Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN CAO HỌC Quan niệm triết học về con người trong học thuyết về nhân của khổng tử và vai trò, ý nghĩa đối với việc phát triển con người hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.32 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC

QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT VỀ
NHÂN CỦA KHỔNG TỬ VÀ VAI TRÒ, Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
Trong suốt tiến trình phát triển của văn minh nhân loại chúng ta có thể dễ
dàng tìm thấy những câu hỏi được đưa ra về con người như “Con người có nguồn
gốc ra sao?”; “Con người có vị trí và vai trị gì trên thế giới?”, hay sự trích dẫn,
ghi chép, các huyền thoại về con người và nguồn gốc của con người được viết
một cách đầy trang trọng trong kinh điển của các tôn giáo lớn trên thế giới. Như
vậy có thể thấy được rằng con người từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại
đã là đối tượng được rất nhiều tôn giáo, các ngành khoa học và các nền văn hóa
khác nhau đưa ra nghiên cứu, suy ngẫm trong các lý luận của mình và điều này
diễn ra xuyên suốt trong tiến trình lịch sử văn minh nhân loại. Triết học với tính
cách là ngành khoa học lý luận chung nhất về tự nhiên xã hội và tư duy cũng
1|Page


khơng nằm ngồi xu thế chung đó là nghiên cứu về con người. Sự nghiên cứu về
con người của triết học có sự khác biệt tương đối so với các ngành khoa học cụ
thể khác. Điều này thể hiện ở chỗ quan điểm về con người của triết học thể hiện
cái nhìn bao qt, tồn diện về con người về cả mặt tâm lý xã hội và đặc điểm tự
nhiên của nó. Đặc biệt về vấn đề đặc điểm tâm lý xã hội của con người rất được
các nhà triết học quan tâm nghiên cứu nhất là trong triết học Phương Đơng nói
chung và triết học Trung Hoa cổ đại nói riêng. Đại diện tiêu biểu và có ảnh hưởng
nhất trong việc nghiên cứu về con người trong triết học Trung Hoa cổ đại đó là
Khổng Tử và quan điểm quan trọng nhất của ơng đó là nội dung về Nhân. Vậy
quan điểm triết học về con người của trong triết học của Khổng Tử là gì? Nhân


trong quan điểm của Khổng Tử là gì? Và học thuyết đó có giá trị gì đối với việc
xây dựng và giáo dục đạo đức con người hiện đại? Đó là những nội dung sẽ được
trình bày trong tiểu luận “Quan niệm triết học về con người trong học thuyết về
nhân của Khổng Tử và vai trò, ý nghĩa đối với việc phát triển con người hiện
nay.”

PHẦN NỘI DUNG
VAI TRÒ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC VỀ CON

I.

NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG HOA.
Con người trong lịch sử nhân loại được luôn được đặt ở những vị trí hết sức
trang trọng và là đối tượng nghiên cứu quan trọng nhất, chuyên sâu nhất mà các
ngành khoa học khác nhau ln tìm kiếm đáp án, ln tìm kiếm các lời giải cho
các câu hỏi xoay quanh vấn đề về con người. Bản thân các định nghĩa về con người
của các nền văn hóa khác nhau cũng có sự khác nhau khá cơ bản. Phương Đơng
được coi là một trong những cái nơi của lồi người là một nơi có mà những nghiên
cứu về con người có vai trị và vị trí hết sức quan trọng trong tư tưởng triết học.
2|Page


Nếu trong triết học Ấn Độ con người được tìm hiểu và nghiên cứu để hướng tới
mục tiêu đó là được giải thốt khỏi những khổ đau thì trong triết học Trung Quốc
quan niệm về con người và cách nghiên cứu về con người lại có sự khác biệt.
Người Trung Quốc coi con người là một “Tiểu thiên vũ trụ” tức là con người chính
là một vũ trụ được thu nhỏ và quy tụ lại, những đặc trưng của thế giới tự nhiên to
lớn đều được quy tu lại, được tổng hợp lại thành con người. Đối với triết học Trung
Quốc con người chính là đối tượng nghiên cứu mang tính chất gốc rễ, đặc biệt là
vấn đề về bản tính của con người để từ các nội dung đó các nhà triết học Trung

Hoa cổ đại đưa ra quan điểm về chính trị, xã hội.
Với tầm quan trọng như vậy triết học về con người trong triết học Trung
Quốc đã được nhiều các học giả khác nhau đưa ra các định nghĩa, các quan điểm
khác nhau khi nói về bản tính của con người. Trong lịch sử tư tưởng triết học
Trung Quốc có những học giả đã đưa ra quan điểm cho rằng bản tính của con
người là ác như Tn Tử và sau này học trị của ơng là Hàn Phi Tử lại tiếp tục kế
thừa và phát triển quan điểm này để hình thành quan điểm trị quốc bằng pháp trị,
hay cũng có nhà triết học lại cho rằng bản tính của con người là thiện như là Mạnh
Tử và cũng từ quan điểm về tính thiện này ông đã đưa ra các cách, các chuẩn mực
để xây dựng và cai trị xã hội đặt nhân dân lên làm gốc – quan điểm này được các
nhà chính trị đời sau học theo và áp dụng trong đường lối của mình, hay như quan
điểm về con người của Mặc Gia lại được đưa ra dựa trên sự xem xét những cái
chung, những cái lợi chung của quần chúng nhân dân trong xã hội để từ đó mà đưa
ra quan điểm chính trị của mình… và cịn nhiều các quan điểm khác về con người
được đưa ra trong triết học Trung Hoa. Như vậy có thể thấy được rằng các quan
điểm khác nhau kể trên là có sự khác nhau xuất phát từ góc độ mà các nhà triết học
Trung Hoa lựa chọn để nghiên cứu về con người, điều này đã tạo nên một sự đa
dạng, phong phú về nội dung về triết học con người đồng thời qua đó tạo nên sự
3|Page


phong phú trong các quan niệm về cách trị quốc và quan điểm về chính trị - xã hội
của các nhà triết học Trung Hoa cổ đại. Cho tới hiện nay các quan điểm này vẫn
cịn có những nội dung mà giá trị xã hội cũng như giá trị nhân văn vẫn còn nguyên
ý nghĩa đối với xã hội hiện thực.
Chính từ những điểm này chúng ta có thể thấy được rằng trong triết học
Trung Hoa vị trí và vai trò của học thuyết triết học về con người là vô cùng quan
trọng. Triết học về con người là một nội dung then chốt mà mọi nhà triết học Trung
Hoa đều quan tâm xem xét và nghiên cứu nó một cách hết sức nghiêm túc, có sự kế
thừa và phát triển các quan điểm của những người đi trước. Điểm này đã thể hiện

một cách mạch lạc đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ đại đó là triết học Trung
Hoa tập trung vào việc nghiên cứu nhân sinh quan, vấn đề về con người – đặc biệt
là mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội – và đây là đặc điểm
riêng có hết sức đặc sắc mà triết học Trung Hoa có được, đồng thời cũng là sợi dây
tạo nên sự liên kết giữa các trào lưu, các trường phái triết học khác nhau trong lịch
sử triết học Trung Quốc.
QUAN NIỆM TRIẾT HỌC CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT

II.

