Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại trực tuyến trong bối cảnh hội nhập và những vấn đề đặt ra với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.98 KB, 17 trang )

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TRỰC TUYẾN TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM

Vũ Ngọc Bảo, Phạm Việt Tuấn, Nguyễn Võ Trọng Danh, Nguyễn Quang Vinh,
Trần Tuấn Khang, Trịnh Trần Minh Đức, Hoàng Quốc Tuấn1

Tóm tắt. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thơng tin liên lạc, thì các
giao dịch được thực hiện trên nền tảng trực tuyến ngày càng nhiều. Thực tế xã hội này
của cơ sở hạ tầng đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của kiến trúc thượng tầng là các cơ
chế giải quyết tranh chấp trực tuyến (Online Dispute Resolution – ODR). Pháp luật Việt
Nam còn nhiều những hạn chế trong việc thực hiện giải quyết trực tiếp các tranh chấp
thương mại trong và ngồi nước, đặc biệt với những vùng miền xa có điều kiện kinh tế
cịn hạn hẹp. Vì vậy lựa chọn giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân và doanh nghiệp bằng biện pháp trực tuyến là lựa chọn phù hợp.
Từ khóa: Tranh chấp, Trực tuyến, Thương mại điện tử, ODR

1/ DẪN NHẬP
Cách mạng Cơng nghệ 4.0 đang làm cho những mơ hình kinh doanh, mơ hình tổ chức
các chuyến du lịch và rất nhiều lĩnh vực thuộc hạ tầng xã hội thay đổi, điều này đòi hỏi
kiến trúc thượng tầng là hệ thống pháp luật phải thay đổi theo để thích ứng. Cơng việc
hàng ngày chúng ta gắn với máy tính, với điện thoại kết nối mạng, từ đây rất nhiều giao
dịch, thỏa thuận mua bán, hay kí kết hợp đồng được thực hiện trực tuyến. Khi dịch bệnh
Covid 19 đang hoành hành và chưa có triển vọng hạn chế trong ngắn hạn thì các giao
dịch trực tuyến càng nhiều. Điều này kéo theo tranh chấp phát sinh ngày càng tăng, việc
giải quyết các tranh chấp này bằng biện pháp trực tuyến ngày càng bức thiết. Các biện
pháp phòng chống dịch COVID-19 đồng thời chi phí đi lại và chi phí thời gian giải
quyết tranh chấp có thể gây ra những khó khăn, cản trở trong quá trình giải quyết. Điều

1 Các tác giả là học viên khóa Cao học Luật Kinh tế LA1.30

408




này tạo sức ép thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp trực tuyến, cũng như hình thành một
hệ thống giải quyết ngày càng bức thiết.
Mơ hình giải quyết tranh chấp trực tuyến (ODR) phổ biến trên thế giới thường được
thiết kế theo mơ hình DNMEA, viết tắt của các từ Diagnosis (chẩn đốn), Negotiation
(thương lượng), Mediation (hịa giải), Evaluation (đánh giá), and Appeal (Phúc thẩm).
Trong đó, hai bước đầu tiên (chẩn đốn và thương lượng) thường được thực hiện thơng
qua phần mềm máy tính, các bước cịn lại được con người thực hiện. Tuy mới thực hiện
các bước đầu tiên nhưng đã cải thiện đáng kể tốc độ và giảm chi phí trong các tranh
chấp điều này kỳ vọng ODR càng ngày càng được phổ biến để giải quyết nhanh chóng,
hiệu quả, linh hoạt và chi phí thấp hơn so với các biện pháp giải quyết tranh chấp truyền
thống.
Đối với thương mại quốc tế ODR khắc phục những vấn đề phát sinh do giới hạn của
biên giới quốc gia, giúp nhiều bên yếu thế trong xã hội được tiếp cận công lý và thực
thi công lý. Điều này làm cho ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và bước
đầu cơng nhận mơ hình và kết quả giải quyết các tranh chấp bằng phương pháp này.
Điển hình như: Úc, Trung Quốc…
Tuy vậy, thực tế áp dụng ODR tại Việt Nam cịn một số khó khăn nhất định. Khó khăn
bắt đầu ngay từ luật áp dụng, lựa chọn khung pháp lý, mơ hình giải quyết, hay hướng
dẫn chi tiết. Chưa có điều khoản nào tại Bộ luật dân sự, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Tố
tụng dân sự, Bộ Luật Tố tụng Hình quy định hồn chỉnh về hình thức giải quyết này.
Bài viết cố gắng tìm hiểu thực tế, cũng như lý thuyết để trả lời các câu hỏi như sau:
1)Lịch sử ODR thế nào? 2) Ưu và nhược điểm của ODR là gì? 3) ODR có khả năng áp
dụng tại Việt Nam hay không? 4) Kiến nghị gì để áp dụng cơ chế ODR tại Việt Nam?
Để trả lời những câu hỏi nêu trên, cấu trúc bài viết được chia thành các phần:
Phần thứ nhất giới thiệu tổng quan, phần thứ hai từ mục 2 đến mục 3 trả lời cho câu hỏi
số một về lịch sử hình thành ODR và câu hỏi số hai về ODR có những ưu điểm nổi bật
gì so với tranh chấp truyền thống.
Phương pháp nghiên cứu luật viết được sử dụng để đưa ra các khái niệm và đặc điểm

