Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tìm hiểu thực trạng công tác tự bồi dưỡngcủa giáo viên tiểu học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.86 KB, 9 trang )

Tìm hiểu thực trạng công tác tự bồi dưỡng
của giáo viên tiểu học hiện nay
Vũ Thị Thu Huyền
GV trường Cán bộ quản lý giáo dục TPHCM,
số 7 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1, TPHCM
ĐT 0983855972, email:
Đội ngũ giáo viên được xem là một trong những nhân tố then chốt ảnh hưởng
đến chất lượng giáo dục trong nhà trường phổ thông. Có thể nói rằng, chất lượng của
đội ngũ nhà giáo có ý nghĩa quan trọng góp phần đảm bảo chất lượng học sinh. Bồi
dưỡng và phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu hiện tại và chuẩn bị cho những
đòi hỏi thách thức trong tương lai là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình quản lý nhà
trường. Trong đó hoạt động tự bồi dưỡng giữ vị trí then chốt nhằm hoàn thiện và phát
triển khả năng nghề nghiệp của giáo viên. Tự bồi dưỡng là quá trình lâu dài, phức tạp,
chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Để thực hiện tốt yêu cầu, đòi hỏi của nhà
trường và xã hội về việc nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục trong các cơ sở giáo
dục hiện nay, đội ngũ giáo viên tiểu học không ngừng nỗ lực học tập, rèn luyện phẩm
chất đạo đức, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Bài viết này tìm
hiểu về thực trạng hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên tiểu học và một số giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động tự bồi dưỡng giáo viên của hiệu trưởng trường tiểu
học hiện nay.
1. Nhận thức của giáo viên tiểu học về hoạt động tự bồi dưỡng
Qua tìm hiểu thực trạng công tác tự bồi dưỡng của giáo viên (GV) tiểu học một
số tỉnh thành phía Nam, tiến hành hỏi ý kiến cán bộ quản lý (CBQL) và GV một số
trường tiểu học (Cụ thể: Trong tổng số 900 người tham gia khảo sát, có 74 người
(chiếm tỷ lệ 8.2%) là hiệu trưởng; 222 người (chiếm tỷ lệ 24.7%) là phó hiệu trưởng;
159 người (chiếm tỷ lệ 17.7%) là tổ khối trưởng, và 445 người (chiếm tỷ lệ 49.3%) là
giáo viên), người viết thu được kết quả như sau:
Đa số GV tiểu học hiện nay đều đạt trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên, có phẩm
chất đạo đức tốt và uy tín với đồng nghiệp. Đó là nền tảng ban đầu giúp GV thực hiện
hiệu quả nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục học sinh tiểu học. Trong số 849 phiếu khảo
sát có thông tin, có 88.2% ý kiến (749 phiếu) cho rằng, việc tự bồi dưỡng chuyên môn


nghiệp vụ của GV là nhiệm vụ thường xuyên có tính tự giác, 3.1% ý kiến (26 phiếu)
cho rằng việc tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của GV là công việc chỉ được thực
hiện khi GV gặp khó khăn về chuyên môn, 8.7% ý kiến (74 phiếu) cho rằng việc tự bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của GV là công việc bắt buộc thực hiện theo yêu cầu của
các cấp quản lý. Thông tin nêu trên cho thấy đa số đối tượng khảo sát đều đánh giá tự
bồi dưỡng là nhiệm vụ thường xuyên mang tính tự giác. Đối với bản thân GV, việc
1
nâng cao ý thức tự giác, chủ động, sáng tạo trong hoạt động tự bồi dưỡng, xem tự bồi
dưỡng trở thành nhu cầu nội tại có ý nghĩa thiết thực trong việc hoàn thiện, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, kết quả trên cũng phản ánh vẫn còn một bộ
phận GV (11.8%) quan niệm rằng họ chỉ thực hiện tự bồi dưỡng khi gặp khó khăn về
chuyên môn hoặc theo yêu cầu của lãnh đạo nhà trường. Do vậy, trong công tác quản
lý, hiệu trưởng cần chú ý tác động đến nhóm GV này, giúp họ thay đổi cách nhìn nhận,
đánh giá nhiệm vụ tự bồi dưỡng, từ đó nâng cao nhận thức của bản thân về việc tự bồi
dưỡng.
Tìm hiểu về sự cần thiết của hoạt động tự bồi dưỡng, từ 847 phiếu có thông tin
cho kết quả như sau: 41.6% ý kiến (354 phiếu) cho rằng tự bồi dưỡng của GV là rất cần
thiết, 48.9% ý kiến (416 phiếu) đánh giá ở mức cần thiết, 9.1% ý kiến (55 phiếu) còn
phân vân lưỡng lự trong đánh giá mức độ cần thiết của hoạt động tự bồi dưỡng, 2.6% ý
kiến (22 phiếu) cho rằng tự bồi dưỡng là không cần thiết. Như vậy hầu hết đối tượng
tham gia khảo sát đều đánh giá cao sự cần thiết của hoạt động tự bồi dưỡng của GV
(với 90.5% các đối tượng khảo sát đánh giá hoạt động tự bồi dưỡng ở mức độ cần thiết
trở lên).
2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc tự bồi dưỡng của GV
Tìm hiểu về những thuận lợi và khó khăn mà GV gặp phải trong hoạt động tự
bồi dưỡng, chúng tôi thu được kết quả:
+ Thuận lợi
- Nhìn chung, phần lớn CBQL và GV đều nhận thức đúng đắn về hoạt động tự
bồi dưỡng, với hơn 88.2% đối tượng hỏi ý kiến đánh giá việc tự bồi dưỡng là nhiệm vụ
thường xuyên liên tục có tính tự giác của mỗi giáo viên.