VỀ NHÂN CỦA KHỔNG TỬ.
Khổng Tử là nhà triết học nổi tiếng người Trung Hoa cổ đại, ông là người đã
sáng lập ra học phái Nho gia – một học phái triết học lớn trong lịch sử triết học
Trung Hoa cổ đại – đồng thời ông cũng là một người có sức ảnh hưởng vơ cùng to
lớn đối với văn hóa và giáo dục của đất nước Trung Hoa và được người Trung Hoa
suy tôn là “Đấng vạn thế sư biểu” tức là người thầy của muôn đời. Khi nghiên cứu
quan điểm về “Nhân” trong triết học con người của Khổng Tử chúng ta cần chú ý
tới các nội dung như: Vị trí và vai trị của quan điểm về “Nhân” trong học thuyết
của Khổng Tử và ảnh hưởng của nó tới các nhà triết học thời kỳ sau đó là như thế
4|Page


nào? “Nhân” có gốc rễ từ đâu?; “Nhân” có nghĩa là gì?; Làm thế nào để có thể thực
hành được “Nhân” và quan điểm về Nhân khi áp dụng vào xã hội được sử dụng ra
sao?
Vai trị, vị trí của phạm trù Nhân trong triết học của Khổng Tử và

II.1.

trường phái triết học Nho gia

Phạm trù “Nhân” là một phạm trù trung tâm, là một trong những nội dung
quan trọng nhất và được coi là nội dung xương sống, xuyên suốt của đạo đức và
triết học của Khổng Tử. Phạm trù “Nhân” trong quan điểm triết học về con người
của Khổng Tử một mặt đã thể hiện được quan điểm về con người của Khổng Tử,
một mặt đã thể hiện được một cách rõ ràng sự ảnh hưởng mà đặc điểm của triết
học Trung Hoa cổ đại - đó là lấy vấn đề về bản chất, bản tính con người để thông
qua việc giải quyết vấn đề bản chất con người giải quyết các vấn đề trong xã hội
đương thời – tới các quan điểm triết học của ông. Quan điểm về “Nhân” của
Khổng Tử với tư cách là một nội dung cốt lõi nên đã được các học giả đời sau của
triết học Nho gia kế thừa và phát triển một cách mạnh mẽ ví dụ như Mạnh Tử,
Tuân Tử - là các đại biểu kế tiếp của Khổng Tử trong phái Nho gia ở thời kỳ tử học
- trong quan điểm triết học của mình cũng có những nội dung liên quan tới vấn đề
con người xoay quanh khái niệm Nhân, cho tới thời kỳ kinh học với các đại biểu
như Đổng Trọng Thư các nội dung liên quan tới phạm trù Nhân lại tiếp tục được
phát triển.
Vì vậy trong hệ thống quan điểm về con người của triết học Nho gia quan
điểm về nhân có sự ảnh hưởng hết sức to lớn. Đây là nội dung mang tính chất cốt
lõi, huyết mạch xuyên suốt trong nội dung triết học về con người của trường phái
triết học Nho gia. Phạm trù “Nhân” của Nho gia khơng chỉ có giá trị về mặt triết
học mà cịn có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của xã hội của đất nước
5|Page


Trung Hoa cổ đại, nó trở thành khn mẫu, là kim chỉ nam trong đường lối cai trị
của các bậc quân vương ở Trung Hoa cổ trong suốt thời kỳ phong kiến và cho tới
hiện nay sau mấy ngàn năm tồn tại và phát triển nhiều nội dung trong phạm trù
“Nhân” của Nho giáo vẫn còn mang những giá trị nhân văn, nhân đạo và tiến bộ.
Quan điểm về Nhân trong triết học của Khổng Tử.

II.2.


Trong quan điểm về Nhân của Khổng Tử chúng ta cần phải chú ý tới các nội
dung như nguồn gốc của “Nhân” là gì, “Nhân” theo quan điểm của Khổng Tử có
nghĩa là như thế nào? Cách thức để thực hiện và áp dụng nó trong hiện thực đời
sống xã hội ra sao? Thông qua các nội dung này chúng ta có thể thấy được quan
điểm của Khổng Tử về con người được thể hiện như thế nào.
II.2.1.

Cái gốc của Nhân là Hiếu Đễ.

Trước khi đưa ra quan điểm về nhân Khổng Tử cũng đã nói tới cái gốc của
Nhân là gì. Giống như một cái cây có nguồn cội, nước có nguồn, quan điểm về
Nhân trong triết học về con người của Khổng Tử trước khi được xem xét một cách
kỹ càng cũng được tìm hiểu xem cội rễ là ở đâu. Theo Khổng Tử cái gốc của nhân
đó chính là Hiếu Đễ. Trong Luận Ngữ của Khổng Tử cũng nói rõ hiếu đễ được coi
là gốc của nhân. Cụ thể trong Luận Ngữ - Quyển nhất – Học nhi đệ nhất – câu số
hai có ghi như sau: “Hữu Tử viết: Kỳ vi nhân dã, hiếu đễ, nhi hiếu phạm thượng
giả, tiển hỹ. Bất hiếu phạm thượng, nhi hiếu tác loạn giả, vi chi hữu dã. Quân tử vụ
bản; bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư!” Câu này nghĩa
là: Hữu Tử, học trò cao đệ của Khổng Tử có nói rằng: Trong những người có nết
hiếu thảo (thảo với cha mẹ), nết đễ (kính anh chị và người lớn tuổi), ít ai ưa trái
nghịch với bề trên. Đã không ưa trái nghịch với bề trên, lại thích gây ra những
cuộc phản loạn, người như vậy, ta chưa từng thấy. Cho nên bậc quân tử chuyên chú
vào việc gốc. Cái gốc được vững tốt, tự nhiên đạo lý bắt đầu từ đó mà sinh ra. Vậy
6|Page


làm người mà biết giữ gìn nết hiếu, nết đễ, tức là biết nắm lấy cái gốc đó. Như vậy,
ta có thế thấy được rằng Khổng Tử rất coi trọng “hiếu đễ” và ơng coi nó là cái gốc
của một con người. Người có đạo “Nhân” trước tiên phải có cái gốc này trước đã.

Sau Khổng Tử, địa vị của hiếu ngày càng nổi bật.
Hiếu cũng là một trong những khái niệm chủ yếu trong triết học Nho gia,
đồng thời trong văn hóa Á Đơng nói chung và văn hóa Trung Hoa nói riêng hiếu
chính là một trong những đức tính, những giá trị đạo đức được coi là chuẩn mực
trong cách thức ứng xử giữa con cái với cha mẹ, ơng bà hay nói một cách rộng hơn
đó là cách ứng xử của người dưới với bậc trưởng bối trong gia đình, điều này đã
được trình bày trong hầu hết các thư tịch cổ của Trung Hoa dùng để chỉ những đức
tính, lễ tiết, đạo hạnh mà con người cần phải có. Hiếu khơng những đã trở thành lễ
giáo mà còn trở thành những quy tắc, quy phạm xã hội mà mọi người bắt buộc phải
tuân theo. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử có nói đức nhân là cái gốc của con người,
nhưng ơng cũng nói đức “hiếu” là gốc của đạo đức con người. Khổng Tử đã viết:
“Phụ tại, quan kỳ chí. Phụ một, quan kỳ hạnh. Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả
vị hiếu hỹ.” Câu này có nghĩa là “Khi người cha cịn sống, do người con cịn chưa
thể tử lập thì nên quan sát cử chỉ, chí hướng của người cha mình. Đến khi người
cha mất đi, người con khi đó đã trở thành người có trọn quyền hành động vì thế
nên ghi nhớ và làm theo những việc làm của cha mình. Nhưng khi người cha mất
trong vòng ba năm người con đang để tang cha mình, cho nên người con cũng
khơng có vui sướng gì mà cải tạo hay thay đổi đạo của cha, đó mới có thể gọi là
người con có hiếu. (Luận Ngữ, Học nhi, tiết 11).
Khi các học trò của Khổng Tử là Mạnh Ý Tử, Mạnh Võ Bá, Tử Du, Tử Hạ
hỏi ông như thế nào là hiếu, Khổng Tử trả lời rằng hiếu tức là giữ đúng bổn phận
làm con, kính trọng cha mẹ, quan tâm đến sức khỏe của cha mẹ, không để cha mẹ

7|Page


phải phiền lịng và chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ lúc về già. Điều này trong sách
Luận Ngữ - Chương thứ nhì Vi Chính – tiết 5, 6, 7, 8 có viết hết sức rõ ràng.
Sách Trung dung, viết: “Tất cả những vật có huyết khí, khơng có gì lớn bằng
sự tơn kính cha mẹ, cho nên nói rằng đó là hợp với trời”.

