Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Khóa luận tư tưởng đạo đức học của aristotle trong tác phẩm đạo đức học nicomachean

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.32 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------

Lê Mạnh Cƣờng

TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA ARISTOTLE TRONG TÁC PHẨM
“ĐẠO ĐỨC HỌC NICOMACHEAN”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X

HÀ NỘI, 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------

Lê Mạnh Cƣờng
TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA ARISTOTLE TRONG TÁC PHẨM
“ĐẠO ĐỨC HỌC NICOMACHEAN”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS NGUYỄN QUANG HƯNG




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận “Tư tưởng đạo đức học của Aristotle trong
tác phẩm Đạo đức học Nicomachean” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Những kết quả trong khóa luận này là khơng sao chép. Nếu khơng đúng như
đã nêu trên, tơi xin chịu hồn tồn trách nghiệm.
Người cam đoan

Lê Mạnh Cƣờng


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc, chân thành nhất đến toàn bộ
giảng viên khoa triết học đã tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ em trong suốt q
trình học tập và nghiên cứu.
Với lịng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến các thầy/cô trong chuyên
ban Lịch sử triết học Phương Tây đã truyền đạt vốn kiến thức quí báu cho em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Kiến thức của các thầy
cô đã làm phong phú thêm thế giới quan của em.
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn đến thầy Nguyễn Quang Hưng –
người đã trực tiếp hướng dẫn em hồn thành tốt bài khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2
NỘI DUNG………………………………………………………………….30
CHƢƠNG 1 : BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG CHO SỰ
RA ĐỜI ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA ARISTOTLE ............................................ 8

1.1. Bối cảnh lịch sử .......................................................................................... 8
1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời đạo đức học Aristotle ............................. 13
1.2.1 Tư tưởng đạo đức học của Democritos ( Khoảng 460 TCN) ........... 13
1.2.1. Tư tưởng đạo đức học của Socrates (470 – 399 TCN) ..................... 14
1.2.2. Tư tưởng đạo đức học của Plato (427 - 347 TCN) .......................... 17
1.3. Aristotle và tác phẩm "Đạo đức học của Nicomachean" ......................... 21
Chƣơng II : ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA ARISTOTLE TRONG TÁC PHẨM
“ĐẠO ĐỨC HỌC NICOMACHEAN” ....................................................... 30
2.1.Quan niệm của Aristotle về “ Điều thiện” và “ Hạnh phúc” .................... 30
2.2. Quan niệm của Aristotle về đức hạnh ...................................................... 34
2.3. Bàn về sự vô tiết độ (Akrasia).................................................................. 44
2.4. Bàn về những lạc thú................................................................................ 47
2.5. Bàn về tình thân hữu ................................................................................ 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 60

1


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Những cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật đã giúp cho thế giới
thay đổi. Đời sống vật chất của con người ngày nay rất phong phú. Chúng
ta đang sống trong thời kỳ với những tiện nghi hiện đại, những phương tiện
giải trí đa dạng. Sự phát triển về khoa học kỹ thuật khơng đi cùng với nó là
sự phát triển về đạo đức, trái lại đạo đức của một bộ phận không nhỏ đang
ngày càng xuống cấp. Ngày nay, sự hấp dẫn của vật chất khiến con người
ta bất chấp cả đạo đức để đạt được. Con người chúng ta ngày này dần trở
nên phụ thuộc vào những giá trị vật chất do chính mình tạo ra. Dường như,
con người đang bước từng bước đến với tình trạng “tha hóa” mà Karl Marx

đã từng cảnh báo.
Nhìn lại dịng chảy của lịch sử triết học, từ cách đây hơn 2300 năm,
Aristotle – nhà bách khoa toàn thư đã bàn đến một vấn đề mà cho đến ngày
nay nhìn lại chúng ta càng thấy thấm thía. Đó là mục đích sống của con người
là để đạt được gì ? Aristotle trả lời đó là hạnh phúc. Con người sống với mục
tiêu cuối cùng đó là có được hạnh phúc. Aristotle đã bàn luận nó một cách sâu
sắc và chí lý để ta thấy rằng nó dường như là sự thức tỉnh về thực trạng cuộc
sống của chúng ta ngày nay. Một luận điểm nổi bật của Aristotle, ông cho
răng : con người sống để hướng đến điều thiện tối thượng đó là hạnh phúc, và
tất cả những điều thiện khác là điệu cần có để giúp con người có được hạnh
phúc. Nếu nhìn theo cách đó, có thể thấy những giá trị về vật chất ngày nay ta
có được, cuối cùng là thứ điều kiện để ta tiến tới mục tiêu cao đẹp hơn, đó là
sống một cuộc đời hạnh phúc. Nhưng làm thế nào để sống một cuộc đời hạnh
phúc ? sẽ ít ai có thể bàn luận về vấn đề và đưa cho ta một câu trả lời hợp lý.
Thật may mắn vì ngày nay, chúng ta vẫn cịn giữ lại được những tác phẩm
mang đầy giá trị của các triết gia vĩ đại từ thời cổ đại mà cụ thể đó là
Aristotle.
2


“ Đạo đức học Nicomachean” là một trong số những tác phẩm như vậy.
Một cuốn sách rất quan trọng bàn về đạo đức học của Aristotle, nội dung nổi
bật của cuốn sách cũng chính là câu trả lời cho câu hỏi : làm thế nào để có
được hạnh phúc? .
Vì vậy trong khóa luận này, tác giả xin đi phân tích những tư tưởng đạo
đức học của Aristotle trong tác phẩm “ Đạo đức học Nicomachean” để làm đề
tại khóa luận tốt nghiệp. Mong rằng nguồn tri thức nhỏ bé của mình có thể
phần nào truyền tải được nội dung của tác phẩm.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu triết học cũng như nghiên cứu những tư tưởng đạo đức