về tranh chấp thương mại, khái niệm và đặc điểm về tranh chấp thương mại trực tuyến.

409


Phương pháp nghiên cứu lịch sử được sử dụng để tìm hiểu và tóm tắt lịch sử hình thành
tranh chấp thương mại trực tuyến ODR.
Phương pháp nghiên cứu tình huống được sử dụng để tìm hiểu và phân tích một vài tình
huống thực tiễn để làm rõ các câu trả lời, tìm hiểu bài học và đưa ra các kiến nghị.
Phần thứ ba, từ mục 5 đến cuối bài nghiên cứu trả lời cho các câu hỏi số ba về khả năng
áp dụng ODR tại Việt Nam và câu hỏi số bốn về các giải pháp kiến nghị đối với mơ
hình ODR tại Việt Nam.
Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích các tình huống thực tiễn từ đó đề
xuất khả năng áp dụng ODR tại Việt Nam cũng như các kiến nghị hoàn thiện.
2/ Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp thương mại
2.1 Khái niệm về tranh chấp thương mại:
Luật Thương mại năm 2005 (LTM 2005) chưa có định nghĩa về tranh chấp thương mại
mà chỉ có định nghĩa về tranh chấp thương mại thơng qua các khái niệm về thương
nhân, và khái niệm về hoạt động thương mại. Khái niệm của hoạt động thương mại
được LTM 2005 lại quy định về các hoạt động thương mại trong các giao dịch kinh
doanh bao gồm giao dịch trong nước và giao dịch quốc tế.
Về khái niệm của hoạt động thương mại: Khái niệm này được quy định tại khoản 1
điều 3 LTM 2005 như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy các hoạt động thương mại thực hiện
nhằm mục đích sinh lợi thơng qua hoạt động “Mua bán hàng hoá” được quy định tại
khoản 8 điều 3 LTM 2005, hoặc là hoạt động trao đổi hàng hố. Hàng hóa có thể là các
động sản, bất động sản, hoặc tài sản gắn liền với đất (khoản 2 điều 3 LTM). Những hoạt
động này đòi hỏi bên bán phải giao hàng, đồng thời chuyển quyền sở hữu cho bên mua,
và được nhận thanh toán theo thoả thuận. Bên mua được nhận hàng đồng thời xác lập

quyền sở hữu và có trách nhiệm thanh tốn theo thoả thuận.
Như vậy, khái niệm hoạt động thương mại được dùng chỉ các hoạt động thực hiện để
sinh lợi tức, điểm này giống như hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng hoạt động
thương mại tiếp cận ở giai đoạn mua bán hàng hóa hay dịch vụ, mục đích mang sản