Sách Lễ ký, thiên Ai Công vấn, viết: “Việc thờ cha mẹ của người có đức
nhân cũng như thờ trời, thờ trời cũng như thờ cha mẹ, như thế chính là hiếu tử
thành nhân”.
Thiên Tế nghĩa, sách Lễ ký viết: “Đức hiếu, dựng nên lấp kín cả trời đất, phổ
biến rộng khắp cả bốn biển, thi hành tất cả đời sau mà chẳng phải một sớm, một
chiều, dù có mở rộng khắp biển Đơng vẫn chẩn mực chắc chắn; dù có mở rộng
khắp biển Tây vẫn chuẩn mực chắc chắn; dù có mở rộng khắp biển Nam vẫn chẩn
mực chắc chắn; dù có mở rộng khắp biển Bắc vẫn chuẩn mực chắc chắn”.
Sách Xuân Thu, thiên Hiếu hành lãm viết: “Phàm chỉ giữa một học thuật mà
đạt tới trăm điều thiện, loại bỏ được trăm điều ác, thiên hạ theo về, đó chỉ là đức
hiếu vậy”. “Cái gốc của sự giáo hóa dân là đức hiếu, việc thi hành đức hiếu là
dưỡng dục. Dưỡng dục có thể làm được, nhưng cung kính là khó làm được; cung
kính có thể làm được thì sự n ổn là khó làm được, thì sự chết của cha mẹ là việc
khó. Cha mẹ đã khơng cịn thì sự kính trọng cha mẹ là việc làm của thân mình,
khơng tơn q cha mẹ sẽ mang cái danh xấu xa, có thể gọi là kẻ táng tận lương
tâm. Nhân đức là làm những điều nhân như vậy, lễ là thi hành những điều như vậy;
tín là tin những điều như vậy; cường, là cứng cỏi mạnh mẽ làm những điều như
vậy”. Hiếu kinh, viết: “Hiếu là cái gốc của đức là chỗ giáo hóa, do đó sinh ra”.
Quan điểm coi Hiếu Đễ là gốc của Nhân mà Khổng Tử đưa ra sau này được
rất nhiều các học trị của ơng và các bậc hậu bối ở thời kỳ sau này học tập và phát
triển. Một ví dụ căn bản nhất đó là trong triết học con người của Mạnh Tử, nội
8|Page


dung Hiếu Đễ là gốc rễ của Nhân tiếp tục được trình bày và được phát triển rất
nhiều nội dung.
Mạnh Tử cho rằng “Trong các việc phụng sự của mình, việc nào là lớn? Việc
phụng sự cha mẹ là lớn. Trong việc giữ gìn của mình, việc nào là lớn? Việc giữ gìn
thân thể là lớn. Hại thân thể của mình thì khơng thể phụng sự cha mẹ mình, ta đã
từng nghe như vậy…phụng sự cha mẹ là gốc vậy” (Mạnh Tử, Ly lâu hạ), rằng

“người con hiếu thảo nhất khơng gì lớn bằng làm cho cha mẹ được tơn trọng. Chỗ
làm cho cha mẹ được tôn trọng nhất, không gì lớn bằng đem thiên hạ phụng dưỡng
cha mẹ…” (Mạnh Tử, Vạn Chương Thượng, 14).
Ngồi ra Mạnh Tử cịn chỉ ra những hành vi trái với đạo “Hiếu”- những
hành vi bất hiếu. Chính vì vậy, Mạnh Tử đã thuyết minh tỉ mỉ, rõ ràng về quy phạm
hành vi đạo hiếu. Trong thiên Ly lâu thượng, tiết 26, Mạnh Tử đã viết: “Bất hiếu có
ba điều (theo Kinh Lễ) đó chính là:
Thứ nhất, làm điều sai trái xấu xa khiến cho cha mẹ mang nhục.
Thứ hai, nhà nghèo cha mẹ già yếu chẳng làm quan để nuôi cha mẹ.
Thứ ba, vô hậu, tức không lấy vợ sinh con, để tuyệt tự khơng có con cháu
nối dõi, thờ cúng tổ tiên.
Trong ba điều ấy, vô hậu là tội bất hiếu lớn hơn hết”. Bởi rằng vơ hậu hay là
việc khơng có con trai để nối dõi tơng đường trong văn hóa Á Đơng nói chung và
văn hóa Trung Hoa cổ là tội rất lớn. Việc này dẫn tới sự chấm dứt của một dịng họ
bởi người Trung Hoa có tư tưởng trọng nam khinh nữ và luôn cho rằng “Nữ nhi
ngoại tộc” tức là con gái sinh ra vẫn không phải là người của dịng tộc nhà mình
mà là của nhà khác (tức là thuộc về gia đình của người chồng mà sau này cơ con
gái đó theo về). Trong quan điểm này của Mạnh Tử, tuy có điểm hạn chế mà chúng
9|Page


ta cần bàn đến, cần phải phê phán nhưng việc Mạnh Tử chỉ ra quy phạm của chữ
hiếu chứng tỏ ông rất đề cao chữ hiếu, coi hiếu là một đức khơng thể thiếu của
người có “Nhân”.
Trong Ly lâu hạ, tiết 30, Mạnh Tử viết tiếp: “Thế tục gọi là bất hiếu có 5
điều: tay chân lười nhác (khơng làm việc), khơng đối hồi đến việc ni dưỡng
cha mẹ, đó là điều bất hiếu thứ nhất. Đánh bạc, đánh cờ, ham uống rượu khơng
đối hồi đến việc ni dưỡng cha mẹ, đó là điều bất hiếu thứ hai. Ham mê của
cải, chỉ lo vợ con thơi, khơng đối hồi đến việc ni dưỡng cha mẹ, đó là điều bất
hiếu thứ ba. Theo lịng ham muốn của tai mắt mình, để cho cha mẹ phải tủi hổ, đó

là điều bất hiếu thứ tư. Thích những việc dũng lực và đấu tranh bạo nghịch để cho
cha mẹ nguy khốn, đó là điều bất hiếu thứ năm”. (Vạn chương thượng). Không
phải chỉ nuôi dưỡng cha mẹ, mà cịn phải tơn kính cha mẹ. Sự tơn kính này, cần
phải kính u ngưỡng mộ từ trong đáy lịng. Mạnh Tử nói: “Đại hiếu chung thân
mộ phụ mẫu, ngũ thập nhi mộ giả, dư ư đại Thuấn kiến chi hĩ”. (Mạnh Tử, Vạn
chương thượng) - (Bậc đại hiếu suốt đời lúc nào cũng ngưỡng mộ cha mẹ, đến 50
tuổi vẫn ngưỡng mộ cha mẹ, ta chỉ thấy gương ấy ở vua Thuấn).
Như vậy có thể thấy được rằng trong quan điểm về Nhân của Khổng Tử cái
gốc rễ quan trọng nhất của Nhân đó chính là Hiếu đễ. Giống như cây muốn vươn
lên và phát triển tươi tốt ngồi cơng chăm bón cần phải có gốc rễ mạnh khỏe, con
người cũng vậy bởi khi con người mới được sinh ra cha mẹ là những người có
cơng dưỡng dục mà khôn lớn trưởng thành người. Cha mẹ với con cái giống như
gốc rễ của cây, vì thế con người điều đầu tiên cần phải làm đó là hiếu kính với cha
mẹ, với các bậc bề trên trong gia đình, cần phải biết sẻ chia, chăm sóc những người
khác trong gia đình. Khi con người có và hiểu được hiếu đễ thì lúc đó con người
mới có sự hồn thiện về đạo đức, khi đó chính là bước đầu tiên để có thể đạt được
đức Nhân.
10 | P a g e


II.2.2.