- Có các văn bản chỉ đạo của các ngành, các cấp về công tác bồi dưỡng, phát
triển đội ngũ nhà giáo thông qua những chính sách ưu đãi, tạo điều kiện tốt cho nhà
giáo trong việc bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Sự phát triển của khoa học công nghệ và việc ứng dụng rộng rãi internet vào
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục đã góp phần tạo điều
kiện cho GV ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động nghề nghiệp để mở
mang tầm nhìn, nâng cao trình độ tay nghề cho bản thân. Hiện nay, hầu hết các trường
đã trang bị máy tính, kết nối internet, các thiết bị dạy học hiện đại đồng thời tổ chức cho
GV ứng dụng trang thiết bị hiện đại vào hoạt động dạy học. Điều này cũng thể hiện sự
quan tâm của nhà trường trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong quá
trình công tác cũng như trong việc tự bồi dưỡng.
+ Khó khăn
Ngoài những thuận lợi nêu trên, qua trao đổi ý kiến một số CBQL và GV tiểu
học cho thấy vẫn còn tồn tại một số khó khăn với nguyên nhân và mức độ khác nhau,
trong đó khó khăn GV thường gặp là: nội dung bồi dưỡng không phù hợp, chưa có kế
hoạch tự bồi dưỡng, GV thiếu thông tin, tài liệu tham khảo, thời gian tự bồi dưỡng ít…;
có GV chia sẻ rằng do thiếu sự định hướng dẫn dắt của các cấp quản lý nên hiệu quả tự
2
bồi dưỡng không cao. Để làm sáng tỏ hơn những khó khăn này, người viết phân tích ý
kiến thu được từ phiếu khảo sát và đánh giá theo thang đo các mức độ từ thấp đến cao
(1- không khó khăn; 2- ít khó khăn; 3- khá khó khăn; 4- khó khăn nhiều; 5- rất khó
khăn), đã thu được số liệu cụ thể trong bảng dưới đây:
Bảng 1. Kết quả khảo sát về khó khăn của GV trong công tác tự bồi dưỡng
TT Khó khăn Mức độ khó khăn (%) Mean
1 2 3 4 5
1 Chưa có kế hoạch tự bồi dưỡng 0 32.1 33.9 21.7 12.3 3.142
2 Nội dung bồi dưỡng không phù hợp,
chồng chéo
0 24.0 32.2 24.8 19.0 3.388
3 Thiếu sự định hướng và giám sát của