học có một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự đổi mới tư duy lý luận nói
chung và sự phát triển của các khoa học triết học nói riêng.
Triết học Aristotle nói chung và đạo đức học của ơng nói riêng đã
được nghiên cứu, diễn giải ngay từ thời cổ đại cho đến tận ngày nay ở
nhiều nước khác nhau. Một trong những lĩnh vực luôn thu hút được sự
quan tâm và nghiên cứu khá kỹ trong hệ thống triết học của ông là đạo đức
học. Những đề tài liên quan đến vấn đề này ln được tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau.
Trước tiên phải kể đến những cơng trình nghiên cứu về triết học Hy
Lạp cổ đại và lịch sử triết học của các tác giả khác nhau với những vấn đề
được đề cập cũng khác nhau trong các sách tham khảo và giáo trình như
“Triết học Hy Lạp cổ đại” của Thái Ninh (1987) , trong đó, tác giả đã trình
bày triết học Hy Lạp từ khi hình thành đến thời kỳ Hy Lạp hoá, thời kỳ
suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại. Đối với triết gia
Aristotle, ngoài việc đi vào cuộc đời và sự nghiệp triết học thì tác giả đã
trình bày, phân tích rất nhiều nội dung như: Học thuyết về tồn tại, Logic
học,… và quan niệm về đạo đức, tuy cịn rất khái qt nhưng đó cũng là
một nguồn tư liệu quan trọng cho tác giả khóa luận tham khảo. Tiếp theo
3


phải kể đến “Triết học cổ Hy Lạp giản yếu” của Hào - Nguyên Nguyễn
Hóa (2004) , trong tập 2 “Tập bài giảng lịch sử triết học Hi La” của
Nguyễn Quang Thông và Tống Văn Chung (1990) , “Triết học Hy Lạp cổ
đại” của Đinh Ngọc Thạch (2000). Ở ba cuốn sách này, các tác giả đã
trình bày khá đầy đủ hệ thống triết học cũng như một số phạm trù đạo đức
học - những vấn đề đó được trình bày khá rõ ràng, dễ hiểu, do vậy chúng
là nguồn tư liệu tham khảo tương đối tốt cho khóa luận. Có thể kể đến
những ấn phẩm mới xuất bản gần đây như các cuốn “Lịch sử triết học Tây
Phương” (3 tập) của Lê Tôn Nghiêm (2000) ,... Hay những cuốn sách

trùng tên nhưng của các tác giả khác nhau như: “Lịch sử triết học” của Bùi
Thanh Quất và Vũ Tình (2002) , “Lịch sử triết học” do Nguyễn Hữu Vui
chủ biên (1998) , “Lịch sử triết học Phương Tây” của Nguyễn Tiến Dũng
(2005) , cuốn “Đại cương lịch sử triết học Phương Tây” do Đỗ Minh Hợp
chủ biên (2006) . Những cuốn sách này đều thuần tuý nói về lịch sử triết
học, trong đó có lịch sử triết học của Aristotle được bàn đến khá đầy đủ
bằng những khái quát chung nhất, do vậy cũng chưa đi sâu vào một lĩnh
vực nào của đạo đức học Aristotle... Các cơng trình nghiên cứu trên đã
cung cấp cho tác giả cái nhìn tồn diện về sự hình thành cũng như các
trường phái triết học tiêu biểu của thời kì Hy Lạp cổ đại, các học thuyết
triết học của các tác giả tiêu biểu, trong đó có một phần bàn về triết học,
đạo đức học Aristotle.
Ngoài những sách viết về lịch sử triết học và lịch sử triết học Hy
Lạp cổ đại nói trên, cịn có những chun khảo về triết học Aristotle như:
Năm 1974 cuốn “Triết học Aristotle” của Đặng Phùng Quân xuất bản ở
Sài Gòn , “Triết học Aristotle” của Vũ Văn Viên (1998) . Những tác phẩm
này đề cập đến hầu hết các tư tưởng triết học của Aristotle trong đó có đạo
đức học. Tiếp theo là cuốn “Aristotle với học thuyết phạm trù” của
Nguyễn Văn Dũng (1996) - cuốn này ngồi việc trình bày tương đối đầy
đủ, chi tiết về con người và sự nghiệp triết học, logic học của Aristotle, thì
4


đặc biệt tác giả đi sâu nghiên cứu nội dung của học thuyết “phạm trù”,
việc đọc các cuốn sách này đã giúp tác giả khóa luận cơ bản hiểu được
cuộc đời và sự nghiệp triết học của Aristotle và một phần khái quát tư
tưởng đạo đức học của ông…
Về triết học, đạo đức học Aristotle cịn có các bài báo, tạp chí khác
nhau cũng đề cập ở mức độ nhất định. Đăng trên tạp chí Triết học có các
bài: “Aristotle: con người và sự nghiệp” của tác giả Nguyễn Văn Dũng

(1993) , hay một bài khác của ông với tiêu đề “Vấn đề phương pháp trong
triết học Aristotle” (1997) ; Nguyễn Bá Dương với bài “Về vai trò sáng
lập lịch sử triết học của Aristotle” (2002); “Về tư tưởng giáo dục
Aristotle” của Nguyễn Bá Thái (2003) … Tham khảo những bài này đã
cho chúng tơi hiểu được khơng ít vấn đề liên quan đến tư tưởng triết học
và thấy được vai trò to lớn của Aristotle trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tư
tưởng giáo dục đạo đức.
Aristotle: Ngồi tác phẩm “Đạo đức học của Nicomachean” do
Đức Hinh dịch, mà tác giả khóa luận sử dụng làm tài liệu nghiên cứu thì
phải kể đến những cơng trình khác như: Tuyển tập danh tác triết học từ
Platôn đến Derrida của Forrest E. Baird , là cơng trình đề cập tới nhiều
triết gia, trong đó có dành một phần để giới thiệu các tác phẩm của
Aristotle, trong đó có nội dung đạo đức học. Và hàng loạt cơng trình khác:
“Khoa học và triết học Hy Lạp cổ đại” của Alan C. Bowen ; “Câu chuyện
triết học” của Will Durant …
Vậy là có khơng ít các tác phẩm triết học, các cuốn sách triết học,
các bài báo, tạp chí, các cơng trình nghiên cứu khác nhau... bàn về triết
học, đạo đức học của Aristotle. Mỗi tác giả lại đề cập theo những vấn đề
riêng mà họ quan tâm. Trong quá trình nghiên cứu thực hiện khóa luận
này học viên đã tham khảo, kế thừa trên tổng thể những tài liệu có liên
quan đến triết học, đạo đức học của Aristotle, học viên cũng cố gắng tập
5


trung chúng lại và bổ sung thêm trong khóa luận này để có được sự trình
bày của riêng mình những tư tưởng đạo đức học cơ bản nhất của Aristotle
trong tác phẩm “Đạo đức học của Nicomachean”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-