Nhân tức các đức tính tốt của con người.

Sau khi nói về cái gốc của Nhân là Hiếu đễ Đức Khổng Tử đã trình bày các
quan điểm của mình về Nhân. Chữ “Nhân” của Khổng Tử xét về mặt Hán tự,
“Nhân” là chữ hôi ý gồm bộ thủ nhân (là biến thể của chữ “ 人”và có nghĩa là người)
ghép chữ nhị “ 人” nghĩa là hai. Điều này tức ngụ ý rằng Nhân không chỉ đơn thuần
là người mà nó cịn bao gồm cả những phẩm chất đạo đức trong quan hệ giữa
người với người. Khổng Tử xây dựng phạm trù “Nhân” làm cốt lõi, các phạm trù

khác đều bổ sung, minh họa cho “Nhân”. “Nhân” không chỉ riêng một đức tính nào
mà chỉ chung mọi đức tính, người có nhân đồng nghĩa với người hồn thiện nhất,
nên “Nhân” là nghĩa rộng nhất của đạo làm người. Đạo làm người có hàng ngàn,
hàng vạn điều nhưng chung quy lại chỉ là những điều đối với mình và đối với
người, nên “Nhân” có thể hiểu là cách cư xử với mình và cách cư xử với người.
Khổng Tử cho rằng người có lịng nhân trước hết phải là người “trực” tức là
có đức tính chân thực và phát ra hợp lễ tức là người đó hành động và lời nói xuất
phát từ sự chân thực và cái tâm của bản thân họ, họ mong muốn điều tốt cho họ và
cho người khác nên khi họ làm hay nói ra nó thật thà và chất phác. Người càng có
đức tính trực thì càng có lịng nhân bởi họ sống ngay thẳng, khơng tự dối mình dối
người, thương hay ghét đều bộc lộ một cách thẳng thắn. Để làm rõ hơn về điểm
này trong Luận Ngữ ơng có nói về sự khác nhau trong biểu hiện giữa người có
lịng nhân và khơng có lịng nhân: Trong Luận Ngữ - Học Nhi – tiết số 3 có viết:
“Xảo ngơn, lệnh sắc, tiển hỹ nhân” tức là “Lời nói khéo léo, nét mặt vờ niềm nở.
Đó là kẻ ít lịng nhân” cũng trong Luận Ngữ - Tử Lộ - tiết 27 có viết: “Cương,
nghị, mộc, nột cận nhân” có nghĩa là “Cứng cỏi, quả cảm, chất phác, nói năng
chậm chạp. Đó là gần với đức nhân.” Hai câu nói này có ý nghĩa là một người nếu
chỉ nói năng khéo léo, nết mặt vờ như là đang niềm nở với người đối diện tức là
giả tạo để cho vừa lòng thiên hạ, vừa lòng người đối diện, như vậy có nghĩa là
11 | P a g e


khơng xuất phát từ sự thực tâm, trong lịng khơng có ý nghĩ chân tình thực sự với
người đối diện, nên ít lịng nhân. Cịn người cứng cỏi, quả cảm, chất phác, nói năng
chậm chạp lại là người mà lời nói và hành động của họ xuất phát từ sự thực tâm, sự
chân thực trong tính cách của họ, điều này theo Khổng Tử là gần với đức nhân. Có
nghĩa là dựa trên cử chỉ, hành động và lời nói của một con người mà Khổng Tử
nhận ra người đó có phải là con người ngay thẳng, đứng đắn hay khơng. Từ đó ơng
đi đến kết luận là người này có phải là người có lịng nhân hay khơng. Điều này có
vẻ như giống với việc xem mặt bắt hình dong tuy nhiên xét về mặt tâm lý thì việc

này là hồn tồn có thể xác nhận được bởi con người khi làm việc mà mình khơng
muốn hay trái với điều suy nghĩ của mình sẽ bộc lộ ra bởi sự gượng gạo trong cử
chỉ và hành động.
Bên cạnh đó quan điểm về Nhân của Khổng Tử còn được dùng như là một
đại từ để thể hiện sự toàn đức của con người. Trong sách Luận Ngữ có nói rất rõ
nội dung này. Sách Luận Ngữ - Chương Thuật Nhi – Tiết 14 có viết: “Cầu điều
nhân, được điều nhân, cịn ốn trách gì nữa”. Cũng trong sách Luận Ngữ - Chương
Thuật Nhi – tiết số 27 cũng có viết “Như thánh và nhân, sao ta lại không dám”…
Như vậy theo Khổng Tử chữ “Nhân” hồn tồn có thể dùng như một từ chung nhất
để chỉ tất cả các đức tính tốt của con người như: hiếu – trung – trí – dũng – lễ và
tín. Sau này quan điểm này của ông được Mạnh Tử phát triển thành quan niệm về
các thiện đoan vốn có của con người. học giả Trần Lễ (1801 – 1882) trong cuốn
Đông Thục Thư ký có nói: “Mạnh Tử nói tính thiện tức là nói bản tính mọi người
đều có cái thiện, chứ khơng nói bản tính mọi người đều hồn tồn là thiện.” Cái
thiện mà Mạnh Tử nói ở đây chính là tứ thiện đoan.
Tứ thiện đoan mà Mạnh Tử nói tới ở đây đó là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Trong
đó lịng trắc ẩn là đầu của nhân – có nghĩa là mỗi người đều có được lịng trắc ẩn,
u thương người khác mà khơng vụ lợi, khơng toan tính, sẵn sàng giúp đỡ hay
12 | P a g e


cứu giúp người khác. Lịng trắc ẩn đó là đức nhân mà Khổng Tử đã nói đến trong
quan điểm về Nhân của mình tức là ái nhân. Lịng hổ thẹn là đầu của Nghĩa tức là
người có đức nghĩa biết hổ thẹn, biết tự xấu hổ với lương tâm của mình khi làm
những điều khơng phải, khơng tốt và ngay cả khi khơng thể giúp đỡ được những
người khác. Lịng từ nhượng là đầu mối của lễ có nghĩa là những người có là
những người có đức tính khiêm nhường, cung kính là những người biết tới lễ giáo
của việc làm người, là có trong mình đầu mối của một trong tứ đoan là lễ. Cuối
cùng lòng biết đúng sai là đầu mối của trí có nghĩa là con người sinh ra có trí tuệ
cần phải biết phân biệt sai quấy, phải trái trắng đen ra sao để có hành vi và ứng xử

cho đúng đắn, qua đó trí tuệ và sự sáng suốt được thể hiện. Như vậy tứ thiện đoan
mà Mạnh Tử đưa ra là những đức tính vốn có của con người và đó là những đầu
mối cần thiết để con người có được tính thiện.
Bên cạnh đó Mạnh Tử cũng khẳng định rằng nếu con người có thể phát huy
và phát triển tứ đoan của mình một cách đầy đủ thì hồn tồn có thể trở thành
những bậc thánh nhân là những người có tầm ảnh hưởng đối với xã hội. Thiện
đoan là các đầu mối thiện vốn có của mỗi người để hướng con người tới tính thiện,
tuy nhiên khi họ bỏ qn nó, khơng vận dụng và phát huy các thiện đoan này thì
con người sẽ trở nên bất thiện chứ không phải là do người bất thiện và người có
tính thiện là có sự khác nhau ở mặt bản tính. Vì vậy Mạnh Tử nói rằng: “Xét cái
tình người ta thì biết người ta vốn co thể làm thiện, nên mới bảo là tính thiện. Cịn
kẻ làm điều bất thiện thì khơng phải là cái lỗi của tài. Ai cũng có lịng trắc ẩn, biết
xấu hổ, biết từ nhượng là lễ, biết đúng sai.” Có nghĩa là bản chất mọi người là như
nhau đều có tứ thiện đoan, sự khác biệt là do việc có sử dụng, có phát huy được
các tứ thiện đoan của mình hay khơng mà thơi. Quan điểm này của Mạnh Tử
hướng tới việc con người cần phải biết phát huy phát triển những thiện đoan của

13 | P a g e


mình để trở thành bậc thánh nhân, tránh việc khơng phát triển phát huy nó rồi mất
đi bản tính thiện vốn có.
Có thể thấy được rằng quan điểm về Nhân của Khổng Tử hết sức bao quát
khi ông sử dụng từ “Nhân” như một đại từ chung nhất, rộng nhất để thay thế cho
các đức tính của con người cần có. Qua đó giải thích được tầm ảnh hưởng của quan
niệm về Nhân của Khổng Tử trong đời sống xã hội Trung Hoa nói chung và trong
tiến trình phát triển của trường phái triết học Nho Gia nói riêng.
II.2.3.