lãnh đạo nhà trường
0 10.1 24.6 36.4 28.9 3.458
4 Thiếu phương tiện kỹ thuật cá nhân 0 21.8 29.7 29.3 19.2 3.318
5 Thư viện thiếu sách, tài liệu 0 22.1 23.4 28.9 25.6 3.538
6 Thiếu sự quan tâm hỗ trợ của các cấp
quản lý
0.1 30.9 26.2 22.7 20.1 3.579
7 Thời gian tự bồi dưỡng ít 0 16.7 22.6 35.4 25.3 3.693
8 Cơ sở vật chất của nhà trường hạn chế
0 18.9 30.8 28.0 22.3 3.300
Kết quả bảng trên cho thấy nhìn chung các nguyên nhân khó khăn nêu trên đều
được các đối tượng đánh giá ở mức độ khá khó khăn trở lên với giá trị trung bình (mean
> 3.1). Trong đó các khó khăn như: thiếu thời gian, thiếu sự quan tâm hỗ trợ của các
cấp quản lý được đánh giá là khó khăn điển hình trong công tác tự bồi dưỡng của GV,
với giá trị trung bình lần lượt là (3.693 và 3.579). Thư viện nhà trường thiếu sách, thiếu
tài liệu tham khảo cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho công tác tự
bồi dưỡng của GV (64.5% ý kiến đánh giá ở mức độ khó khăn nhiều và rất khó khăn
với giá trị trung bình là 3.538). Yếu tố “thiếu sự định hướng, quản lý của lãnh đạo nhà
trường”, có 65.3% đối tượng được hỏi ý kiến đã đánh giá ở mức độ khó khăn nhiều và
rất khó khăn. Như vậy khi tìm hiểu về khó khăn trong công tác tự bồi dưỡng của GV,
chúng tôi phát hiện phần lớn đối tượng được hỏi ý kiến đều gặp khó khăn nếu thiếu sự
định hướng, giám sát của các cấp quản lý. Điều đó cho thấy hiệu trưởng nhà trường có
vai trò nhất định trong công tác định hướng, giám sát hoạt động tự bồi dưỡng của GV.
Khi trao đổi với GV thông tin về lượng thời gian và thời điểm mà GV thực hiện
nhiệm vụ tự bồi dưỡng, phần lớn GV chia sẻ họ đã thực hiện việc tự bồi dưỡng trong
năm học một cách thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên vào dịp nghỉ hè, nghỉ lễ, Tết họ
thường dành nhiều thời gian hơn cho việc tham khảo tài liệu, nghiên cứu thực tế và trao
đổi với đồng nghiệp vì vậy kết quả thu được cũng khả quan hơn.
Về phía bản thân GV: Do chưa xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng một cách cụ thể
nên GV thường bị động trong công tác tự bồi dưỡng. Nhiều GV chưa biết cách xác định

nội dung bồi dưỡng phù hợp với nhu cầu của bản thân và đáp ứng đòi hỏi của công
3
việc. Một số GV do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ngoài thời gian dạy học trên lớp,
hoàn thiện hồ sơ chuyên môn, còn phải làm thêm các công việc khác để cải thiện kinh
tế, chăm sóc gia đình nên thường không dành thời gian nghiên cứu tìm hiểu tài liệu.
Một số ít GV có tình trạng sức khỏe kém, lớn tuổi nên có tư tưởng an phận thủ thường,
ngại học, ngại tìm kiếm tài liệu hay cập nhật thông tin phục vụ cho việc nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của bản thân.
Về phía nhà trường: qua trao đổi với CBQL và GV về quản lý hoạt động tự bồi
dưỡng cho thấy tại một số trường tiểu học, công tác quản lý, giám sát của hiệu trưởng
đối với hoạt động tự bồi dưỡng của GV chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều trường
do điều kiện khó khăn nên chưa đầu tư cơ sở vật chất, thư viện, trang thiết bị và tài liệu
tham khảo phục vụ cho hoạt động tự bồi dưỡng tại trường của GV. Có trường mặc dù
quan tâm tạo điều kiện nhưng vẫn chưa đáp ứng một số nhu cầu của GV trong quá trình
tự bồi dưỡng. Ví dụ như: nhà trường chưa định hướng việc lựa chọn nội dung bồi
dưỡng phù hợp, chưa tổ chức đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm trong công tác tự bồi
dưỡng của GV, do vậy hiệu quả hoạt động tự bồi dưỡng của GV còn hạn chế.
3. Nội dung tự bồi dưỡng của GV tiểu học
Kết quả thu được qua xử lý số liệu thông kê từ các phiếu hỏi ý kiến CBQL và
GV về sự cần thiết của các nội dung tự bồi dưỡng như sau:
(Thang đo các mức độ của sự cần thiết như sau: 1- không cần thiết; 2- ít cần
thiết; 3- tương đối cần thiết; 4 - cần thiết; 5 - rất cần thiết)
Bảng 2. Kết quả khảo sát sự cần thiết của nội dung tự bồi dưỡng
TT Nội dung tự bồi dưỡng
Mức độ cần thiết (%)
Mean
Std.
Deviation
1 2 3 4 5
1 Kiến thức pháp luật 0.7 5.5 6.7 46.0 41.1 4.213 .8473

