Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tieu luan quan he giua luat su voi khach hang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.27 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT SƯ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ

ĐỀ TÀI:

QUAN HỆ GIỮA LUẬT SƯ VỚI KHÁCH HÀNG
– THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Họ và tên
Ngày sinh
Lớp
SBD

:
:
:
:


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2021

2


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
I. Quan hệ giữa luật sư với khách hàng.....................................................................1
1. Xác định quan hệ luật sư – khách hàng..............................................................1


1.1. Khái niệm khách hàng của luật sư................................................................1
1.2. Khái niệm về quan hệ giữa luật sư với khách hàng......................................2
1.3. Đặc trưng của quan hệ luật sư – khách hàng...............................................2
2. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư trong mối quan hệ với khách hàng. .3
3. Một số khía cạnh trong mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng....................3
3.1. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trong việc tiếp nhận và thực hiện
yêu cầu của khách hàng................................................................................4
3.2. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trong việc sử dụng thơng tin và
giữ bí mật thơng tin khách hàng...................................................................4
3.3. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trong việc thực hiện pháp luật về
tố cáo tội phạm.............................................................................................5
3.4. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng về thù lao của luật sư trong hoạt
động cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng...........................................6
3.5. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trong việc giải quyết mâu thuẫn,
khiếu nại.......................................................................................................7
II.Thực trạng và giải pháp..........................................................................................8
1. Một số vụ kiện thực tế liên quan đến mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng8
2. Giải pháp............................................................................................................10
KẾT LUẬN................................................................................................................. 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................12


Đề tài: QUAN HỆ GIỮA LUẬT SƯ VỚI KHÁCH HÀNG
– THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, ở bất cứ giai đoạn nào cũng tồn tại
những điều bất công, con người ln có nhu cầu muốn được bênh vực, bảo vệ. Từ
những bất công ấy đã xuất hiện một số người dũng cảm, can đảm đứng ra bênh vực lẽ
phải, bảo vệ kẻ yếu nhằm mục đích duy trì ánh sáng công lý và sự thật khách quan của
sự việc. Trải qua nhiều giai đoạn với tên gọi khác nhau đến nay những người ấy được

gọi là luật sư và nghề nghiệp luật sư từ đó đã ra đời.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946 (Điều 67)
đã khẳng định quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư bào chữa là quyền quan trọng của
bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân. Trong chặng đường phát triển
hơn 75 năm từ bản Hiến pháp đầu tiên đến nay, nền tư pháp dân chủ nước ta ngày càng
hoàn thiện, các giá trị về quyền con người ngày càng được tơn trọng thì nhu cầu được
bênh vực, bảo vệ; được bào chữa; được đại diện; được tư vấn, giúp đỡ của không chỉ
bị cáo mà là của toàn dân ngàycàng nhiều. Nghề luật sư tại Việt Nam cũng dần có
được vị thế vốn có của nó.
Trong những cơ sở dùng làm thước đo đánh giá vị trí, vai trị và hiệu quả hoạt
động của luật sư, nghề luật sư thì mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng là một
trong những yếu tố quan trọng mang tính quyết định sự sống cịn của nghề luật sư.
Xuất phát từ những ý nghĩa trên, đề tài "Quan hệ giữa luật sư với khách hàng –
Thực trạng và giải pháp" là một trong những đề tài khá quan trọng, có ý nghĩa thiết
thực cho những ai quan tâm đến nghề nghiệp luật sư. Để hiểu sâu hơn, chúng ta hãy
cùng đi sâu vào nghiên cứu đề tài ấy.
NỘI DUNG
I. Quan hệ giữa luật sư với khách hàng
1. Xác định quan hệ luật sư – khách hàng
1.1. Khái niệm khách hàng của luật sư
Khách hàng của luật sư là tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức 1 mà luật sư đã,
đang hoặc dự định sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý trong quá trình hành nghề của mình.
Luật sư thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý chỉ khi có yêu cầu của khách hàng.
Trong trường hợp luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cơ quan tiến hành
tố tụng thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng được xem là “khách hàng đặc biệt” của luật
sư khi là nơi đưa ra yêu cầu và trả thù lao cho luật sư, tuy nhiên khách hàng thực thụ
1 Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012.