Nhân tức là ái nhân.


Theo Khổng Tử “Nhân” tức là “ái nhân” tức là đức Nhân của con người đó
là đức tính, là sự yêu thương của con người dành cho nhau. Trong Luận Ngữ, Nhan
Uyên tiết số 21 có ghi lại câu hỏi của Phàn Trì một người học trị của Khổng Tử về
nhân, Khổng Tử đã trả lời là yêu người “ái nhân” cụ thể đó là: “Phàn Trì vấn nhân.
Tử viết: “Ái nhân”. Tức là Nhân có nghĩa là yêu thương con người, mà cơ sở của
sự yêu thương con người đó chính là lấy sự thơng cảm làm gốc. Ái nhân theo
Khổng Tử cần phải tuân theo hai ngun tắc chính sau:
Ngun tắc thứ nhất đó là: u người là yêu tất cả mọi người. Khổng Tử quan
tâm đến sự phát triển ổn định của một xã hội từ gốc rễ của nó là lịng u thương
giữa con người với nhau. Để có thể yêu thương được người khác cần phải xuất
phát từ điều đầu tiên đó là việc u mình tiếp đó là tới u người thân của mình
như cha mẹ, anh chị, con cái… và cuối cùng là yêu cả “tha nhân”– những người
khác. Yêu mình, yêu thương người thân của mình là điều quan tâm tự nhiên, là bản
tính tự nhiên vốn có của mỗi con người. Một người nếu không xuất phát từ việc
yêu q chính bản thân mình (u q một cách đúng đắn, khơng tự cao, khơng
cao ngạo), u thương gia đình của mình thì trước hết là khơng có được lịng nhân
sau là khó có thể yêu thương được người khác, bởi nếu bản thân mình mà khơng
14 | P a g e


coi trọng, yêu thương tới sức khỏe, tính mạng và nhiều điều khác của mình thì sao
có thể u thương những điều đó ở trong gia đình mình và càng khơng thể u
thương những người khác ngồi xã hội.
Sự u người ở đây là phải lấy đạo trung, hiếu, tiết, nghĩa làm đầu – nghĩa là
muốn yêu thương người khác thì những đạo lý, lễ tiết vốn có, cơ bản cần phải nắm
rõ và thực hiện một cách đúng đắn và nghiêm chỉnh. Người có “Nhân” trong các
mối quan hệ với những người khác ln làm trịn bổn phận và trách nhiệm của
mình, trong quan hệ quân thần đối với nhà vua người có lịng “Nhân” làm tơi phải
trung với vua; trong mối quan hệ với gia đình của mình phải đối với cha, mẹ, anh,

em, vợ, con thì phải coi trọng hiếu, đễ, nghĩa, tình, phụng dưỡng, tơn kính cha mẹ
và cuối cùng điều khó thực hiện nhất trong đức nhân của Khổng Tử đó là yêu
những người khác khơng chỉ là thân thích của mình. Về sau quan điểm về trung –
hiếu – nghĩa được áp dụng trong xã hội như “Trung quân – Ái quốc”, “Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung”… chính là sự kế thừa và phát triển của các nhà triết
học của giai đoạn sau đối với quan điểm của Khổng Tử khi nói về cách thức của sự
yêu thương người khác trong xã hội. Tuy nhiên các quan điểm này bên cạnh những
quan điểm tốt, có giá trị nhân văn giống như quan điểm của Đức Khổng, vẫn tồn
tại những quan điểm mang tính áp đặt, tiêu cực và bị động hóa con người như quan
điểm “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” là một ví dụ điển hình.
Sự u thương người khác bên cạnh việc phải dựa vào trung – hiếu – nghĩa
(tức là các lễ tiết, đạo đức cơ bản của xã hội) thì cũng cần phải xuất phát từ sự
đồng cảm với người khác, đem đặt mình vào địa vị của người khác mà hành động,
thấy nỗi đau của người như nỗi đau của mình, ln đem lịng trắc ẩn. Lịng trắc ẩn
này có thể đó là việc thấy người ta hoạn nạn mà tới cứu cũng có thể là việc chiếu
từ cái ham thích của mình để xem người ta ham thích cái gì mà giúp đỡ. Cả hai
cách đều được gọi là đồng cảm với người khác. Đồng cảm theo cách thứ nhất là
15 | P a g e


việc gạt bỏ đi cái tơi trong bản thân mình để tới cứu giúp, yêu thương người khác
hay còn gọi là “Khắc kỷ, phục lễ, vi nhân”. Sự đồng cảm theo cách này được coi là
khó thực hiện bởi thực tế trong con người luôn tồn tại cái tôi, tồn tại sự vị kỷ bên
trong mình và khi nhìn nhận vấn đề của người khác đôi khi con người không kiềm
chế được những đặc điểm này dẫn tới khó có thể cảm thông hay đồng cảm được
với người khác. Mặc dù là khó nhưng điều đó cũng khơng đồng nghĩa với việc
không thể thực hiện được điều này, thực tế đã chứng minh vẫn có những người
ln xuất phát từ lòng yêu thương, sự đồng cảm và sẻ chia với người khác để làm
những việc yêu thương người khác một cách tự nguyện, khơng màng tới lợi ích của
bản thân. Những người như vậy là những người có lịng Nhân.

Cách đồng cảm thứ hai đó là mang cái ham thích của mình ra để làm cơ sở
để đối chiếu xem người khác thích gì để giúp đỡ. Sẽ có nhiều người nói rằng điều
này sao lại có thể gọi là đồng cảm. Đúng là nhiều người nói sự đồng cảm là nên
tiết chế bản thân để giúp đỡ người khác, như vậy mới là nhân tuy nhiên có người
có thể kiềm chế được cái tơi của mình, kìm hãm được cái dục vọng bên trong
nhưng lại không được Khổng Tử xem là nhân. Trong sách Luận Ngữ - Chương
Hiến Vấn – tiết số 2 có viết: “Khắc, phạt, ốn, dục, bất hành yên, khả dĩ vi nhân
hỹ? Tử viết: Khả dĩ vi man hỹ. Nhân, tắc ngô bất tri giã”. Câu này có nghĩa là ơng
Hiến Vấn hỏi rằng: “Người có những tính: hiếu thắng, khoe khoang, ốn hận, tham
dục mà biết dằn lấy, chẳng để cho những tính ấy thổ lộ ra, người như vậy có thể
gọi là nhân được chăng? Khổng Tức đáp: Dằn được những mối tư dục ấy, có thể
gọi là làm được chuyện khó. Chớ gọi là nhân, thì ta chẳng biết nên gọi hay chăng.”
Như vậy theo Khổng Tử việc tiết chế được ham muốn của bản thân đó là làm được
việc khó mà không phải ai cũng làm được tuy nhiên nếu gọi đó là nhân thì cũng
chưa hẳn là đúng. Sau này quan điểm này của Khổng Tử tiếp tục được Mạnh Tử
phát triển lên cao hơn trong quan điểm của mình. Học giả Tiêu Tuần (1763 – 1820)
16 | P a g e