Mục đích: Khóa luận trình bày và phân tích những tư tưởng cơ bản

của đạo đức học Aristotle trong tác phẩm “Đạo đức học của
Nicomachean”
-

Để thực hiện mục đích trên, khóa luận phải giải quyết nhiệm vụ

sau:
+ Trình bày và phân tích tư tưởng cơ bản của đạo học Aristotle trong tác
phẩm “Đạo đức học của Nicomachean” ở các điểm chủ yếu như: Quan
niệm của Aristotle về: điều thiện và hạnh phúc; về đức hạnh và các thuộc
tính của đức hạnh; về sự vơ tiết độ ; về những lạc thú ; về tình thân hữu
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của khóa luận bao gồm các nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đặc biệt là phần liên quan đến mối quan hệ giữa ý thức xã
hội và tồn tại xã hội, khóa luận cũng dựa vào các tri thức khoa học chuyên
ngành khác, như lịch sử triết học, đạo đức học…
Quán triệt phương pháp luận duy vật biện chứng, khóa luận sử
dụng phương pháp thống nhất lơgíc - lịch sử và các thao tác so sánh, đối
chiếu, liệt kê, phân tích, tổng hợp để làm rõ nội dung vấn đề nghiên cứu.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tư tưởng đạo đức học Aristotle
Phạm vi nghiên cứu là lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại cụ thể là triết
học, đạo đức học Aristotle thông qua tác phẩm “Đạo đức học của
Nicomachean” do Đức Hinh dịch.

6



6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận góp phần nghiên cứu, làm sáng tỏ và hệ thống hoá những
nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Aristotle thông qua tác phẩm
“Đạo đức học của Nicomachean” mà đến nay vẫn còn giá trị và bước đầu
đưa ra một vài nhận xét, đánh giá về giá trị của tư tưởng đạo đức học
Aristotle.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Khóa luận góp phần làm sáng tỏ thêm và trình bày có hệ thống hơn
những tư tưởng đạo đức học của Aristotle, do vậy sẽ có ích cho việc tìm
tịi và lĩnh hội những kiến thức về đạo đức học của một vĩ nhân trong lịch
sử.
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người
nghiên cứu quan tâm tới triết học cổ đại, tới tư tưởng đạo đức học và cho
sinh viên, học viên cao học khoa triết học trong việc nghiên cứu đạo đức
học và triết học.
8. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung được kết cấu thành hai chương, tám tiết.

7


CHƢƠNG 1 : BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG CHO SỰ
RA ĐỜI ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA ARISTOTLE
1.1. Bối cảnh lịch sử
Thời cổ đại, nền kinh tế Hy lạp phát triển đều cả về nông nghiệp, thủ
công nghiệp, và thương nghiệp.
Vào thế kỷ XV cho đến thế kỷ IX TCN, xu hướng chuyển sang chế độ
chiếm hữu nô lệ đã hiện dần và ngày càng lộ rõ. Sự phát triển mạnh mẽ của
nông nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ thứ VII TCN là lực đẩy quan

trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu trong khu vực, dẫn đến sự ra đời các
thành bang (Polis) và các trung tâm văn hoá lớn như Athen, Sparta.
Thành bang Athen nằm trên vùng đồng bằng thuộc trung bộ Hy Lạp, là
nơi có nhiều hải cảng thuận lợi cho việc trao đổi mậu dịch, làm xuất hiện các
quan hệ tiền - hàng từ rất sớm và chính quan hệ này đã giúp cho giai cấp chủ
nơ giàu lên nhanh chóng. Do vị trí địa lý như vậy nên Athen phát triển mạnh
mẽ về thủ cơng nghiệp, thương nghiệp. Cịn ở Sparta lại tăng trưởng về nông
nghiệp. Cơ sở của nền kinh tế ở Hy Lạp chính là dựa trên chế độ chiếm hữu
nô lệ. Thời kỳ này, nô lệ là những người giữ vai trò rất quan trọng trong sản
xuất. Trong dân cư, lực lượng này chiếm đa số (ở Athen có tới 250 nghìn nơ
lệ trên 340 nghìn dân). Tuy họ bị coi là “cơng cụ biết nói”, “động vật biết nói”
nhưng chính họ lại là lực lượng quyết định sự đi lên mạnh mẽ của nền kinh tế
thời cổ đại này. Lực lượng sản xuất trong xã hội không ngừng phát triển đã
kéo theo sự phân công lao động trong xã hội: giữa lao động chân tay và lao
động trí óc, trong nông nghiệp chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, nghề thủ công
xuất hiện. Lúc này, những người lao động trí óc đầu tiên cũng xuất hiện ở
Athen. Họ là một bộ phận trong giai cấp chủ nơ giàu có được học hành.
(Athen đã trở thành, không chỉ là một trung tâm văn hố của Hy Lạp cổ đại
mà cịn là chiếc nôi của triết học Châu Âu). Điều này góp phần phát sinh các
ngành khoa học, trong đó có triết học, đạo đức học.
8


Chế độ công xã nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nơ lệ ra đời. Xã
hội có giai cấp đầu tiên của loài người xuất hiện. Giai cấp chủ nô và nô lệ là
hai giai cấp cơ bản của xã hội chiếm hữu nơ lệ, bên cạnh đó cịn có dân tự do.
Giai cấp chủ nơ nắm trong tay tồn bộ quyền hành cịn giai cấp nơ lệ khơng
được tham gia và không đủ khả năng tham gia các hoạt động xã hội, chính trị
và văn hố. Họ khơng có một chút quyền lợi nào ngồi sự lao động bị cưỡng
bức tàn bạo. Tài sản nằm trong tay giai cấp chủ nơ thực chất có được là do