1



vẫn là những người có các vấn đề pháp lý cần dịch vụ của luật sư mà khơng có điều
kiện tiếp cận.
1.2. Khái niệm về quan hệ giữa luật sư với khách hàng
Trong các mối quan hệ giữa luật sư với các chủ thể khác trong quá trình hành
nghề, thì mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng là mối quan hệ nền tảng làm phát
sinh các mối quan hệ khác. Về mặt pháp lý, mối quan hệ này là mối quan hệ dân sự
được thiết lập trên cơ sở tự nguyện của hai bên được thể hiện qua Hợp đồng cung cấp
dịch vụ pháp lý nên chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, dịch vụ được
cung cấp là dịch vụ pháp lý – một loại dịch vụ đặc biệt nên còn chịu sự điều chỉnh của
các quy phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật về luật sư.
1.3. Đặc trưng của quan hệ luật sư – khách hàng
Đặc trưng đầu tiên và cũng là cơ bản nhất chính là: quan hệ giữa khách hàng và
luật sư là quan hệ làm phát sinh hoạt động nghề nghiệp luật sư. Bởi lẽ nghề luật sư là
nghề luật cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý
như tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm phán, thương lượng về các vấn
đề pháp luật và có thể đại diện cho thân chủ hoặc bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của khách hàng trước Toà án trong quá trình tiến hành tố tụng, luật sư được nhận thù
lao và chi phí do khách hàng chi trả để sinh sống. Sự thành bại trong nghề nghiệp của
luật sư phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng. Danh dự, uy
tín, phản hồi tích cực hay tiêu cực trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư gắn liền
với quá trình thực hiện mối quan hệ này.
Thứ hai, đây là quan hệ có thù lao giữa luật sư là bên cung cấp dịch vụ pháp lý và
khách hàng là bên sử dụng dịch vụ đó. Khơng thể phủ nhận cũng giống như bất cứ
người làm ngành nghề nào khác, luật sư làm việc là vì tiền nhưng luật sư làm việc
khơng phải chỉ vì tiền mà cịn vì ước mơ cơng lý, đấu tranh cho một nền công lý ngày
càng sáng tỏ trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhân ái, vì những mảnh
đời nghèo khổ bất hạnh chịu oan khuất bất công.
Thứ ba, quan hệ luật sư – khách hàng dựa trên cơ sở sự hợp pháp và chính đáng,
khơng phải chỉ là bảo vệ quyền lợi cho khách hàng mà cịn vì một chức năng cao cả

hơn như nêu tại Điều 3 Luật Luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012 (sau
đây gọi tắt là “Luật Luật sư”): “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ
công lý, các quyền tự do, dân chủ của cơng dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, luật sư khơng có
nghĩa vụ đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng. Luật sư có quyền từ chối cung cấp dịch
vụ pháp lý nếu yêu cầu của khách hàng khơng có căn cứ. Nếu u cầu của khách hàng
vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc việc đó dẫn đến việc luật sư vi phạm pháp
2


luật hoặc quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư thì luật sư phải từ chối thực hiện yêu
cầu của khách hàng.
2. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư trong mối quan hệ với khách hàng
Bản chất quan hệ của luật sư và khách hàng là quan hệ pháp luật dân sự dựa
trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện thoả thuận 2. Dưới góc độ quan hệ xã hội, quan
hệ này không chỉ thuần tuý là quan hệ dân sự mà còn là quan hệ đối tác, hợp tác, quan
hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa luật sư và khách hàng. Hơn ai hết luật sư – người bảo vệ quyền
lợi của khách hàng trong các quan hệ xã hội đời thường của họ, là người đầu tiên cần
hành xử chuẩn mực và phải đảm bảo tuân thủ đúng các yêu cầu đạo đức, pháp luật
trong chính quan hệ với khách hàng mà mình cung cấp dịch vụ trước nhất. Chính vì
vậy, Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo
Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc,
sau đây gọi là “Bộ quy tắc”) đã dành một chương quan trọng chiếm hơn một phần ba
nội dung của Bộ quy tắc gồm 12 quy tắc và được chia thành bốn nhóm quy tắc với
những quy định rất cụ thể, xác định tương đối rõ ràng các ranh giới xử sự của luật sư
trong quan hệ với khách hàng nhằm hệ thống hoá, minh bạch hoá các quyền và nghĩa
vụ cụ thể trong quan hệ luật sư – khách hàng.
Nhóm quy tắc cơ bản
Quy tắc 5. Bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng

Quy tắc 6. Tôn trọng khách hàng
Quy tắc 7. Giữ bí mật thơng tin
Quy tắc 8. Thù lao
Quy tắc 9. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng
Nhóm quy tắc nhận vụ việc
Quy tắc 10. Tiếp nhận vụ việc của khách hàng
Quy tắc 11. Những trường hợp luật sư phải từ chối khi tiếp nhận vụ việc của
khách hàng
Nhóm quy tắc thực hiện vụ việc
Quy tắc 12. Thực hiện vụ việc của khách hàng
Quy tắc 13. Từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc của khách hàng
Quy tắc 14. Giải quyết khi luật sư đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp

Quy tắc 15. Xung đột về lợi ích
Quy tắc kết thúc vụ việc
Quy tắc 16. Thông báo kết quả thực hiện vụ việc
3. Một số khía cạnh trong mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng
2 Học viện tư pháp, Giáo trình Luật sư và nghề luật sư, NXB Tư Pháp, Hà Nội, 2020, tr114.