viết: “Mạnh Tử nói Cơng Lưu ham vật chất, Thái Vương thích nữ sắc, nhưng họ
khiên bách tính cùng thỏa lịng như họ, nhờ đó kho lúa được chứa đầy và những kẻ
độc thân khơng cịn tủi phận. Có nghĩa là theo Mạnh Tử nếu qn vương có tính
dục mà tiết chế, ham của mà tiết kiệm giản dị sẽ dẫn tới việc không màng tới mùa
màng dẫn tới đời sống của nhân dân trở nên cơ cực, thì thà là không tiết dục, không
giảm ăn mặc, sống đúng với cái ham thích của mình và mang cái ham thích đó của
mình ra mà suy cho bách tính trong thiên hạ của họ thì có phải hay hơn khơng. Khi
đó thì người người nhà nhà no ấm, lúa thóc đầy bồ, kẻ cơ độc, độc thân cũng vì vậy
mà khơng còn phải chịu cảnh tụi phận nữa. Như vậy là thiên hạ được ấm no, bách
tính hạnh phúc nhờ vào việc vua mang cái ham thích của mình ra để mà đối chiếu
với lịng ham thích của thiên hạ.

Điểm thứ hai trong quan điểm về ái nhân của Khổng Tử đó là Yêu người là
yêu nhân dân, Tử Cống, một trong 10 học trò xuất sắc hỏi Khổng Tử: “Như có
người bố thí cho dân, có thể giúp đỡ mọi người thì sao? Có phải là người nhân
khơng?” Khổng Tử đáp: “Sao lại nhân thôi? Phải là bậc thánh chứ. Đến Nghiêu và
thuấn còn chưa làm được như vậy thay. Người nhân là kẻ muốn tự lập thì cũng
thành lập cho người, muốn thành cơng thì giúp người thành cơng. Hễ mình mong
ước gì thì cũng giúp người có được như thế. Đó gọi là phương pháp thực hành điều
nhân” (Luận Ngữ, Nhan Uyên 22, Ung Dã 28). Quan điểm này được Khổng Tử gọi
là thực hành nhân, quan điểm này sau này được gọi là Trung và Thứ. Quan điểm
này của Khổng Tử được các nhà chính trị Trung Quốc học tập và theo đuổi trong
cách cai trị và đối xử với nhân dân.
Như vậy trong quan điểm triết học về con người của Khổng Tử “Nhân” không
chỉ đơn thuần là một đại từ để từ đó biểu hiện hay biểu thị các đức tính cần có của
một con người mà nó cịn thể hiện cách thức, văn hóa giao tiếp, ứng xử của con
người không chỉ đối với tự nhiên mà còn trong các mối quan hệ xã hội với nhau.
17 | P a g e


Qua đó ta thấy được cách tiếp cận về vấn đề con người trong triết học của Khổng
Tử là hết sức sâu sắc, đa chiều.
II.2.4.

Khổng Tử dựa vào nhân để phân chia con người trong xã hội.

Trên cơ sở về quan điểm về đức nhân của con người ông chia con người
trong xã hội Trung Hoa cổ đại thành các nhóm người chính đó là “qn tử” và
“tiểu nhân”. Trong đó theo Khổng Tử người “quân tử” là người có lịng nhân, có
lịng u thương con người, u thương người khác, cịn kẻ “tiểu nhân” là kẻ
khơng có lịng nhân. Trong một phạm vi nào đó ơng cho rằng những người quân tử
ở đây chính là giới quý tộc, quan lại tức là những người có học hành, được dạy

kinh sách và lễ giáo, còn tiểu nhân ở đây là dân chúng là những người không được
dạy quá đầy đủ về lễ giáo trong xã hội cũ. Ơng nói rằng trong xã hội “Đức của
người quân tử như gió, đức của kẻ tiểu nhân như cỏ. Gió thổi thì cỏ rạp xuống”.
Trong câu nói này của ơng thể hiện rõ quan điểm nhân trị của mình: mong rằng
trong xã hội cần phải có nhiều người mang trong mình đức nhân của người “quân
tử”, để có thể là cơn gió giáo hóa những người mang đức của kẻ “tiểu nhân” khơng
có lòng nhân. Quan điểm này đưa ra thể hiện cái nhìn của Khổng Tử về tình trạng
xã hội Trung Hoa thời kỳ đó vốn đang rối loạn và cần phải có nhiều người có lịng
nhân để có thể làm cho xã hội ổn định lại một phần nào đó. Đồng thời chỉ rõ ra sự
tác động to lớn của giới quý tộc (quân tử) đối với dân chúng (tiểu nhân) trong thời
đại mà quý tộc cầm quyền còn nhân dân thì khơng có một chút tri thức nào. Tuy
nhiên trong sự phân chia này của Khổng Tử vẫn tồn tại nhiều điểm khơng cịn hợp
lý và phù hợp bởi lẽ ông tự thu hẹp phạm vi của khái niệm quân tử và tiểu nhân
trong phạm vi các giai cấp, đẳng cấp trong xã hội đó điều này làm hạn chế khả
năng vươn lên của con người trong xã hội đặc biệt là những người thuộc tầng lớp
dưới trong xã hội vươn lên trở thành người quân tử. Bởi kể cả trong thời kỳ mà dân
chúng chịu sự cai trị của q tộc vẫn tồn tại những người dân có trình độ, có học
18 | P a g e


thức có sự hiểu biết và đặc biệt là hành vi của họ có ảnh hưởng tới một bộ phận
khơng nhỏ dân chúng trong xã hội nhưng vẫn bị gọi là kẻ tiểu nhân trong khi về
bản chất thì họ đã làm đúng, thực hành đúng về đức Nhân như Khổng Tử nói tức là
họ hồn tồn đã có thể là người quân tử nhưng do địa vị xã hội họ bị trói buộc lại
và phải chịu làm kẻ tiểu nhân.
II.2.5.

Quan điểm về Trung và Thứ

Bất kỳ lý luận nào khi ra đời cũng cần phải được xem xét và áp dụng vào

thực tế của xã hội, qua đó phổ biến và lan truyền nội dung của nó tới tất cả mọi
người. Quan điểm về Nhân của Khổng Tử cũng vậy. Xuất phát từ quan điểm về
nhân khi nói về con người Khổng Tử đưa ra quan điểm về Trung và Thứ. Trung thứ là một trong những cặp phạm trù có ý nghĩa triết lí đạo đức đặc sắc và quan
trọng nhất của triết học Trung Quốc. Đây là giáo nghĩa cơ bản của Nho học, do
Khổng Tử đề xướng. Sau đó, được các nhà Nho, nhất là các nhà Nho thời kỳ Tống
– Minh tiếp tục phát triển. Với những vấn đề cơ bản có liên quan đến trung và thứ
đều được họ tiến hành suy xét, bổ sung, phát triển một cách khá đầy đủ nội hàm
của nó. Trung – Thứ chính là cách thức để thực hành đức nhân mà Khổng Tử đưa
ra. Trong Trung và thứ của Khổng Tử quan trọng nhất là nội dung Suy kỷ cập nhân
– Suy ta ra người. Suy kỷ có nghĩa là xuất phát từ bản thân mình. Cập nhân tức là
mang cái điều mình mong muốn ra để thấy hiểu người khác, để giúp đỡ người khác
làm được những điều mà họ cũng đang mong muốn. Trong xã hội Trung Hoa thời
điểm đó và cho tới hiện tại việc suy kỷ cập nhân đôi khi bị nhiều người hiểu lầm ý
nghĩa của nó mà làm điều khơng tốt, bởi họ chỉ mới chỉ dừng lại ở suy kỷ mà cái
họ suy từ bản thân họ (đôi khi là những điều không tốt chứ không phải điều tốt đẹp
như ý của Khổng Tử) chứ chưa rõ thế nào là cập nhân. Khổng Tử nói suy kỷ cập
nhân cần phải hiểu đó là Trung và Thứ. Trong đó Trung có nghĩa là cần phải xuất
phát từ lòng ham muốn của mình mà suy ra lịng ham muốn của người; muốn tự
19 | P a g e