410


phẩm hàng hố và dịch vụ đến người có nhu cầu sử dụng, mà không đề cập giai đoạn
sản xuất.
Về khái niệm Thương nhân: Khái niệm này được quy định tại khoản 1 điều 6 LTM
2005 như sau: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.”
Theo định nghĩa trên thì cá nhân, tổ chức được xem là thương nhân khi được thành lập
theo quy định của Luật Doanh nghiệp, như hợp tác xã, hộ kinh doanh và cá nhân có
đăng ký kinh doanh. Khái niệm về tranh chấp thương mại được hiểu theo các định
nghĩa“hoạt động thương mại” và “thương nhân”. Tranh chấp xảy ra dựa trên mâu thuẫn
giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các thương nhân với nhau, thông qua các hoạt động
thương mại như mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ hay các hoạt động thương mại
khác nhằm mục đích sinh lợi.
Vậy, tranh chấp thương mại thường có các yếu tố cơ bản sau đây: “Có mối quan hệ giữa
các thương nhân với nhau thơng qua hoạt động thương mại; Có sự bất đồng ý kiến của
các bên trong hoạt động thương mại; Có sự vi phạm nghĩa vụ (hoặc cho rằng là vi phạm
nghĩa vụ) của một hay nhiều bên trong các quan hệ đó”.
Tranh chấp thương mại thường hình thành từ sự mâu thuẫn trong hợp đồng thương mại
được kí kết giữa các bên nhưng không phải vi phạm nào cũng dẫn đến tranh chấp thương
mại. Từ đó hướng giải quyết tranh chấp thương mại cũng có nhiều hình thức như: Tịa
án, Trọng tài hay Hòa giải thương mại.
2.2 Đặc điểm của tranh chấp thương mại
Thứ nhất, tranh chấp thương mại xuất phát từ những bất đồng hay mâu thuẫn thậm chí

là xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể nào đó. Các
tranh chấp thương mại thường xuất phát từ những mâu thuẫn khi thực hiện các hoạt
động thương mại. Các bên trong hoạt động thương mại, khi tiến hành thương thảo các
hợp đồng thương mại bao giờ cũng có xu thế tối ưu hóa lợi ích của mình, vì vậy họ vừa
hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh với đối tác để đạt được lợi ích lớn nhất có thể. Vì vậy,
rất nhiều trường hợp các bên cố ý đưa thông tin không cụ thể, khó hiểu hay tung tin giả,
thất thiệt để nhằm đạt mục đích của mình. Điều này dẫn đến các bên có thể vơ tình hiểu
sai nội dung thơng tin của đối tác, hay tiếp nhận những thông tin sai lệch, không đầy
đủ, không chắc chắn dẫn đến ra các quyết định sai. Tự do thương mại ngày càng tăng,
411


đồng thời cũng phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện, hoạt
động thương mại thất bại ngày càng tăng và số lượng các tranh chấp xuất hiện ngày
càng nhiều.
Thứ hai, tranh chấp thương mại liên quan đến mục đích sinh lời của các bên tham gia
thực hiện hoạt động thương mại. Bản chất của hoạt động thương mại là sinh lời, mà
việc sinh lời bên này cũng đồng thời với phần thiệt của bên kia nên tranh chấp thương
mại thường xảy ra trong các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận. Các bên có thể vơ tình hay
cố ý vi phạm các cam kết đã thỏa thuận, các quy định đã thống nhất áp dụng, hay pháp
luật của bên kia. Những vi phạm cơ bản trong tranh chấp thương mại được quy định tại
khoản 13 điều 3 của LTM 2005: “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên
gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc
giao kết hợp đồng”. Các vi phạm có thể lớn hoặc nhỏ, nhưng thường tranh chấp thương
mại phát sinh khi vi phạm của bên này gây ra thiệt hại đến mức làm cho bên kia không
đạt được mục đích khi đàm phán giao kết hợp đồng. Quan hệ thương mại giữa các bên
dựa trên quan hệ về tài sản, nên các nội dung tranh chấp thương mại vẫn dựa trên mục
đích lợi nhuận là chủ yếu.
Thứ ba, tranh chấp thương mại thường phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh
doanh, pháp nhân) hay cá nhân với nhau. Việc xảy ra tranh chấp thương mại có thể xảy