2 Hiểu biết chính sách, qui định
của Đảng, Nhà nước, ngành
0.9 4.3 4.4 26.4 60.0 4.482 .8414
3 Kiến thức về tâm lý, giáo dục
đối với lứa tuổi tiểu học
0.2 1.5 4.6 27.9 65.8 4.574 .6761
4 Kiến thức các môn học ở bậc
tiểu học
0.6 2.4 3.6 25.0 68.4 4.579 .7376
5 Kiến thức về kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của HS
0.4 1.8 3.2 30.3 64.3 4.563 .6830
6 Kiến thức chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội
0.2 2.3 6.6 59.3 31.6 4.198 .6743
7 Kiến thức, kỹ năng sử dụng
CNTT, thiết bị hiện đại
0.7 2.5 8.2 59.8 28.8 4.135 .7184
8 Kiến thức, kỹ năng ngoại ngữ
hoặc tiếng dân tộc thiểu số
2.0 9.1 23.5 51.3 14.1 3.666 .8993
9 Kỹ năng lập kế hoạch dạy học,
giáo án theo hướng đổi mới
0.7 2.5 3.7 28.0 65.1 4.543 .7460
10 Kỹ năng tổ chức và thực hiện
các hoạt động dạy học trên lớp
0.2 2.0 1.8 26.8 69.2 4.627 .6467
11 Kỹ năng tổ chức hoạt động giáo
dục ngoài giờ, chủ nhiệm lớp
0 1.9 4.1 45.8 48.2 4.403 .6610

4
12 Kỹ năng sống 0.4 1.2 2.8 37.6 58.0 4.518 .6484
Kết quả bảng 2 về sự cần thiết của nội dung tự bồi dưỡng, các đối tượng được
hỏi ý kiến (GV và CBQL) đều đánh giá khá cao tính cần thiết (từ mức độ cần thiết trở
lên).
Trong số những nội dung tự bồi dưỡng nêu trên, nội dung tự bồi dưỡng về kỹ
năng tổ chức thực hiện các hoạt động dạy học trên lớp (diễn đạt, đặt câu hỏi, trình bày
bảng, lựa chọn sử dụng đồ dùng, phương tiện phương pháp dạy học) được đa số ý kiến
đánh giá rất cần thiết với tỷ lệ cao (chiếm 69.2%), tiếp theo là nội dung bồi dưỡng kiến
thức các môn học ở bậc tiểu học (68.4%). Những nội dung như: kiến thức tâm lý giáo
dục học lứa tuổi tiểu học (65.8%), kỹ năng lập kế hoạch dạy học, soạn giáo án theo
hướng đổi mới (65.1%) cũng được đa số đối tượng khảo sát xếp ở mức độ rất cần thiết.
Điều đó chứng tỏ rằng, những nội dung liên quan đến kiến thức chuyên môn, kỹ năng
dạy học và kiến thức về đối tượng học sinh là những nội dung quan trọng và cần được
trau dồi thường xuyên nhằm phục vụ cho hoạt động dạy học của GV tiểu học.
Tuy nhiên, với nội dung tự bồi dưỡng như: kiến thức về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của đất nước, của địa phương; kiến thức, kỹ năng tin học; kiến thức, kỹ
năng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc thiểu số (theo yêu cầu dạy học, giáo dục) thì tỷ lệ đối
tượng khảo sát (CBQL và GV) đánh giá ở mức độ rất cần thiết là khá thấp, với tỷ lệ lần
lượt là: 31,6%; 28.8%; và 14.1%. Những nội dung kiến thức trên tuy không phải là kiến
thức nền tảng phục vụ trực tiếp cho công việc dạy học và giáo dục của GV nhưng là
những nội dung kiến thức nền tảng và có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động nghề
nghiệp của GV. Tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề này chúng tôi đã tiến hành phỏng
vấn một số CBQL và GV tiểu học, đa số đối tượng phỏng vấn đã nhận định rằng có
nhiều lý do khiến GV ngại bồi dưỡng kiến thức kinh tế, chính trị, ngoại ngữ…, trong đó
lý do cơ bản nhất là GV không bố trí được thời gian, nội dung kiến thức những lĩnh vựa
này khô khan, khó hiểu, hoặc GV thường tập trung vào chuyên môn mà không quan
tâm đến việc mở rộng kiến thức đa lĩnh vực.
Ở góc độ nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, CBQL và GV tiểu học nên dành quan
tâm nhiều hơn đến những nội dung bồi dưỡng nêu trên vì ý nghĩa thiết thực của những