lập và thành đạt thì cũng cần phải giúp cho người tự lập và thành đạt. Cịn Thứ có
nghĩa là cái gì mà mình khơng muốn kẻ khác gây ra cho bản thân mình thì bản thân
mình cũng đừng làm điều đó cho họ. Quan điểm này thể hiện một cách rõ ràng
cách thức đối xử với người khác theo đức nhân mà Khổng Tử hướng tới đó là xuất
phát từ những mong muốn tốt đẹp của bản thân để mang lại điều đó cho những
người khác trong xã hội. Khi đưa ra quan điểm về Trung và Thứ, Khổng Tử chủ
yếu nói dựa trên phương diện tu dưỡng của các cá nhân.
Sau này nội dung về cách thực hành nhân là Trung – Thứ của Khổng Tử
được học trò của ông là Mạnh Tử tiếp tục phát triển và áp dụng vào trong quan

điểm chính trị của mình. Theo Mạnh Tử việc sử dụng nhân chính đạo trong trị
quốc là có thể thực hiện được. Như vậy có thể thấy được rằng trong quan điểm của
Mạnh Tử đức nhân của con người được coi là bản tính thiện của con người và việc
thực hành nhân (Trung – Thứ) chính là viêc áp dụng nhân chính đạo trong cai trị xã
hội. Đây cũng là điểm khác biệt giữa Khổng Tử và Mạnh Tử trong việc đưa ra
Trung và Thứ. Quan điểm về Trung và Thứ của Mạnh Tử viết lại trong sách Kinh
Thi như sau: “Kính và ni người già của nhà mình rồi đến người già của nhà
người; thương yêu bảo bọc con trẻ của nhà mình rồi đến con trẻ của nhà người”
đây chính là việc làm thực hiện ái nhân, thực hiện đúng việc suy kỷ cập nhân hay
cịn được gọi là đạo trung thứ. Có nghĩa là biết phát huy lòng nhân tức là biết phát
huy cái tốt, cái thiện của bản thân mình để có thể làm việc thiện, việc tốt cho thiên
hạ tức là Trung Thứ. Người càng có thể phát huy được lịng nhân của mình thì càng
là người có thể đem lại điều tốt cho thiên hạ.
Bên cạnh sự học tập và phát triển của Mạnh Tử thì quan điểm về Trung và
Thứ của Khơng Tử cịn được các học giả thời kỳ Tống và Minh thuộc phái Lục
Cửu Uyên và Vương Dương Minh kế thừa và cải biến. Tuy nhiên giá trị của nội
dung này đã được lan tỏa rộng rãi và trở thành câu nói, châm ngơn sống của khơng
20 | P a g e


ít người dân tại không chỉ tại Trung Hoa mà cịn ở nhiều nơi trên thế giới qua đó
quan điểm về nhân của Khổng Tử được thực hành ở nhiều nơi.
II.2.6.

Nhân cịn là Chính Danh.

Trong quan điểm triết học của Khổng Tử khi nói về con người cịn rất quan
tâm đến nội dung đó là Chính Danh. Theo Khổng Tử mỗi người, mỗi cá nhân trong
xã hội khi sinh ra đều đã có cái Danh của riêng mình, mỗi cái danh đều có ý nghĩa
của nó. Cái định nghĩa đó nêu ra cái khiến cho một vật là chính nó. Ở đây với con

người cái danh thể hiện vị trí, vai trò của mỗi một cá nhân trong xã hội đó là như
thế nào. Ví dụ như cái được đưa ra bằng định nghĩa của danh “vua” là cái yếu tố
khiến cho vua ra vua hay nói thẳng ra người làm vua phải thực hiện đúng được vị
trí, vai trị của mình tương xứng với cái danh “vua” mà ơng ta được gán vào và
mang danh. Trong xã hội mà Khổng Tử sống ông chứng kiến cảnh con người loạn
lạc, mất đi lịng nhân do khơng ở đúng vị trí, khơng làm trịn bổn phận của cái danh
mà họ mang. Khổng Tử cũng cho rằng trong xã hội ông đang sống sự loạn lạc diễn
ra là bởi vì con người không ở đúng với cái Danh của họ. Kẻ là vua thì khơng ra
vua, qn thần thì mâu thuẫn, cha con thì đối nghịch, xã hội trở nên loạn lạc là do
con người khơng ở đúng danh phận của mình. Vì thế ơng cho rằng để có thể cải tạo
lại xã hội, giúp cho xã hội trở nên thái bình thịnh trị như các đời vua Nghiêu, vua
Thuấn trước đây con người cần phải trở về đúng danh vị của mình. Vì thế khi Tề
Cảnh Cơng hỏi ơng về chính trị ông đáp: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” có
nghĩa là vua phải ra vua, bầy tơi phải ra bầy tôi, cha phải ra cha mà con phải ra
con.
Quan điểm chính danh của Khổng Tử sau này được Mạnh Tử kế thừa và
phát triển trở thành quan điểm con người phải xứng đáng để làm Người. Mạnh Tử
trong quan điểm của mình ơng chủ trương con người phải trở nên xứng đáng với
21 | P a g e


việc là Người. Có nghĩa là ơng nhận ra rằng giữa con người và con vật có những
đăc điểm giống nhau như các nhu cầu về sinh lý, về ăn uống, sinh tồn và duy trì
nịi giống… có nghĩa là các nhu cầu về mặt sinh học con người và con vật có
những sự tương đồng. Tuy nhiên giữa con người và con vật lại có sự khác nhau đó
là về lịng người hay theo cách nói của Mạnh Tử cái khiến con người trở thành
“Người”, cái yếu tố định nghĩa danh từ “Người” và cũng chính là điểm khác biệt
giữa con người và con vật đó chính là nhân tâm tức là tấm lòng của con người.
Giữa con người và con vật khác nhau chính là ở điểm này, loài vật xét cho đến
cùng là vẫn hành động theo bản năng sinh vật chứ không phải là thực hiện những

hành động có ý thức. Cịn con người thì khác con người bên cạnh những hành vi
mang tính chất bản năng vẫn ln có những hành động thể hiện được vai trị và khả
năng tư duy của chính mình, vẫn có khả năng phân biệt giữa những yếu tố như
phải – trái, đúng – sai. Mạnh Tử cũng khẳng định rằng con người ai ai cũng có
nhân tâm, vì thế ông khẳng định lại một lần nữa bản tính của con người vốn thiện
và nhấn mạnh tới việc bản tính thiện đó chính là “nhân tính”. Mạnh Tử nói: “Nhân
là cái tâm mà người ta phải có; nghĩa là con đường mà người ta phải theo” có nghĩa
là con người muốn thực sự xứng đáng với danh nghĩa là người thì cần phải làm
theo nhân nghĩa tức là đi theo con đường lương thiện trong sáng trong hành vi và
lời nói. Nếu khơng ăn ở cho nhân nghĩa thì khơng phải là con người.
Quan điểm này của Khổng Tử vừa có điểm hợp lý vừa có điểm chưa hợp lý.
Sự hợp lý thể hiện ở việc con người cần có phải hiểu rõ vị trí và nhiệm vụ của
mình để qua đó có thể làm tốt nhiệm vụ của mình, điều này hướng tới một xã hội
mà con người có trách nhiệm với bản thân và với xã hội mà họ đang sống. Tuy
nhiên điểm hạn chế của quan điểm này của Khổng Tử đó là ơng bó hẹp, trói buộc
con người chỉ trong phạm vi danh của họ - tức là địa vị xã hội của họ - điều này vơ
tình làm ngăn cản những người ở tầng lớp dưới có thể vươn lên trong cuộc sống
22 | P a g e