bóc lột sức lao động của những người nô lệ. Cuộc sống khổ cực của giai cấp
nơ lệ chính là bản án tố cáo mặt trái của xã hội chiếm hữu nô lệ. So với
phương Đông, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại phát triển cao hơn và
đầy đủ nhất đến mức điển hình.
Chế độ nơ lệ là một chế độ xã hội có hình thức áp bức bóc lột tàn bạo
nhất, dã man nhất, vơ nhân đạo nhất trong lịch sử so với tất cả các hình thức
áp bức bóc lột ở các chế độ xã hội có giai cấp khác. Do vậy, ở xã hội này luôn
luôn diễn ra những cuộc nổi dậy tự phát của nô lệ chống lại chủ nô song kết
cục thường thất bại, thậm chí bị đàn áp rất dã man. Nguyên nhân chính của
những thất bại đó là do họ khơng có khả năng xây dựng một hệ tư tưởng phản
ánh những quyền lợi của mình. Họ xuất thân từ những người lao động chân
tay nặng nhọc ở các bộ lạc khác nhau với những ngơn ngữ khác nhau, do đó
họ đã khơng có tiếng nói chung, ngơn ngữ chung. Tuy nhiên, nhờ có chế độ
đó, giai cấp chủ nơ Hy Lạp cổ đại mới có thể thốt ly được hoạt động lao
động chân tay vất vả để xây dựng các khoa học, trong đó có triết học, nghệ
thuật.
Xã hội chiếm hữu nơ lệ hình thành, nền kinh tế phát triển về mọi mặt
đã dần dần dẫn tới sự tách rời thành thị với nông thôn, các quốc gia – thị
thành Hy Lạp được thành lập. Đó là nơi tập trung những cơ quan đầu não về
kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao... do giai cấp chủ nô xây dựng nhằm
bảo vệ và củng cố quyền sở hữu, quyền áp bức bóc lột của họ đối với nơ lệ và
9


dân tự do. Sự thành lập và phát triển của các thành thị góp phần làm cho văn
hố Hy Lạp tiến bộ. Ở các thành thị từng bước xuất hiện nền cơng nghiệp,
thương nghiệp và những hình thức đầu tiên của khoa học, triết học và nghệ
thuật.
Sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp giữa các thành bang chính là đặc
điểm chính về phương diện chính trị của chế độ nô lệ Hy Lạp cổ đại. Sự tranh

giành quyền lực đó diễn ra trên nền cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt,
phức tạp giữa chủ nô và nô lệ, giữa những người giàu có với dân “tự do”.
Trong bản thân giai cấp chủ nơ cũng có mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa chủ
nơ q tộc - tập trung ở thành bang Sparta nơi nông nghiệp phát triển với chủ
nô dân chủ - tập trung ở thành bang Athen hình thành trên cơ sở của sự phát
triển thương nghiệp, thủ công nghiệp. Những mâu thuẫn này đã dẫn đến cuộc
chiến tranh tàn khốc kéo dài trên 30 năm, làm cho đất nước Hy Lạp suy yếu,
lực lượng sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng. Chiến tranh, nghèo đói đã châm
ngịi cho các cuộc nổi dậy của nơ lệ. Chớp lấy thời cơ đó, nhà nước Macedonia
ở phía bắc Hy Lạp dưới sự chỉ huy của vua Philip đã đem qn thơn tính tồn
bộ Hy Lạp và đến thế kỷ II TCN, cuối cùng Hy Lạp đã bị đế chế La Mã thơn
tính.
Sự phát triển của thương nghiệp và thủ công nghiệp đưa tới sự xuất
hiện tầng lớp chủ nô dân chủ. Địa vị của những chủ nô dân chủ về kinh tế,
chính trị ngày càng được nâng cao. Song, họ lại bị chủ nơ q tộc kìm hãm.
Vì thế, tầng lớp chủ nô dân chủ đấu tranh quyết liệt với chủ nô quý tộc. Cuộc
đấu tranh này được phản ánh rõ rệt trong triết học. Cũng từ sự phát triển của
nền sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và hàng hải của
Hy Lạp cổ đại đã đặt ra những nhu cầu thực tiễn quyết định sự phát sinh và
phát triển những tri thức về thiên văn học, khí tượng học, tốn học và vật lý
học. Khoa học thực nghiệm (quan sát) đã cho phép thu được những tri thức
khoa học như: phát minh ra lịch một năm gồm 12 tháng với 365 ngày của
10


Talet, những phát kiến về toán học của Talet và Pitago, hình học của Euclid,
vật lý học của Acsimet... đã tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy sự hình thành triết
học, hình thành những tư tưởng đạo đức học. Những tri thức này địi phải giải
thích tự nhiên như là tổng thể. Chúng làm cho các quan niệm thần thoại
truyền thống và các tôn giáo nguyên thuỷ vào khoảng thế kỷ VII - VI TCN đã

khơng cịn đáp ứng và lý giải được những vấn đề mới của thế giới quan.
Những khám phá khoa học đầu tiên của con người cổ đại đã cho thấy sự giả dối
của bức tranh vũ trụ quan và nhân sinh quan của các tôn giáo và thần thoại, địi
hỏi con người phải có cách lý giải mới về thế giới xung quanh và cuộc sống
của mình. Trong hình thức sơ khai ban đầu những tri thức này xen kẽ với tri
thức triết học, với quan điểm chính trị và chúng gắn quyện với nhau tạo thành
một khối thống nhất chặt chẽ không thể chia cắt được. Lúc này, triết học và các
khoa học khác chưa có sự phân ngành rõ rệt. Các nhà triết học đồng thời là các
nhà toán học, thiên văn học, vật lý học, đạo đức học... Qua đó có thể thấy, triết
học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã gắn chặt với nhu cầu của thực tiễn và
không tách rời các khoa học.
Sự phát triển của khoa học Hy Lạp cổ đại còn chịu ảnh hưởng từ các
khoa học ở phương Đông. Sự tiếp biến tư tưởng Đông - Tây đã tạo điều kiện
cho triết học Hy Lạp phát triển, quan hệ chính trị, giao lưu văn hố, nghệ
thuật, khoa học với phương Đơng là cơ sở cho sự nảy nở rực rỡ của tư tưởng
triết học và tính mn màu mn vẻ của nó trong thời kỳ cổ đại Hy Lạp.
Do nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hoá mà các chuyến vượt biển đến
với các nước phương Đông đã trở nên thường xuyên. Khi những con thuyền
tung mình lướt sóng thì tầm nhìn của những người Hy Lạp cổ đại cũng được
mở rộng, các thành tựu văn hố của Ai Cập, Babilon đã lơi cuốn con người
Hy Lạp. Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo
lường... và cả những yếu tố huyền học cũng được người Hy Lạp đón nhận.
Các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp như Pitago, Đêmơcrít đã từng chu du
11