ra giữa công ty với công ty, công ty với cá nhân, các cá nhân trong cùng một công ty
với nhau hay các cá nhân, tổ chức trong nước với các cá nhân, tổ chức nước ngồi tại
Việt Nam. Đó là các chủ thể được quyền đàm phán và giao kết các hợp đồng thương
mại, và tranh chấp chỉ phát sinh giữa các chủ thể mà thôi.
3/ Khái niệm và đặc điểm khi giải quyết tranh chấp trực tuyến
3.1 Khái niệm của giải quyết tranh chấp trực tuyến
Hiện tại, chưa có một định nghĩa hay khái niệm thống nhất chung về ODR. Một số định
nghĩa, khái niệm có thể được tham khảo như sau:
Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ: “ODR là một thuật ngữ rộng bao gồm nhiều dạng thức của
ADR và thủ tục Tòa án kết hợp với việc sử dụng internet, website, email (thư điện tử),
phương tiện truyền thông và công nghệ thông tin khác như một phần q trình giải quyết
tranh chấp. Các bên có thể khơng bao giờ gặp mặt trực tiếp khi tham gia quá trình giải
quyết bằng ODR. Thay vào đó, các bên có thể chỉ liên lạc trực tuyến”.
412


Theo UNCTAD: ODR thường được xem là các hình thức của giải quyết tranh chấp
ngồi Tịa án (ADR) tận dụng được tốc độ và sự tiện lợi của Internet và Công nghệ
thông tin và truyền thông (ICT)”.
3.2 Sơ lược lịch sử hình thành và quá trình phát triển của ODR
Quá trình phát triển của ODR có thể chia thành 3 giai đoạn chính:
1. Giai đoạn trước năm 1995
2. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 1999
3. Giai đoạn từ năm 1999 đến hiện tại.
3.2.1 Giai đoạn trước năm 1995
Trong giai đoạn này, các tranh chấp đã phát sinh tuy nhiên việc giải quyết tranh chấp
đã được áp dụng một cách khơng chính thức. Trước năm 1992, mạng máy tính (Internet)
chỉ là một mạng máy chủ ở Hoa Kỳ, các hoạt động thương mại qua mạng Internet bị
cấm. Internet chủ yếu được sử dụng trong các học viện đào tạo để gửi email hoặc trao
đổi dữ liệu giữa các chuyên gia kỹ thuật. Quá trình này xuất hiện một số vi phạm, nhưng

chưa có cơ chế để giải quyết các vấn đề này. Cũng chưa có bất kỳ tổ chức giải quyết
tranh chấp nào được hình thành, đồng thời khái niệm ODR cũng chưa ra đời trong giai
đoạn này.
Sau khi lệnh cấm hoạt động thương mại trên Internet được gỡ bỏ, các tranh chấp thương
mại dần bắt đầu xuất hiện. Nhu cầu giải quyết tranh chấp phát sinh ngày càng bức thiết.
3.2.2 Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 1999
Sự phát triển và bùng nổ của internet làm thúc đầy ODR ra đời và phát triển. Nhu cầu
sử dụng tăng cũng kéo theo gia tăng số lượng các nhà cung cấp internet (Internet Service
Providers – ISPs). Nếu các khách hàng, người sử dụng dịch vụ Internet phải chịu trách
nhiệm về các hành động tương tác của mình trên khơng gian mạng thì vấn đề được đặt
ra là: Liệu các ISP có phải chịu trách nhiệm cho các hành vi của những người tương tác
với (subscribers) với các sản phẩm công nghệ hay không? Quyền và nghĩa vụ của ISP
khi người sử dụng dịch vụ của họ, tài khoản mà họ cung cấp để khai thác nhằm vào
mục đích kinh doanh phân phối các sản phẩm hay phần mềm có hoặc khơng có bản
413