bởi ông cho rằng xã hội loạn lạc là do con người không chịu ở yên và làm đúng
theo cái danh mà mình đang mang.
Như vậy có thể thấy được rằng nội dung quan trọng nhất, xuyên suốt nhất
trong quan điểm về Nhân của Khổng Tử đó chính là việc Nhân có gốc từ Hiếu Đễ,
là việc dùng “nhân” như là một từ để chỉ ra tất cả những đức tính, những đạo đức
mà con người cần phải có. Nhân còn là Ái Nhân – là Yêu thương con người, bên
cạnh đó ơng cũng nhấn mạnh tới việc phải làm như thế nào để có thể biến những
nội dung quan điểm kia trở thành thực tế thông qua việc thực hành Nhân đó là
Trung Thứ và quan điểm về Chính danh trong cai trị xã hội. Trên cơ sở quan điểm
này của Khổng Tử ông đưa ra phương pháp cai trị bằng đức trị và nhân trị để cải

tạo xã hội đương thời, đồng thời ơng đề cao tính cách, phẩm chất của con người
qua đó thể hiện một quan điểm triết học về con người hết sức nhân văn và cho tới
hiện nay các quan điểm triết học con người của ơng vẫn cịn ngun giá trị trong
việc xây dựng đạo đức con người trong thời kỳ mới.
III.

Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA QUAN ĐIỂM VỀ NHÂN TRONG XÂY

III.1.

DỰNG ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI HIỆN ĐẠI.
Bối cảnh của xã hội hiện đại.

Xã hội hiện đại mà chúng ta đang sống là một xã hội với rất nhiều các biến
chuyển về cả kinh tế, chính trị và xã hội. Chính điều này đã dẫn tới sự biến chuyển
của rất nhiều các vấn đề có liên quan tới con người chúng ta hiện nay.
Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ thứ XXI, một thế kỷ
mà sự phát triển của nhân loại đã và đang bước vào một giai đoạn chuyển mình
mới với nhiều sự thay đổi đến chóng mặt. Về mặt kinh tế, kinh tế của thế kỷ XXI
không cịn đơn thuần là nền kinh tế kỹ thuật thơng thường mà đã bước sang nền
kinh tế mới với sự phát triển của các hình thức hàng hóa mới, các nhóm cơng việc
23 | P a g e


mới. Điều này dẫn tới việc sự phát triển của kinh tế hiện tại không chỉ dừng lại ở
cấp số nhân mà đã bước đầu chuyển sang giai đoạn phát triển theo cấp lũy thừa về
mặt kinh tế. Với việc nền kinh tế phát triển nhanh hơn con người cũng cần phải
sống nhanh hơn, bận rộn hơn và vì thế con người đôi khi bỏ qua mất một vài điều
trong cuộc sống của họ. Họ ít thời gian với việc chăm sóc bản thân mình hơn, họ
có ít thời gian với gia đình của mình hơn, cha mẹ ít thời gian chăm sóc và dạy dỗ

con cái của mình hơn, đồng thời họ phải đối mặt với nhiều vấn đề có liên quan tới
cuộc sống nên con người giai đoạn hiện nay thường xuyên rơi vào tình trạng căng
thẳng, stress và vì thế họ đang xa dần với các giá trị đạo đức vốn có.
Về mặt xã hội với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế, xã hội đã có
nhiều biến chuyển mới. Xã hội hiện tại bên cạnh những mặt tích cực như sự quan
tâm, đùm bọc lẫn nhau giữa con người với con người, sự đồng cảm, cảm thơng với
những cuộc đời khó khăn, éo le, vẫn còn tồn tại những mặt tối như những tệ nạn xã
hội, như sự suy thoái về mặt đạo đức của con người… Bên cạnh đó sự ra đời và
bùng nổ của mạng xã hội tức là các xã hội trên không gian ảo đã mang lại nhiều sự
thay đổi. Con người giờ có thể kết nối với nhau dễ dàng hơn, xa hơn và đa dạng
cách thức hơn, tuy nhiên xã hội trên không gian ảo cũng chứa đựng những mối
nguy hiểm tiềm tàng bởi trên đó con người liên hệ với nhau một cách gián tiếp,
không biết rõ lẫn nhau là ai nên những khó có thể hiểu rõ được người bên cạnh.
Đồng thời mạng xã hội hiện nay thiếu sự kiểm sốt về thơng tin, nó có thể coi như
là một “bãi rác thơng tin khổng lồ” khi mà các thông tin thật và cả các thơng tin giả
bị xếp một cách xáo trộn, khơng có tính xác thực và điều hướng, điều này dẫn tới
việc con người không thể tiếp cận được tin tức đúng và từ đó làm mất niềm tin của
con người vào đời sống xã hội.
Như vậy có thể thấy được rằng trong xã hội hiện đại con người đang phải
đối mặt với hai vấn đề hết sức nghiêm trọng đó là việc con người đang đối diện với
24 | P a g e


việc xa rời dần các giá trị đạo đức cơ bản và vấn đề thứ hai là sự mất đi niềm tin
của một bộ phận nhân dân do sự tác động của việc thơng tin khơng được kiểm sốt.
Vì vậy vấn đề cấp bách của thế giới hiện đại đó là việc điều hướng và đưa con
người trở lại với các giá trị đạo đức vốn có đồng thời giúp cho con người có niềm
tin hơn với cuộc sống.
III.2.


Vai trị của những giá trị đạo đức nhân văn cơ bản trong quan điểm
về Nhân của Khổng Tử đối với xã hội hiện đại và các giải pháp trong
giáo dục đạo đức con người hiện nay.

Quan điểm về Nhân của Khổng Tử ra đời từ rất lâu trong lịch sử Trung Hoa
nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung. Tuy nhiên cùng với dòng chảy của lịch sử
nhân loại những nội dung này vẫn còn nguyên những giá trị nhân văn vốn có của
nó. Đặc biệt trong xã hội hiện đại ngày nay nó lại có vai trị vơ cùng quan trọng đối
với sự phát triển của xã hội.
Đầu tiên trong quan niệm về Nhân của Khổng Tử đó là gốc của Nhân đó là
Hiếu Đễ. Tức là một con người muốn trở thành một người tốt điều đầu tiên cần
phải làm đó là có hiếu với cha mẹ của mình, với người nhà của mình. Trong xã hội
hiện đại cách thức thực hành đạo hiếu có thể đã khác đi nhưng nội dung chính,
xun suốt của đạo hiếu thì vẫn khơng hề thay đổi đó là quan tâm, chăm sóc và
thảo kính với cha mẹ của mình. Con cái mặc dù khơng thể có nhiều thời gian dành
cho gia đình nhưng nết hiếu lại có thể được thể hiện thơng qua các hành động hết
sức đơn giản ví dụ như chăm sóc cha mẹ, sự sự đồn kết giữa các anh chị em trong
nhà, sự làm gương trong dạy dỗ con cái. Nét hiếu hiện nay khơng cịn thể hiện ở
việc để tang cha mẹ trong ba năm như ở thời kỳ trước đây nhưng cũng vẫn được
thể hiện ở việc con cái vẫn tưởng nhớ tới cha mẹ, hay ông bà tổ tiên sau khi họ
khuất núi. Thực tế hiện nay chúng ta có thể thấy ở đâu đó những trường hợp con
25 | P a g e


×