sang Ai Cập, Babilon... tiếp thu những tri thức khoa học đã được tích lũy ở
đây... Alan Cbower cho rằng “nền khoa học mới phát triển ở Ionia vào thế kỷ
VI TCN chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên văn học Babylon, hầu như việc tạo
ra bảng chữ cái là dựa vào các tư liệu của người Phoenicia cũng như sự sáng

tạo về điêu khắc và kiến trúc Hy Lạp dựa trên các mẫu vật của Ai Cập.
Những bước phát triển của tư duy đã đưa người Hy Lạp cổ đại sáng tạo
ra chữ viết từ thế kỷ VIII TCN với 24 chữ cái.
Những thành tựu trên đã tạo ra một trong những nền văn hoá rực rỡ
nhất, sớm nhất của nhân loại. Nó vẫn cịn giá trị cho đến tận ngày nay.
Q trình lịch sử trên đây góp phần tạo lên sự hình thành và phát triển
về mọi mặt của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại, trong đó có triết học.
Sự hình thành triết học cũng như tư tưởng đạo đức học Hy Lạp không
diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di
sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong
các hình thái sinh hoạt tôn giáo, trong các mầm mống của tri thức khoa học và
là kết quả của đời sống kinh tế - xã hội.
Những điều kiện lịch sử cụ thể, những cơ sở của một nền kinh tế - xã
hội phát triển đến một trình độ nhất định đã làm thành tiền đề cho những tư
tưởng triết học, đạo đức học ở Hy Lạp cổ đại ra đời. Và sự xuất hiện của các
nhà triết học đầu tiên đã gần như đặt dấu chấm hết sự phát triển của thần
thoại. Những viễn cảnh bóng bẩy do tư duy của con người tạo ra đã bớt đi sự
hấp dẫn trong khi những nhu cầu của đời sống thường nhật đã trở nên bức
bách đòi hỏi phải được giải đáp bằng tri thức chân thực. Niềm tin chất phác,
ngây thơ vào sự tồn tại của thần thánh đã được thay thế bằng những luận giải
sâu sắc hơn của lý tính, của sự thơng thái.
Với tính cách là tinh hoa tinh thần của thời đại, những tri thức triết học
đã cố gắng đem đến lời giải đáp nghiêm túc, sâu sắc, hợp lý, có hệ thống về
12


những gì diễn ra xung quanh, về vị trí của con người trong thế giới và thế giới
của chính con người, do con người tạo ra cùng những giá trị, chuẩn mực,
những định hướng cho mình. Đó là lí do vì sao các nhà triết học đầu tiên lại
được gọi là những người yêu mến sự thông thái.

Triết học Hy Lạp khơng chỉ hình thành, ra đời ở một địa điểm, mà nó
đã xuất hiện trên những mảnh đất khác nhau của Đại Hy Lạp. Sự giao lưu
giữa các “vùng”, các “nôi” triết học khác nhau tạo nên sự đan xen nội tại của
triết học Hy Lạp. Sự giao lưu của các dịng khác nhau đã hồn tất vẻ phức tạp
đa dạng toàn diện của triết học Hy Lạp.
Như vậy, bên cạnh sự kế thừa thuần tuý những tư tưởng ở bên ngồi
(tốn học, thiên văn học... ) Hy Lạp cổ đại đã khơng ngừng tự mình vươn lên
trên cơ sở những điều kiện do thiên nhiên và con người nơi đây tạo ra. Điều
kiện quyết định sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp, của những tư
tưởng đạo đức học phơi thai chính là kết quả nội sinh tất yếu của cả một dân
tộc, một thời đại, Mác cho rằng, các nhà triết học không phải là những cây
nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình mà những
tinh lực tinh tế nhất, q giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong
các khái niệm triết học.
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng cho sự ra đời đạo đức học Aristotle
1.2.1 Tƣ tƣởng đạo đức học của Democritos ( Khoảng 460 TCN)
Democritos là một triết gia Hy Lạp tiêu biểu cho thời kỳ tiền Socrates.
Ơng là học trị của Leucippus và đã cùng với thầy của mình tạo ra thuyết
nguyên tử thô sơ. Theo học thuyết của ông, mọi vật chất được cấu thành từ
các dạng khác nhau của các phân tử khơng thể chia nhỏ được, khơng nhìn
thấy được, được gọi là các atoma. Về mặt lý thuyết, ông được coi là nhà duy
vật, nhưng trong thực tế đời thường, ông lại là một trong những nhà duy tâm
bậc nhất của thời đại. Democritos được nhận xét là một nhà triết học điềm
13


tĩnh, giản dị và thường được người đời gọi là “một nhà hiền triết hạnh phúc và
toàn mỹ”
Học thuyết về đạo đức học của ông là những quy tắc sống thực tiễn,
ơng đề cao khối lạc lên hàng đầu : cái thiện là khoái lạc, cái ác là đau khổ.

Nhưng để đạt được cái thiện ấy, khoái lạc phải là một sự hoan hỉ dài hạn và
trường tồn, vì lý do ấy, con người khơng tìm được khối lạc trong những sự
vật chóng qua. Hạnh phúc khơng ở trong những của cải ngoại tại mà ở trong
đáy sâu của tâm hồn. Chỉ có những điều tốt trong tâm hồn mới cho phép ta
tham dự vào cái gì bất tử của thần linh.
Đức hạnh hoàn hảo nhất là minh triết, và chỉ có minh triết mới giúp ta
phân biệt những cái thiện đích thực và là nguyên tắc cho tư tưởng đúng và
hành động đúng. Nhờ có minh triết mà con người kiềm chế được những dục
vọng của mình mà vươn lên trên những giao động của cuộc sống và đem lại
cho tinh thần sự thỏa mãn hoàn hảo nhất. Aristotle có lẽ đã tiếp thu những
quan điểm này của Democritos để đi đến những quan niệm về đạo đức học
của mình.
1.2.2. Tƣ tƣởng đạo đức học của Socrates (470 – 399 TCN)
Socrates là nhà triết học nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại, người thầy của Plato,
theo nhận xét của Heghen “ông đã làm một bước ngoặt lịch sử vĩ đại” trong triết
học cổ Hy Lạp và La Mã - Socrates là trung tâm của thời đại cổ đại. Ông là tâm
điểm của lịch sử tư tưởng cổ đại, vì ở ơng hội tụ các con đường phát triển trước
đó, mở ra những xu hướng phát triển mới cho suốt giai đoạn tiếp theo.
Socrates sinh khoảng năm 470 TCN ở Athen. Cha ơng là nhà điêu
khắc, cịn mẹ làm bà đỡ. Lối sống của ông khiêm nhường và giản dị. Socrates
khơng quan tâm tới một nghề nào khác ngồi triết học. Chính ơng đã trở
thành mẫu hình lý tưởng về nhà thông thái và nhà triết học đối với mọi thời