3


3.1. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trong việc tiếp nhận và thực hiện
yêu cầu của khách hàng
Tiếp nhận yêu cầu của khách hàng là điều kiện làm phát sinh mối quan hệ luật sư
– khách hàng. Khách hàng tìm đến luật sư là đầy đủ mọi thành phần trong xã hội, luật
sư đối xử bình đẳng, không lựa chọn khách hàng, không phân biệt đối xử dù họ có giới
tính, dân tộc, tơn giáo, quốc tịch, tuổi tác, sức khỏe, khuyết tật như thế nào, tình trạng
tài chính ra sao. Tuy nhiên khơng phải u cầu nào của khách luật sư cũng có thể tiếp
nhận, vì với nghề nghiệp luật sư một trong những nguyên tắc được xem là quan trọng

nhất chính là nguyên tắc “Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan”, luật sư
chỉ tiếp nhận những vụ việc mà trong đó luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của khách hàng, có quyền từ chối những yêu cầu không thuộc phạm
vi hành nghề luật sư hoặc trái đạo đức, trái pháp luật. Thêm vào đó ngay từ ban đầu
hoặc trong quá trình xử lý, luật sư cần phải từ chối những vụ việc mà có dấu hiệu xung
đột về mặt lợi ích do ảnh hưởng từ quyền và nghĩa vụ của luật sư đối với khách hàng
hiện tại, khách hàng cũ, bên thứ ba dẫn đến luật sư bị hạn chế hoặc có thể bị hạn chế,
khơng cịn vơ tư, khách quan khi thực hiện nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
khách hàng.
Một khi đã quyết định tiếp nhận luật sư phải có trách nhiệm, tận tâm trong việc
thực hiện vụ việc của khách hàng và khơng được chuyển giao vụ việc mà mình đang
đảm nhận cho luật sư khác hoặc ngược làm thay vụ việc của luật sư khác trừ trường
hợp khách hàng đồng ý. Luật sư luôn tôn trọng ý kiến và sự lựa chọn của khách hàng
bởi lẽ luật sư giải quyết vụ việc không vượt quá phạm vi yêu cầu chính đáng của
khách hàng. Khi làm việc với khách hàng sẽ khơng tránh khỏi những khó khăn, vướng
mắc, luật sư khi đó cần nhanh chóng thơng tin cho khách hàng, giải đáp các thắc mắc,
chủ động, tích cực giải quyết xung đột ngay từ đầu để tránh xảy ra mâu thuẫn, xung
đột về lợi ích giữa khách hàng và luật sư.
3.2. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trong việc sử dụng thơng tin và
giữ bí mật thơng tin khách hàng
Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp luật sư, công việc tiếp nhận và xử lý
thông tin từ khách hàng là một công việc chủ yếu mà luật sư cần thực hiện. Vì khách
hàng tìm đến Luật sư thường là gặp các vấn đề rắc rối về mặt pháp lý hoặc muốn đề
phòng những rủi ro pháp lý cần sự giúp đỡ của luật sư. Để giải quyết vấn đề của khách
hàng, điều kiện tiên quyết là luật sư cần phải biết những thông tin về khách hàng.
Thông tin của khách hàng là những gì khách hàng đã nói, viết, trao đổi, truyền đạt, tiết
lộ cho luật sư biết hoặc do luật sư thu thập được bằng các biện pháp hợp pháp trong
quá trình giải quyết vụ việc. Thông tin về khách hàng bao gồm nhưng không giới hạn
như: thông tin về vụ, việc mà khách hàng đang gặp phải, thơng tin cá nhân của khách
hàng, bí mật đời tư của khách hàng, tình hình tài chính, bí mật kinh doanh của khách