kiến thức ấy đối với hoạt động nghề nghiệp của GV nhất là trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp tự bồi dưỡng
Khi phân tích số liệu thống kê ý kiến của CBQL, GV tiểu học về mức độ hiệu
quả của các phương pháp tự bồi dưỡng của GV, kết quả thu được như bảng sau:
(Thang đo các mức độ của tính hiệu quả từ thấp đến cao, cụ thể là: 1- kém hiệu
5
quả; 2- ít hiệu quả; 3- tương đối hiệu quả; 4 - hiệu quả nhiều; 5- rất hiệu quả)
Bảng 3. Kết quả khảo sát về tính hiệu quả của phương pháp tự bồi dưỡng
TT Phương pháp tự bồi dưỡng
Hiệu quả (%)
Mean
Std.
Deviation
1 2 3 4 5
1 Tự nghiên cứu qua sách vở, tài
liệu tham khảo
0 6.4 29.3 38.4 25.9 3.838 .8848
2 Trao đổi, làm việc nhóm với
các GV khác
0 3.6 23.1 44.6 28.7 3.985 .8127
3 Trao đổi, tìm thông tin trên
diễn đàn qua mạng internet,
phương tiện truyền thông
0.2 27.1 31.5 29.6 11.6 3.252 .9879
4 Quan sát hoạt động giảng dạy,
giáo dục của GV khác
0 3.7 16.9 46.3 33.1 4.088 .7999
5 Nghiên cứu thực tế, tham quan
học tập
0.1 23.8 25.6 32.4 18.1 3.447 1.0458

6 Tham gia các khóa bồi dưỡng,
tập huấn do trường, Phòng, Sở,
Bộ Giáo dục – Đào tạo tổ chức
0 4.4 20.1 44.3 31.2 4.022 .8301
7 Tự tìm kiếm và tham dự khóa
bồi dưỡng do nơi khác tổ chức
0.3 20.5 25.5 36.6 17.1 3.498 1.0099
Nhìn vào bảng trên, kết quả cho thấy, phần lớn đối tượng khảo sát đánh giá cao
tính hiệu quả của các phương pháp tự bồi dưỡng như: quan sát hoạt động giảng dạy,
giáo dục của đồng nghiệp (với giá trị trung bình là 4.088), tham gia các khóa tập huấn
(giá trị trung bình là 4.022), trao đổi, làm việc nhóm và qua nghiên cứu sách vở, tài liệu
(giá trị trung bình là 3.985 và 3.838). Trong khi đó, có đến 58.8% đối tượng khảo sát
cho rằng việc trao đổi, tìm thông tin trên các diễn đàn qua mạng internet và các phương
tiện truyền thông ở mức ít, kém và tương đối hiệu quả (với giá trị trung bình mean
=3.252). Như vậy, mặc dù phần lớn đối tượng khảo sát đang công tác tại các trường đã
được trang bị máy tính có kết nối internet (93.9%) nhưng GV chưa khai thác hiệu quả
các tài nguyên trên mạng vào việc tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Kết quả này đặt
ra cho các nhà trường vấn đề cần quan tâm: trong điều kiện phát triển của khoa học
công nghệ hiện nay, mỗi GV cần được hướng dẫn cụ thể hơn để biết cách khai thác và
sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho hoạt động
tự bồi dưỡng.
Ngoài ra, qua phỏng vấn một số GV về cách thức tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, những GV được phỏng vấn đều cho rằng, có nhiều cách thức và
hình thức thực hiện để tiến hành hoạt động tự bồi dưỡng như: quan sát hoạt động thực
tiễn, chủ động tham khảo tài liệu, nghiên cứu khoa học, viết sáng kiến kinh nghiệm,
tham quan nghiên cứu thực tế, tìm hiểu sản phẩm của học sinh, trao đổi và chia sẻ kinh
6
nghiệm với đồng nghiệp, trao đổi trên các diễn đàn qua mạng internet, tổ chức hoạt
động và tham gia vào các hoạt động học tập, câu lạc bộ của học sinh. Với những biện
pháp và hình thức tự bồi dưỡng như trên, đa số đối tượng phỏng vấn cho rằng việc chia