14


đại sau này, vì tinh thần triết lý sống động của ông hiện diện trong ý thức của
mỗi người quan tâm đến cuộc đời và triết học Socrates.
Giống như nhiều nhà ngụy biện khác, ơng cũng quan tâm tới chính trị xã hội, con người, đạo đức. Tên tuổi của ông gắn liền với việc đưa các suy tư
triết học quay trở lại với con người. Ông đặc biệt quan tâm tới vấn đề con

người, coi đó là trung tâm của các suy tư, (cố nhiên đây là con người có chân
lý và giá trị), là chủ đề chính trong các cuộc đàm thoại triết học của mình. Có
thể khẳng định rằng, vấn đề về những phẩm chất đạo đức của con người là
trung tâm của toàn bộ triết học Socrates. Về thực chất, triết học Socrates là
triết học đạo đức, ông được đánh giá là nhà triết học đạo đức đầu tiên trong
lịch sử châu Âu đặt nền móng cho đường hướng khai sáng – duy lý trong đạo
đức học muộn hơn sau này. Chính từ giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức của
ông mà sau này Aristotle đã chịu ảnh hưởng rất nhiều.
Trong quan niệm về đạo đức của Socrates, nổi lên những vấn đề cơ
bản như:
Đạo đức là mục đích của tư duy
Có thể xác định đối tượng của tư duy là: các việc làm của con người,
nhận thức bản thân của con người, những vấn đề của cuộc sống có đạo đức và
việc đạt tới cái phúc. Với Socrates, tìm kiếm chân lý trùng hợp với khát vọng
về một cuộc sống tốt đẹp nhất, về cái phúc.
Cái thiện, trong quan niệm của Socrates chính là đối tượng của triết học
nói chung. Cái thiện ấy chính là cái thiện phổ quát – khái niệm dùng để giảng
nghĩa hành vi của con người trong hoạt động sống của mình.
Socrates phê phán những quan niệm sai lầm về cái thiện. Ở thời ông,
mỗi khi bàn về vấn đề giá trị, thì phải thơng qua các khái niệm cái thiện, kỹ
năng, đức hạnh và hạnh phúc. Các khái niệm này có thể diễn tả theo ba
khuynh hướng.
15


Có thể quan niệm cái thiện theo cách hiểu của chủ nghĩa vị lợi
(Utilitarismus) như cái gì đó có mục đích, hữu ích, cần thiết.
Hay theo cách hiểu của chủ nghĩa khoái lạc, cái thiện là cái dễ chịu,
khao khát, ham muốn tương ứng.
Chủ nghĩa tự nhiên lại coi cái thiện là sự vượt trội và là sức mạnh của

kẻ thống trị.
Vậy thì đâu là chuẩn mực mới của cái thiện? Socrates đã chỉ ra một
cách tích cực nội dung cấu thành bản chất giá trị của đức hạnh. Từ những hội
thoại của Plato thời trẻ, ta thấy câu trả lời của Socrates luôn là: người ta cần
thông thái và nhanh trí. Trong cái cười hiện lên lịng dũng cảm, lòng nhiệt
thành (trong hội thoại Euthyphron), ở trong hội thoại Charmides là lẽ phải,
trong hội thoại Protagor đã toát lên cái đức hạnh nói chung là tri thức. Theo
ơng, người hiểu biết là người thông thái, nhà thông thái là tốt, tư tưởng đó
được thể hiện ngắn gọn trong cuốn sách đầu tiên bàn về Nhà nước. Điều này
phù hợp với Aristotle, người mà sau Socrates tin rằng: tất cả những người có
đức hạnh đều sống trong sự hiểu biết.
Bắt đầu từ Socrates, triết học chuyển sang một giai đoạn mới - nghiên
cứu về con người. Có thể nói, Socrates đã đánh dấu bước ngoặt từ triết học tự
nhiên cũ sang triết học đạo đức, từ việc nghiên cứu về vũ trụ chuyển sang
nguyên lý nhân sinh. Ông là người đầu tiên đặt vấn đề con người với tư cách
là một sinh thể có đạo đức vào trọng tâm của triết học. Là người Hy Lạp, ông
cũng quan niệm sự thông thái không những là nghệ thuật hoạt ngôn mà nói
chung cịn là kĩ năng sống. Theo ơng, việc làm chủ sự thơng thái tự thân (khái
niệm thơng thái nói chung với tư cách là khái niệm phổ biến) sẽ cho phép dễ
dàng làm chủ sự thông thái trong các lĩnh vực riêng biệt. Đó cũng chính là sự
tiếp cận Socrates với mọi khái niệm chung: cái thiện và cái ác, cái đẹp và cái
xấu, công bằng và cái hợp pháp, v.v... Ông đi từ những biểu hiện riêng biệt
của một đối tượng đến việc hình thành những khái niệm chung về đối tượng
16