4


hàng,… Luật sư không được sử dụng thông tin biết được từ vụ, việc mà luật sư đảm
nhận để mưu cầu lợi ích khơng chính đáng.
Tiếp theo, để có được thơng tin từ khách hàng, ngồi việc có năng lực chun
mơn, có kỹ năng nghề nghiệp mà luật sư cịn phải gây dựng niềm tin của khách hàng
với luật sư, đảm bảo với khách hàng về việc giữ bí mật thơng tin của họ. Có vậy khách
hàng mới tin tưởng và chia sẻ đầy đủ thông tin cho luật sư. Tại điểm c, khoản 1 Điều 9
Luật Luật sư có quy định: Nghiêm cấm luật sư tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách
hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý
bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.
Tại sao lại phải cấm luật sư tiết lộ thông tin của khách hàng?
Giữ gìn bí mật thơng tin về khách hàng là một trong những nét đặc thù của nghề
luật sư, là một trong những yếu tố tạo nên uy tín và sự thành cơng của luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư; đồng thời giữ bí mật thơng tin về khách hàng còn là nghĩa vụ pháp
lý, và là một trong những quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, cụ thể
Quy tắc 7 trong Bộ quy tắc quy định: Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thơng tin của
khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và sau khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường
hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. Luật sư có trách
nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên trong tổ chức hành nghề
của mình cam kết khơng tiết lộ những bí mật thơng tin mà họ biết được và luật sư có
trách nhiệm giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Do đó, trong mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng thì việc giữ gìn bí mật
thơng tin khách hàng có ý nghĩa quan trọng, sâu sắc. Mối quan hệ này xuất phát từ khi
luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng và kéo dài một thời gian dài, kể cả
khi hợp đồng đó kết thúc. Nếu vi phạm, tuỳ theo mức độ ảnh hưởng của nguồn thơng
tin bị tiết lộ, luật sư có thể chịu nhiều loại chế tài khác nhau, trong đó có cả chế tài
hình sự.
3.3. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trong việc thực hiện pháp luật về

tố cáo tội phạm
Khi làm việc với khách hàng, luật sư không tránh khỏi những trường hợp thông
tin vi phạm pháp luật nằm trong hoặc ngoài phạm vi vụ, việc khách hàng đã vơ tình
tiết lộ, mặc dù cơng việc của luật sư là phải bảo vệ khách hàng, tuy nhiên khi đối mặt
với những tình huống trên pháp luật có quy định trong những trường hợp nhất định
luật sư phải thực hiện nghĩa vụ tố giác tội phạm từ nguồn thông tin của khách hàng mà
luật sư biết được trong quá trình giải quyết vụ việc cho khách hàng. Bởi lẽ, sứ mệnh
của luật sư là bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ sự độc lập của tư pháp, góp phần bảo
vệ cơng lý, công bằng, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền
5


Việt Nam xã hội chủ nghĩa3. Luật sư phải là gương mẫu trong việc tham gia tố giác tội
phạm để bảo vệ cơng lý.
Pháp luật hình sự quy định buộc luật sư phải tố giác thân chủ của mình điều là
những tội mà người phạm tội có hành vi gây nguy hiểm cao cho xã hội. Căn cứ khoản
3 Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “người
không tố giác là người bào chữa khơng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định
tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII
của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà
mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa
biết rõ khi thực hiện việc bào chữa”. Theo đó, có 87 tội4 trong rất nhiều lĩnh vực mà
luật sư phải có nghĩa vụ tố giác thân chủ của mình, một vài ví dụ như: Các tội xâm
phạm an ninh quốc gia: Điều 108, Điều 109, Điều 110, Điều 111, Điều 112, Điều 113,
Điều 114, Điều 115, Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 120, Điều 121;
Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người: Điều 123,
Điều 141, Điều 142, Điều 149, Điều 150, Điều 151, Điều 154; Các tội phạm về ma
túy: Điều 248, Điều 249, Điều 250, Điều 251, Điều 252, Điều 253, Điều 255, Điều
257, Điều 258; Các tội phạm tham nhũng: Điều 353, Điều 354, Điều 355, Điều 357,

Điều 358, Điều 359;… ;
Luật sư phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm nếu khơng tố giác
thân chủ của mình trong trường hợp thân chủ phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia
hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do thân chủ đang chuẩn bị, đang thực
hiện hoặc đã thực hiện mà luật sư biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.
Như vậy, nghĩa vụ tố giác tội phạm của luật sư phải được đặt cao hơn nghĩa vụ
bảo vệ quyền lợi của khách hàng trên những cơ sở pháp luật hình sự quy định.
3.4. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng về thù lao của luật sư trong hoạt
động cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng
a. Đối với khách hàng thông thường:
Khách hàng khi sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư có nghĩa vụ trả thù lao cho
luật sư. Tuỳ vào yêu cầu của khách hàng mà luật sư có đưa ra mức thù lao hợp lý đúng
theo quy định của pháp luật dựa trên các căn cứ: Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp
lý; Thời gian và công sức của luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý; Kinh
nghiệm và uy tín của luật sư. Việc tính chi phí về thù lao khi thực hiện cơng việc cho
khách hàng thì luật sư cần căn cứ thật kỹ về bản chất của cơng việc. Vì:
3 Quy tắc 1 Bộ quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐHĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc).
4 Phạm Hằng, 87 tội danh buộc Luật sư phải tố giác thân chủ, nguồn: />
6