sẻ và trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp có hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên trên thực tế
GV lựa chọn sử dụng phương pháp tự nghiên cứu tài liệu, sách, báo, tạp chí… nhiều
nhất. Ngoài ra, khi tìm hiểu các bài tổng thu hoạch, kiểm tra chuyên đề của học viên đã
và đang học tập tại trường Cán bộ quản lý giáo dục TP. HCM, chúng tôi thu được thông
tin người học đánh giá cao hiệu quả của phương pháp dự giờ đồng nghiệp và tham quan
nghiên cứu thực tế. Trong nhiều bài viết, học viên khẳng định GV nào biết cách xây
dựng kế hoạch nghiên cứu thực tế và dự giờ học hỏi đồng nghiệp một cách nghiêm túc
thường tiến bộ nhanh trong chuyên môn.
Những kết quả nêu trên phản ánh tương đối sát thực trạng sử dụng phương pháp
tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của GV tiểu học. Trên thực tế, GV thường vận
dụng kết hợp nhiều phương pháp và hình thức tự bồi dưỡng khác nhau tùy điều kiện và
khả năng của bản thân. Hơn nữa, hiệu quả của các phương pháp tự bồi dưỡng còn phụ
thuộc vào yêu cầu và nội dung kiến thức cần bồi dưỡng. Do đó, mỗi GV cần phải cân
nhắc để lựa chọn biện pháp và hình thức tự bồi dưỡng phù hợp.
5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động tự bồi dưỡng giáo
viên của hiệu trưởng trường tiểu học
Thực hiện chủ trương đổi mới quản lý giáo dục, xây dựng và phát triển đội ngũ
nhà giáo có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành giáo
dục trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ cơ bản của mỗi cơ sở giáo dục/trường tiểu
học. Điều đó đòi hỏi hiệu trưởng trường tiểu học phải không ngừng rèn luyện năng lực
quản lý điều hành các hoạt động trong nhà trường, nhất là đối với công tác quản lý, sử
dụng đội ngũ nhà giáo và vấn đề quản lý hoạt động tự bồi dưỡng GV.
Hiệu quả quản lý hoạt động tự bồi dưỡng GV của hiệu trưởng không chỉ phụ
thuộc vào bản thân người hiệu trưởng mà còn chịu sự tác động của các yếu tố khách
quan. Xuất phát từ kết quả nghiên cứu lý luận và thức tiễn, người viết chia sẻ một số
giải pháp quản lý hoạt động tự bồi dưỡng GV như sau:
- Phát triển nhận thức của giáo viên tiểu học về hoạt động tự bồi dưỡng, qua đó
đảm bảo đội ngũ GV tiểu học nhận thức đầy đủ, chính xác về vai trò trách nhiệm của
bản thân đối với nhiệm vụ tự bồi dưỡng. Mỗi nhà giáo hình thành thái độ và hành vi
đúng đắn, tự giác, tích cực trong việc tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Đây là cơ