ấy. Tự nhận như một người khơng biết gì, kích thích suy nghĩ bằng cách liên
tục đặt ra các câu hỏi, ông đã nghiên cứu bản chất nhân bản của con người,
thế nào là thiện, ác, chính nghĩa, tình u, lương tâm, danh dự... tức là những
điều kiện tạo thành bản chất tâm hồn của con người. Ông hướng triết học đến

tự nhận thức, nhận thức chính mình, một con người, một nhân cách có đạo
đức và mang ý nghĩa xã hội.
Con người đức hạnh đạt tới sự tuyệt vời khi điều mình muốn biết phải là điều
thiện thực sự.
1.2.3. Tƣ tƣởng đạo đức học của Plato (427 - 347 TCN)
Là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất thời cổ đại, là
học trò của Socrates. Xuất thân từ một gia đình quý tộc thượng lưu, Plato là
người đắc lực phục vụ tầng lớp chủ nô quý tộc và là người thành lập Viện hàn
lâm Academias - trường đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, hoạt động liên
tục trong 915 năm (386 TCN - 529). Ông là người sáng lập và là đại biểu lớn
nhất của triết học duy tâm khách quan thời cổ đại.
Plato là nhà triết học quan tâm sâu sắc tới nhiều lĩnh vực hoạt động: chính
trị - xã hội, đạo đức, thẩm mĩ... Song một trong các bộ phận quan trọng nhất của
triết học Plato là học thuyết về con người, về xã hội: cách thức tổ chức cuộc sống
tốt nhất của con người, trong đó trung tâm của mọi tìm tịi triết học là con người
và số phận của nó. Vấn đề trung tâm được tư tưởng triết học cổ đại giải quyết là
việc đạt tới phúc: con người có được cuộc sống tốt nhất, có đạo đức. Do vậy,
hồn tồn có thể nói, những tư tưởng trước đó của Plato về tồn tại, về ý niệm, về
nhận thức, về vũ trụ đều là sự chuẩn bị trước và luận chứng cho những vấn đề và
những giải pháp sẽ xuất hiện trong quá trình lập luận về con người.
Quan điểm về ý niệm là nền tảng tối hậu của đạo đức học Plato. Cấp
bậc đạo đức đích thực và phái sinh không phải là thể xác và tâm hồn, mà là
lĩnh vực ý niệm. Trong quan niệm về đạo đức, Plato đề cập tới thiện và ác.
17


Theo ơng, thiện hay ác đã có sẵn ở ý niệm rồi. Trước hết là ý niệm “thiện” với
tư cách nguyên nhân của mọi cái đúng và cái đẹp. Cái thiện thực hiện chức
năng của cái thống nhất. Cái thống nhất là nguyên tắc của tồn tại. Tồn tại
mang tính thiện vì nó là cơ sở và cội nguồn của mọi thứ. Plato ví cái thiện

như mặt trời soi sáng mọi vật trong thế giới vật thể, là cơ sở cho sự sống và
mọi sự sinh sơi nảy nở, cịn ý niệm cái thiện là cơ sở tối hậu của mọi vật trong
thế giới vơ hình, là bản chất nhờ đó mọi vật được hiện hữu và được nhận
thức. Điều này ẩn chứa một luận điểm sâu xa rằng: tồn tại tự nó là cái thiện.
Theo đó, người nào đạt tới cái thiện thì người đó hạnh phúc. Con người có thể
đạt tới cái thiện như thế nào? Nhờ nhận thức và tình u. Có thể có ba thang
bậc của tình yêu: yêu thể xác, yêu tinh thần và yêu cái thiện. Thực chất của
nhận thức là việc tinh thần hồi tưởng lại những cái nó đã nhìn thấy ở trên
thượng giới, khi còn nằm trong thế giới ý niệm.
Trong học thuyết về nhà nước lý tưởng, Plato đã tìm cách giải quyết
vấn đề cơ bản – con người đạt tới số phận tốt đẹp bằng cách và như thế nào?
Nhà nước hoàn hảo là lối sống thể hiện cái phúc – biểu hiện thế tục của ý
niệm tối cao. Trong nhà nước hồn hảo, cơng bằng xã hội và tính hợp mục
đích khơng tách rời khỏi đạo đức và phẩm giá cá nhân. Chính vì vậy mà đạo
đức cá nhân và cơng bằng xã hội, lợi ích chung và lợi ích riêng được xem xét
như một thể thống nhất không phân chia được và quy định lẫn nhau trong học
thuyết Plato và Aristotle sau này. Và ở đó những vấn đề tổ chức xã hội không
tách khỏi những vấn đề đạo đức và phẩm hạnh.
Trong xã hội thời Plato, giữa cá nhân và xã hội có mối liên hệ mật thiết
tới mức có thể coi nhà nước là hệ thống đạo đức xã hội: Đạo đức được duy trì
và phát triển nhờ những nỗ lực chung của mọi người. Khát vọng về phúc là
khát vọng chung của nhà nước, cũng như của mỗi cá nhân. Nó trở thành cơ sở
và dấu hiệu của sự thống nhất giữa chúng, vì phúc có bản chất thống nhất.

18


Khi xã hội hướng đến phúc, nó trở thành xã hội cơng bằng. Khi cá nhân
hướng đến phúc, nó trở nên cá nhân có đạo đức.
Theo Plato, linh hồn có ba bộ phận cơ bản. Đó là, thứ nhất, bộ phận

mong muốn (hay dục vọng): trải nghiệm ấn tượng, tình cảm và ham muốn;
thứ hai, bộ phận ý chí, khát vọng, mơ ước; thứ ba, bộ phận lý tính. Ơng đã
hình tượng hố ba bộ phận này của linh hồn bằng cỗ xe song mã, trong đó lý
tính thì lái xe, con ngựa có ý chí thì nhận thức được ý niệm. Con ngựa thèm
khát dục vọng thì sa vào tối tăm, dốt nát, không nhận thức được chân lý (ý
niệm). Vận dụng học thuyết này vào đạo đức, Plato cho rằng lý tính của linh
hồn là cơ sở của sự thơng thái. Ý chí là cơ sở của lịng dũng cảm, chế ngự dục
vọng, làm cơ sở cho sự điều độ. Ba yếu tố này kết hợp với nhau một cách hài
hồ dưới sự chỉ đạo của lý tính sẽ tạo ra yếu tố thứ tư là chính nghĩa. Đạo đức
học của Plato dựa vào bốn yếu tố đó. Đạo đức đó khơng hướng con người vào
việc thực hiện những hành vi đạo đức trong cuộc sống hiện thực mà hướng
vào ý niệm tối cao của cái thiện. Đó là sự thơng thái và lịng dũng cảm.
Những biểu hiện của các hình thức phẩm hạnh đạo đức ấy trong xã hội
là ba tầng lớp xã hội cơ bản, hay ba loại công dân: tầng lớp người lao động:
nông dân, thương gia, thợ thủ công, tức những người đáp ứng nhu cầu vật
chất và thể chất của con người,... tầng lớp này cần đến đức hạnh ơn hịa, hay
kiềm chế, đức hạnh này được Plato hiểu như “một loại trật tự, một sự kiềm
chế một số khoái lạc và thèm muốn” [16, 62]; một bộ phận công dân khác –
chiến binh, nhiệm vụ của họ là bảo vệ nhà nước khỏi kẻ thù và duy trì trật tự
trong nhà nước, đức hạnh phù hợp với họ là lòng dũng cảm - theo Plato, dũng
cảm nghĩa là: biết duy trì một điều gì đó. Sự duy trì này phải được diễn ra
trong mọi hồn cảnh, nghĩa là phải duy trì nó ln ln và khơng bao giờ bỏ
nó, cho dù là dưới ảnh hưởng của vui sướng hay đau khổ, ước muốn hay sợ
hãi...; cuối cùng, tầng lớp thứ ba là những người sở hữu “nghệ thuật làm vua”,
tức năng lực quản lý và giáo dục con người, hướng họ đến với cái phúc. Plato
19