Nếu luật sư lấy thù lao quá thấp thì sẽ khơng đủ kinh phí thực hiện vụ, việc
của khách hàng và duy trì hoạt động nghề nghiệp cũng như cuộc sống.
Cịn nếu lấy q cao thì khách hàng sẽ bỏ đi tìm nơi khác. Từ đó dẫn đến
luật sư sẽ khơng có khách hàng, từ việc khơng có khách hàng sẽ khơng có
kinh phí dẫn đến “đóng cửa”.


Sau khi thực hiện xong yêu cầu của khách hàng, để tránh khách hàng “quỵt tiền”
thù lao luật sư có thể thoả thuận giữ lại tài liệu và tài sản của khách hàng cho tới khi
luật sư được thanh toán đầy đủ. Nhưng luật sư không được phép bán tài sản gán nợ
hay tiết lộ thông tin tài liệu của khách hàng để lấy tiền thù lao.
b. Đối với khách hàng thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý:
Ngoài nguồn khách hàng trực tiếp mang lại thu nhập cho luật sư thì luật sư còn
nguồn khách hàng từ hoạt động trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Luật sư. Theo
Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ
pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo
quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp
cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật”. Hoạt động trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ,
bênh vực hồn tồn vơ tư, khơng vụ lợi của luật sư cho những người yếu thế thường bị
ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật trong xã hội. Hoạt động trợ giúp của luật sư
đối với những đối tượng này khơng chỉ là bổn phận mà cịn là thước đo lòng nhân ái
và đạo đức của luật sư. Tại Quyết định 112/QĐ-BTV ngày 18 tháng 10 năm 2018 của
Liên đoàn luật sư Việt Nam hướng dẫn về thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý miễn phí
của luật sư có quy định “Luật sư thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý tối thiểu 04 (bốn)
giờ làm việc/năm”.
Trong trường hợp khách hàng thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy
định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì luật sư khơng được thu phí thù lao
đối với khách hàng này, mà chỉ yêu cầu các đối tượng này cung cấp giấy tờ chứng
minh mình là người được trợ giúp pháp lý theo quy định. Khi làm việc với khách hàng
là các đối tượng được trợ giúp pháp lý, luật sư cũng phải phục vụ tận tâm, nghiêm túc
như đối với khách hàng trong những vụ, việc có thù lao.
Thù lao của luật sư trong cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng thuộc đối
tượng được trợ giúp pháp lý sẽ được Nhà nước chi trả theo thủ tục hành chính.
3.5. Mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trong việc giải quyết mâu thuẫn,
khiếu nại
Như bao mối quan hệ xã hội khác, quan hệ giữa luật sư với khách hàng đôi khi
cũng xảy ra mâu thuẫn, hay khách hàng và luật sư xung đột với nhau về mặt nào đó.

Do đó khi tiếp nhận vụ việc của khách hàng “luật sư có nghĩa vụ giải thích cho khách
hàng biết về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong quan hệ với luật sư; về tính
7


hợp pháp trong yêu cầu của khách hàng; những khó khăn, thuận lợi có thể lường
trước được trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý; quyền khiếu nại và thủ tục giải quyết
khiếu nại của khách hàng đối với luật sư”5. Để khi mà xảy ra tranh chấp, khách hàng
có thể thực hiện quyền khiếu nại lên tổ chức, cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
Khi tiếp nhận yêu cầu khiếu nại của khách hàng, luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có
thái độ lịch sự, trả lời khiếu nại của khách hàng bằng văn bản rõ ràng, thiện chí, chủ
động thương lượng, hịa giải với khách hàng; nếu khơng có kết quả thì hướng dẫn
khách hàng thủ tục khiếu nại tiếp theo để quyền lợi của khách hàng được giải quyết
theo quy định của pháp luật, bảo vệ danh dự, uy tín của luật sư, tổ chức hành nghề luật
sư.
Nếu khiếu nại của khách hàng có đầy đủ chứng cứ để chứng minh luật sư vi
phạm quy định của Luật Luật sư, Điều lệ, Bộ quy tắc và quy định khác của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp luật sư thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị nhắc nhở
bằng văn bản hoặc chịu một trong các hình thức kỷ luật sau đây: Khiển trách; Cảnh
cáo; Tạm đình chỉ tư cách thành viên Đoàn Luật sư từ sáu tháng đến hai mươi bốn
tháng; và mức hình phạt cao nhất đối với luật sư là xóa tên khỏi danh sách luật sư của
Đồn Luật sư. Mặt khác, nếu trường hợp khiếu nại của khách hàng mà qua đó xác định
hành vi của luật sư là vi phạm pháp luật thì luật sư phải chịu sự chế tài theo quy định
pháp luật.
II.Thực trạng và giải pháp
1. Một số vụ kiện thực tế liên quan đến mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng


Vụ kiện thứ nhất: Luật sư vi phạm quy tắc trong Bộ quy tắc – hứa hẹn, cam kết
bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực

hiện của luật sư và không ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản với
khách hàng.

Đây là vụ kiện Tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý được đưa ra xét xử sơ thẩm
ngày 04/8/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau giữa nguyên đơn là bà
Nguyễn Thị A và bị đơn là ơng Huỳnh Cao M. Tình tiết vụ việc như sau: Con bà A tên
là Nguyễn Thanh S bị Cơng an huyện C đề nghị Tịa án nhân dân huyện C, tỉnh Cà
Mau áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng. Vì vậy, ngày
10/8/2016, bà A thoả thuận với ông Huỳnh Cao M nội dung như sau: Ông M tham gia
giúp đỡ pháp lý, bảo đảm cho con bà được thay đổi từ biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng chuyển thành biện pháp giáo dục tại địa phương. Số tiền thù lao là 20.000.000đ.
Hợp đồng không làm bằng văn bản nhưng ông M có làm biên nhận nhận tiền, tại biên
nhận nhận tiền và phần phụ chú của biên nhận ngày 10/8/2016 do ông M viết và ký
tên, ông M có cam kết nếu khơng đạt kết quả thì ơng M phải trả lại cho bà 20.000.000đ
5 Quy tắc 10.4 Bộ quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐHĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc).

8


trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày 28/8/2016. Ngày 07/9/2016, Tòa án nhân dân huyện
C đã quyết định đưa con bà vào trường giáo dưỡng thời hạn 12 tháng. Do ông M
không thực hiện được công việc như đã cam kết nên bà A khởi kiện yêu cầu ông M trả
lại cho bà 20.000.000đ. Ngồi ra ơng M cịn có thái độ ứng xử khơng đúng mực,
khơng hợp tác với cơ quan tố tụng khi vắng mặt khơng có lý do chính đáng tất cả các
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải kể từ ngày
vụ án được thụ lý cũng như tất cả các phiên toà xét xử trước ngày 04/8/2017.
Trong vụ án trên, dễ dàng nhận thấy ông M có hành vi vi phạm quy định của
Luật Luật sư cụ thể tại khoản 2 Điều 26: “hợp đồng dịch vụ pháp lý phải được làm
thành văn bản”, ông M bằng nghiệp vụ đã tư vấn pháp luật và tham gia bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho con của bà A, nhưng chỉ làm biên nhận nhận tiền mà lại khơng

lập hợp đồng có các nội dung căn bản mà Luật Luật sư quy định. Mặt khác, việc giữa
ông M thoả thuận sẽ giúp cho con của bà A chuyển từ áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng thành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là trái với quy
định của quy tắc đạo đức của nghề nghiệp luật sư, bởi lẽ việc Tòa án áp dụng biện
pháp xử lý hành chính nào đối với con của bà A là căn cứ vào quy định của pháp luật
chứ khơng phải căn cứ vào ý chí chủ quan của ông M.


Vụ kiện thứ hai: Tranh chấp về nợ tiền thù lao và thanh toán thù lao theo phần
trăm giá trị đòi được.

