chúng tôi là một chiến
lược của một công ty mới gia nhập thị trường gồm những đặc điểm sau:
- Nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần tiêu thụ nấm ăn trong miền Bắc, đặc

biệt chú trọng các thi trường là các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải
Dương, Bắc Ninh và tại thị trường trong tỉnh.
- Gây dựng một thương hiệu nấm ăn uy tín, từng bước tiến ra thị trường
nước ngoài.
- Biến cơ sở thành một công ty khép kín trong quy trình sản xuất nấm( từ
khâu tạo giống, sản xuất nấm, chế biến).
18
- Đa dạng hóa các loại nấm sản xuất, tập trung vào các loại nấm dược liệu
có giá trị cao.
- Cạnh tranh bằng cách tạo ra những giá trị khác biệt cho khách hàng.
1.3 Kế hoạch kinh doanh.
Kế hoạch kinh doanh được thực hiện trong 5 năm tới. Nội dung cụ thể như sau:
- Từng bước củng cố hệ thống địa điểm tiêu thu, tạo ra sự tin tưởng của
người tiêu thụ với doanh.
- Bước đầu tạo dựng thương hiệu nấm đảm bảo chất lượng.
- Tạo sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ sở với cơ quan cung cấp giống, đảm bảo
nguồn giống có chất lượng đảm bảo, hợp tác trong quá trình chuyển giao
lỹ thuật nuôi trồng và sản xuất nấm.
- Đầu tư từng bước vào đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật lành nghề, tạo
điều kiện nâng cao năng suât lao động.
- Phối hợp cùng các cơ sở khác thành lập 1 hiệp hội sản xuất và nuôi
trồng nấm Việt Nam là nơi để các doanh nghiệp có thể trao đổi kinh
nghiệm sản xuât, kinh doanh. Và cung giúp đỡ nhau trong việc đẩy
mạnh xuất khẩu nấm ăn.
1.4 Kế hoạch hành động cụ thể
- Về sản phẩm: Trước tiên, phải tạo ra được một sản phẩm có chất lượng cao.
Đây la vấn đề cốt lõi nhất đặt ra cho cơ sơ, bởi vì chỉ có sản phẩm tốt mới có
thể thu hút được nhiều người sử dụng. Do đó, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình
trồng và chăm sóc nấm là điều phải đặt ra hàng đầu đối với công nhân.
- Về mặt lao động: Do lao động sử dụng là lao động phổ thông, chưa qua đào

tạo về kỹ thuật trồng và chăm sóc nấm. Vì vậy, tổ chức lớp học cho công nhân
trước khi đưa họ vào sản xuất bằng cách: Hợp tác với trung tâm giống cây
trồng trong việc đào tạo công nhân. Địa điểm tổ chức là tại sơ sở sản xuât.
- Về mặt thị trường: Nhận thấy thị trường Hà Nội là một thị trường tiềm năng,
bởi số lượng tiêu thụ lớn. Cơ sở chú trọng đưa sản phẩm ra các nhà hàng, quán
ăn trong địa bàn thành phố và tiến tới ký hợp đồng cung cấp sản phẩm cho các
khách sạn. Củng cố vững chắc địa bàn Hà Nội từ đây ta tiến tới các địa bàn
khác, trong đó tập trung vào địa bàn tỉnh vì ở đây có chi phí vận chuyển là thấp
nhất.
- Về nguyên liệu: Ký hợp đồng với các hộ nông dân trong địa bàn xã về việc
cung cấp rơm rạ sau khi thu hoạch, và bán các phế phẩm của quá trình sản xuất
cho nông dân làm phân bón. Mục tiêu, tạo ra nguồn cung ổn định về nguyên
liệu.
- Về mặt công nghệ: Sau khi dự án hoàn vốn vay và có lãi sẽ từng bước đầu tư
vào trang thiết bị nhà xưởng, nhằm nâng cao năng suât nấm trên một tấn rơm
rạ. Đồng thời đầu tư vào thiết bị bảo quản nấm: thùng lạnh, máy ozon.
PHẦN 3: RỦI RO VÀ PHƯƠNG ÁN KHẮC PHỤC
Trồng nấm là việc đơn giản xong không phải là không có rủi ro trong khi sản
xuất.
Trước hết, rủi ro lớn nhất của việc trồng nấm là vấn đề dịch bệnh hại nấm, và
chuột bọ phá hoại. Để tránh rủi ro này cần phải tuân thủ các quy tắc vệ sinh
trong khi nuôi trồng và thu hoạch. Công tác vệ sinh cơ sở phải được đảm bảo
làm ngay sau mỗi đợt thu hoạch
19
Tiếp theo đó là thị trường, xu hướng trồng nấm đang rộ lên, nếu trong một vài
năm tới phong trào trồng nấm lại rộ lên, nguồn cung ra quá nhiều khiến thị
trường bị chia sẻ và do vậy ảnh hưởng tới doanh thu của cơ sơ. Để khắc phục
được ta cần phải xây dựng mạng lưới tiêu thu đáng tin cậy, đảm bảo quá trình
tiêu thu không bị gián đoan, ta có thể giảm chi phí để giảm giá thành, cạnh
tranh hơn.

Một điều rất quan trọng nữa là nhiệt độ. Trong thời gian qua nhiệt độ biến động
lớn và có nhiều điểm không đúng như hằng năm. Nấm chỉ thích hợp trồng ở
một nhiệt độ nhât đinh. Cho nên, việc đầu tư vào hệ thống đèn nhân tạo, và
quạt gió điểu chỉnh sao cho phù hợp nhât cần phải được quan tâm.
20

×