gọi những người này là các nhà triết học, đức hạnh phù hợp với vai trị của họ
là sự thơng thái. Ngồi ra, cịn một đức hạnh thứ tư mà chung đối với tất cả

các tầng lớp là – chính nghĩa, chính nghĩa chính là phúc lợi cơ bản. Nhà nước
lý tưởng trong quan niệm của Plato chính là việc sắp xếp, thực hiện đúng
chức năng của ba tầng lớp trong xã hội tương ứng với những đức hạnh của
mỗi tầng lớp.
Theo Plato, con người là thực thể có năng lực vươn tới cái thiện và
hiện thực hóa nó trong những phẩm hạnh của mình, những phẩm hạnh quan
trọng nhất trong số đó là sự thơng thái, lịng dũng cảm, sự khơn ngoan (biết
tính tốn), sự ơn hịa và sự cơng bằng. Thêm vào đó, cơng bằng là sự thống
nhất của ba phẩm hạnh kia. Công bằng là đức hạnh được Plato đặc biệt chú ý
vì theo ơng, nó là “đức hạnh xã hội”, nó được thể hiện trong đời sống cá nhân
lẫn cộng đồng, nó đóng vai trị là thước đo, là sự thẩm định tính chất của thiết
chế nhà nước. Vậy cơng bằng là gì? Plato đưa ra định nghĩa về cơng bằng như
sau: cơng bằng là có hoặc làm cái gì thuộc về ta. Định nghĩa của Plato diễn tả
một cách giản dị rằng: công bằng là mỗi người nhận được cái gì mình đã làm
ra và làm cơng việc thích hợp với bản tính của mình nhất. Một người công
bằng là một người ở đúng vị trí của mình, làm theo đúng bản tính của mình và
trả lại cho xã hội những cái gì họ đã nhận của xã hội. Hay nói cách khác, cơng
bằng là lo việc của mình và khơng xía vào việc của người khác. Người công
bằng không cho phép các yếu tố khác nhau trong tâm hồn mình dẫm chân lên
các chức năng khác nhau. Như vậy công bằng thể hiện ở hoạt động hài hòa
của các bộ phận tinh thần và là khâu liên kết giữa đạo đức học và chính trị
học – học thuyết về nhà nước.
Vậy là trong quan niệm về đạo đức, Plato đã nêu ra những phẩm chất
cần có của con người như: thiện, ác, phúc, những phẩm chất như: ơn hịa,
dũng cảm, thơng thái, chính nghĩa, cơng bằng,... Sau này những tư tưởng đó
đã được Aristotle xem xét lại một cách có phê phán.
20


1.3. Aristotle và tác phẩm "Đạo đức học của Nicomachean"

1.3.1. Aristotle: cuộc đời và sự nghiệp triết học
Aristotle - bộ óc bách khoa của nền triết học và khoa học thời Hy
Lạp cổ đại, - người nêu rõ mục đích các hành động của con người là
hướng vào điều thiện, và mục đích cuối cùng, cao nhất của con người là
hạnh phúc. Con người hạnh phúc là con người giống như Chúa, có cuộc
sống no đủ, khơng thiếu thốn gì. Song hạnh phúc cũng lại phụ thuộc vào
các điều kiện bên ngồi và cũng khơng phải chỉ là vấn đề đức hạnh - cá
nhân. Để bảo đảm cho con người có một cuộc sống hồn hảo trong xã hội,
đạo đức học của Aristotle đề cao cơng bằng và tình bạn, coi công bằng là
đạo đức cao đẹp của con người và của những quan hệ giữa người với
người. Ông là một trong số những nhà triết học vĩ đại nhất thời cổ Hy Lạp.
Aristotle là học trò xuất sắc của Plato. Ông sinh năm 384 TCN tại
thành phố Stagir trên bờ biển Egie cách Athen 300km về phía bắc, là
thuộc địa của xứ Macedonia. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có
bố làm thầy thuốc cho vương triều Macedonia. Thiếu thời ông thường
giúp bố trong nghề thuốc ở chốn cung đình và tại đây ơng đã quan hệ với
Philip - con vua Aminta (cầm quyền trong những năm 393 TCN - 369
TCN) - người sau này đã thay vua cha trị vì xứ Macedonia. Năm 15 tuổi,
Aristotle mồ cơi cả cha lẫn mẹ. Do lịng say mê khoa học, ông đã không
theo nghiệp thuốc gia truyền và tìm hướng đi riêng cho mình. Dưới sự
giúp đỡ của Prôksen - cha đỡ đầu của Aristotle, ông rời bỏ quê hương tới
Athen - trung tâm văn hoá của Hy Lạp để học tập. Năm 18 tuổi, ông nhập
học tại Học viện Academias của Plato và ở đó trong suốt nhiều năm cho
đến khi Plato mất. Cuộc sống của Aristotle gắn liền với Academias, ông
không giao tiếp với người sáng lập ra nó, mà chuyên tâm nghiên cứu tỉ mỉ
triết học Plato. Tại đây, Aristotle đã có được một nhãn quan khoa học
quảng bá, xây dựng quan điểm triết học và khoa học của riêng mình. Khi
so sánh Aristotle với Ksenokrat là hai học trị của mình, Plato đã nói: đối
21



×