Vụ kiện thứ hai giữa nguyên đơn là Công ty luật TNHH HL và bị đơn là nhóm
khách hàng đến sử dụng dịch vụ của Cơng ty. Ngày 19/5/2004 gia đình ơng Trương
Văn D gồm các ông bà: Trương Văn D, Trương Văn N, Nguyễn Thị L1 (là mẹ của ông
Trương Minh T2), Trương Thị P là bên yêu cầu dịch vụ (sau đây gọi là bên A) và Văn
phòng luật sư HL nay là Công ty luật TNHH HL là bên cung ứng dịch vụ (sau đây gọi
là bên B) ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý với nội dung: Bên A thuê bên B thực hiện cơng
việc khởi kiện tại tịa án để địi lại thửa đất của gia đình đang bị người khác lấn chiếm
bất hợp pháp với thoả thuận mức thù lao cuối cùng là 62% giá trị tài sản sau khi địi
được. Tuy cơng việc địi đất của bên B đã hồn thành, nhưng bên A vẫn chưa thể thanh
tốn tiền cơng dịch vụ cho bên B vì đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng, nên bên B vẫn tiếp tục hợp đồng dịch vụ pháp lý ngày 19/5/2004 tại giai đoạn
thi hành án, bên A biết nhưng khơng phản đối và cịn ký đơn u cầu thi hành án và
làm ủy quyền cho bên B thực hiện việc đòi đất theo quyết định của cơ quan thi hành
án. Vào thời điểm ngày 26/12/2008 người đại diện của bên A đã được toàn quyền quản
lý sử dụng thửa đất do được Cơ quan thi hành án bàn giao; ngày 20/10/2009 người đại
diện bên A được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo đó hợp đồng dịch vụ
pháp lý đã hoàn thành. Tuy nhiên Bên A vẫn chưa thanh toán cho Bên B thù lao 62%
như thoả thuận mà tuyên bố không yêu cầu bên B tư vấn hướng dẫn làm thủ tục xin
cấp

lại
giấy
chứng
nhận
9


quyền sử dụng đất và chỉ trả công dịch vụ cho bên A bằng số tiền thấp hơn rất nhiều
mức thù lao thoả thuận. Nhận thấy quyền lợi bị xâm phạm, ngày 10/7/2014 Công ty
luật TNHH HL đã khởi kiện địi được thanh tốn thù lao đúng với mức đã thoả thuận
và các chi phí đã tạm ứng cho khách hàng trong q trình cung cấp dịch vụ.
Có nhiều vấn đề mà Công ty luật TNHH HL gặp phải trong vụ án trên như phải
kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng qua đến giai đoạn thi hành án trong khi thoả
thuận ban đầu chỉ là giúp khách hàng khởi kiện vụ việc ra tồ; khách hàng khơng
thanh tốn, thanh tốn thù lao khơng đủ mặc dù các cơng việc theo hợp đồng đã hồn
thành. Thơng thường đối với những vụ việc không trả thù lao cố định mà thoả thuận
theo một tỉ lệ dựa trên kết quả đạt được thì tâm lý chung của khách hàng là chỉ khi nào
có trong tay kết quả (thu hồi được nợ, tài sản địi được thuộc quyền sở hữu của mình,
…) thì khách hàng mới trả thù lao cho luật sư, rủi ro bị “quỵt tiền” thù lao trong những
trường hợp này của luật sư là rất cao. Mặc khác, để khách hàng lấy được tài sản từ đó
trích trả cho luật sư phụ thuộc hoàn toàn vào thi hành án được hay khơng, chính vì vậy
nhiều hợp đồng phải kéo dài sang cả giai đoạn thi hành án, làm mất rất nhiều công sức,
tiền bạc của luật sư. Nếu không lường trước được hết những điều này khi tính thù lao,
luật sư có thể bị “lỗ” trong lần cung cấp dịch vụ pháp lý đó.
2. Giải pháp
Các vụ kiện nêu trên chỉ là một khía cạnh rất nhỏ trong mối quan hệ giữa luật sư
với khách hàng, trong quá trình hoạt động nghề nghiệp luật sư chỉ cần bất cẩn cũng có
thể phát sinh vơ số “vấn đề đau đầu” ảnh hưởng đến mối quan hệ này. Để hạn chế, có
một số giải pháp sau đây:
Một là, tăng cường công tác giáo dục nâng cao đạo đức, trách nhiệm, lòng tự tôn

của đội ngũ luật sư đối với hoạt động nghề nghiệp. Nâng cao đức tính khiêm tốn, biết
sống bằng khả năng tự lực tự cường của bản thân, biết thẹn khi đón nhận nguồn lợi từ
người khác mang lại mà khơng phải thành quả do mình bỏ cơng bỏ sức ra. Cần loại bỏ
những suy nghĩ dựa dẫm vào người khác hay dựa vào uy tín, mối quan hệ trong xã hội
để đạt được mục đích tiêu cực của bản thân.
Hai là, xây dựng mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng trên cơ sở hợp đồng
dịch vụ pháp lý chặt chẽ, thể hiện đầy đủ, cụ thể, chi tiết quyền và nghĩa vụ của các
bên trong từng tình huống giả định, tình huống cụ thể. Thiết lập một hợp đồng càng
chi tiết, chặt chẽ càng giúp luật sư tránh được nhiều phiền phức khơng đáng có.
Ba là, trước khi ký hợp đồng với khách hàng, Luật sư cần trao đổi nắm rõ những
thông tin vụ việc, yêu cầu của khách hàng, đề nghị khách hàng cung cấp các chứng cứ,
giấy tờ có liên quan và phải đảm bảo bí mật thơng tin khách hàng. Trên cơ sở đó, luật
sư sẽ đánh giá, nêu ra các căn cứ và các bước cần phải giải quyết trong vụ việc, giải
thích chiến lược mà luật sư sẽ thực hiện, đưa ra phương án để khách hàng lựa chọn.
10