sở để hiệu trưởng triển khai thực hiện các biện pháp quản lý hoạt động tự bồi dưỡng
một cách phù hợp, linh hoạt, sáng tạo có tính đến đặc điểm đặc thù của từng đối tượng
GV.
7
- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và phổ
biến kế hoạch này đến từng giáo viên. Việc xây dựng và phổ biến kế hoạch bồi dưỡng,
tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ đến giáo viên là một trong những chức năng quản
lý trường học. Hiệu trưởng cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng có tính tổng
thể. Kế hoạch này phải đảm bảo tính khoa học và khả thi. Qua đó, định hướng cho GV
trong việc xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng của bản thân đồng thời là cơ sở cho việc
thực hiện và theo dõi quá trình tự bồi dưỡng, rèn luyện tay nghề, nâng cao hiệu quả,
chất lượng công việc.
- Cung cấp tài liệu, sách vở, trang bị phương tiện kỹ thuật, tạo điều kiện cho GV
tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Việc cung cấp tài liệu, trang thiết bị và tạo điều
kiện môi trường phục vụ cho GV tự bồi dưỡng có ý nghĩa quan trọng góp phần tạo
dựng không khí lao động tích cực trong tập thể sư phạm, nhất là đối với hoạt động tự
bồi dưỡng của GV. Từ đó, nâng cao chất lượng công tác tự bồi dưỡng của GV. Việc
làm này còn có ý nghĩa thiết thực giúp hiệu trưởng chủ động trong công tác tổ chức
hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên.
- Tổ chức phong trào thi đua tự bồi dưỡng trong đội ngũ GV. Việc tổ chức các
phong trào thi đua nhằm hình thành ở GV ý thức chủ động, tích cực trong việc thực
hiện nhiệm vụ tự bồi dưỡng, xem hoạt động tự bồi dưỡng là nhiệm vụ thường xuyên, là
nhu cầu nội tại của bản thân.
- Tổ chức các nhóm giáo viên hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong việc tự bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ. Giải pháp này tạo điều kiện cho GV cơ hội chia sẻ kiến thức,
kinh nghiệm tự bồi dưỡng, phát triển khả năng hợp tác làm việc cùng nhau. Căn cứ vào
tình hình, điều kiện thực tế của nhà trường, tập thể giáo viên, hiệu trưởng xây dựng các
tổ, nhóm GV hỗ trợ nhau tự bồi dưỡng.
- Xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả tự bồi dưỡng của GV. Tùy theo điều kiện
thực tế của nhà trường và đội ngũ GV, hiệu trưởng cần tổ chức xây dựng tiêu chí đánh

giá kết quả tự bồi dưỡng của GV đảm bảo tính chính xác, khách quan, toàn diện và
công bằng.
- Tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của giáo viên, của tổ/khối chuyên
môn trong hoạt động bồi dưỡng, tự bồi dưỡng. Giúp cho GV và tổ/khối chuyên môn
phát huy ý thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực
hiện và đảm bảo đạt kết quả tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên theo
hướng tăng cường tự đánh giá. Đây là một khâu cơ bản nhằm tổ chức quản lý và thực
8
hiện việc đánh giá một cách chính xác, khách quan, công bằng kết quả lao động tự bồi
dưỡng theo hướng chú trọng tự đánh giá của bản thân GV. Việc đánh giá không tập
trung nhiều vào xếp loại giáo viên mà tập trung vào các biện pháp phát triển, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công việc của họ.
Kết luận
Hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên giữ vị trí quan trọng và có ý nghĩa thiết
thực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo tiểu học. Tự bồi dưỡng còn là
hoạt động được tiến hành song song với quá trình lao động sư phạm của giáo viên
nhằm giúp cho giáo viên cơ hội tiếp cận, không ngừng trau dồi, phát triển chuyên
môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, đứng trước những thách thức đặt ra từ thực tiễn và đòi
hỏi của quá trình đổi mới toàn diện, căn bản nền giáo dục, hoạt động tự bồi dưỡng
của giáo viên tiểu học hiện nay khó tránh khỏi những khó khăn nhất định. Để vượt
qua thử thách và từng bước giải quyết những vướng mắc ấy, hiệu trưởng cần phải
chủ động hơn trong việc xác định nội dung và phương pháp tự bồi dưỡng của GV,
phải tác động đến nhận thức của GV, giúp cho họ nhìn thấy được tự bồi dưỡng
không chỉ là nhiệm vụ mà còn là mục tiêu của lao động sư phạm. Chỉ khi nào trở
thành ý thức tự thân, hoạt động tự bồi dưỡng mới đạt được kết quả như mong đợi,
qua đó góp phần tháo gỡ những khó khăn trong công tác bồi dưỡng phát triển đội
ngũ nhà giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư, Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc xây dựng,

nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 04 tháng 5 năm
2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo quy định Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên tiểu học
3. Vũ Thị Thu Huyền, Biện pháp quản lý hoạt động tự bồi dưỡng giáo viên của hiệu
trưởng trường tiểu học một số tỉnh phía Nam, Đề tài NCKH cấp Trường, Trường Cán
bộ quản lý giáo dục Tp. HCM, 2010
9

×