Trong khi thực hiện hợp đồng duy trì trao đổi thông tin vụ việc với khách hàng để kịp
thời thông tin về tiến độ giải quyết vụ việc, tránh làm khách hàng hoang mang và kịp
thời giải quyết mâu thuẫn với khách hàng để khơng phải phát sinh nhiều tình huống
xấu hơn. Khi kết thúc vụ việc, luật sư cần thông tin cho khách hàng biết về kết quả
thực hiện vụ việc và thanh lý hợp đồng.
Bốn là, minh bạch về thù lao, đưa ra cách tính thù lao phù hợp với vụ việc, hợp
lý khi thương lượng, ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng. Việc minh bạch
về thù lao, phân chia rõ ràng trị giá thù lao theo từng giai đoạn, từng phần công việc,
minh bạch thỏa thuận về chi phí cịn rất có ý nghĩa trong giải quyết tranh chấp với
khách hàng, và là công cụ bảo vệ luật sư khi mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng
xấu đi, hoặc khi khách hàng muốn chấm dứt hợp đồng, đòi lại tiền thù lao, chi phí đã
thanh tốn cho luật sư.
Năm là, có chính sách ưu đãi đối với luật sư làm cơng tác trợ giúp pháp lý

thường xuyên nhằm thu hút, khuyến khích luật sư tham gia trợ giúp pháp lý như: miễn,
giảm thuế thu đối với luật sư và tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý, nâng mức hỗ trợ
bồi dưỡng cho luật sư tham gia các vụ án chỉ định và vụ việc trợ giúp pháp lý,… Đơn
giản hoá các thủ tục thanh toán thù lao cho luật sư khi thực hiện công việc trợ giúp
pháp lý.

KẾT LUẬN
Trên đây là những tìm hiểu và phân tích về đề tài. Tóm lại, mối quan hệ giữa luật
sư với khách hàng là một trong những mối quan hệ quan trọng, cốt lõi hình thành nên
nghề nghiệp luật sư. Tính chất đạo đức trong hành vi ứng xử của luật sư có thể nói là
bản chất của mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng, là một trong những yếu tố (như
kỹ năng hành nghề) góp phần quyết định sự thành cơng trong nghề nghiệp của luật sư.
Luật sư để có được niềm tin và sự tôn trọng của không chỉ là khách hàng mà cịn
là cộng đồng xã hội, thì nền tảng căn bản nhất trong quá trình xây dựng và phát triển
nghề nghiệp luật sư là phải thấm nhuần và thực hiện nghiêm túc những quy định về
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp một cách nhuần nhuyễn và hiệu quả nhất. Luật sư có
trách nhiệm với khách hàng cũng chính là có trách nhiệm với nghề nghiệp luật sư, với
danh dự, uy tín và thương hiệu bản thân.
Hãy là một luật sư có tâm và có tầm trong sự nghiệp của mình.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.

7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.

Hiến pháp năm 1946.
Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Luật Luật sư 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư 2012 và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Luật Trợ giúp pháp lý 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Bộ quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư (Ban hành kèm theo Quyết
định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc).
Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy định về thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý
miễn phí của luật sư.
Liên đồn Luật sư Việt Nam, Tập tài liệu tập huấn Quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp của luật sư Việt Nam.
Học viện tư pháp (2020), Giáo trình Luật sư và nghề luật sư (Tái bản lần thứ hai),
Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
Luật sư Nguyễn Minh Tâm, Bổn phận và trách nhiệm của luật sư với khách hàng,
nguồn: />Phạm Hằng, 87 tội danh buộc Luật sư phải tố giác thân chủ, nguồn:
/>Toà án nhân dân Thành phố Cà Mau - Tỉnh Cà Mau, Bản án số: 87/2017/DS-ST
ngày 04/08/2017, />
14. Toà án nhân dân Huyện Đông Anh - Thành phố Hà Nội, Bản án số: 37/2019/DSST ngày 06/8/2019, />
12




×