quyền? Các ISP có phải kiểm tra các hành vi trái pháp luật của người dùng hay không?
Và trong trường hợp nào ISP có quyền chấm dứt đăng ký của người dùng?
Ý tưởng về ODR xuất hiện trong sự công nhận rằng tranh chấp sẽ gia tăng cùng với sự
phát triển phạm vi của hoạt động trực tuyến (online). Các cơng ty tìm kiếm cơ hội
thương mại trên Internet, các lợi ích khi khai thác các tên miền. Từ đây, các tên miền
đăng ký gia tăng, tranh chấp cũng phát sinh giữa các chủ sở hữu nhãn hiệu với chủ sở
hữu tên miền.
3.2.3 Giai đoạn từ 1999 đến nay
ODR bắt đầu nhận được sự chú ý thông qua các lợi ích mà nó mang lại, phương án giải
quyết trực tuyến các tranh chấp bắt nguồn từ môi trường thương mại trực tuyến giúp
gia tăng các tiện lợi và giảm các chi phí đã giúp ODR có nhiều lợi thế. ODR dần ần
hình thành một phương pháp xét xử và bắt đầu được chấp nhận là một quy trình cần
thiết trong mơi trường trực tuyến. Vấn đề được quan tâm chính của ODR liên quan đến

chi phí xây dựng và vận hành hệ thống.
Mặc dù ODR có thể sử dụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các tranh
chấp thương mại trực tiếp nhưng nó vẫn chủ yếu tập trung giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong môi trường thương mại điện tử. Tuy vậy, hướng quan trọng hơn là ORD
có thể sử dụng để giải quyết tranh chấp trực tiếp (offline), đây cũng là xu thế chung
trong tương lai gần để các tranh chấp đều có thể tiếp cận cơng lý, cơng bằng và bình
đẳng.
3.2.4 Các hình thức của ODR


Thương lượng trực tuyến (online negotiation)



Hịa giải trực tuyến (online mediation)



Trọng tài trực tuyến (online arbitration)



Tịa án trực tuyến (online court)



Các phương thức ODR hỗn hợp (mixed ODR)

414



3.2.5 Các đặc điểm của ODR


Tính phi biên giới (vật lý): các phương thức của ODR sử dụng trong môi trường
internet, trực tuyến. Do đó, khơng có khái niệm biên giới trong ODR.



Tính hiện đại, chính xác: ODR sử dụng trên nền tảng do các công nghệ, phần
mềm điện tử, kỹ thuật số hiện đại cung cấp, là thành quả của công nghệ thông
tin. Ứng dụng công nghệ giúp ODR có độ chính xác cao trong việc xử lý các yêu
cầu, khiếu nại tranh chấp trên nền tảng trực tuyến, website, các chứng cứ và dẫn
chứng có thể dễ dàng sưu tầm trên không gian mạng, vấn đề đặt ra là thủ tục để
ghi nhận nó.



Tính đa dạng chủ thể trong tranh chấp: ngoài các chủ thể truyền thống giống
như ADR, ODR cịn có sự tham gia của một bên khác là các nhà cung cấp dịch
vụ mạng. Nhà cung cấp nền tảng cơng nghệ và dịch vụ đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo ODR được diễn ra ổn định và chính xác. Vai trị của nhà
cung cấp này được gọi là Bên thứ tư (forth party) trong việc giải quyết tranh chấp
trực tuyến. Khái niệm này được đưa ra lần đầu tiên bởi Janet Rifkin và Ethan
Katsh trong sách chuyên trang hội thảo “Giải quyết Tranh chấp Trực tuyến”.



Tính minh bạch: ODR được sử dụng thơng qua công nghệ thông tin và truyền
thông (Information Technology and Communication – ICT) nên luôn để lại dấu

vết trên nền tảng kỹ thuật số. Do đó, hồ sơ của ODR về lý thuyết có thể tồn tại
và lưu trữ vĩnh viễn, việc truy xuất nguồn gốc là khả thi. Bởi vậy các bên khơng
dễ dàng trong việc thay đổi hay xóa bỏ nó một cách vĩnh viễn. Nên các chứng
cứ dễ dàng được xác lập và mức độ phong phú rất cao.



Tính rủi ro: Trong mơi trường ảo, khó để xác định được năng lực của các bên
khi xảy ra tranh chấp, tính chính xác của các tài liệu điện tử được gửi là đáng tin
cậy hoặc chống lại sự tấn công từ nhiều đối tượng (như tin tặc – hacker) nhằm
đánh cắp thông tin và dữ liệu.

4/ Kinh nghiệm quốc tế trong giải quyết tranh chấp trực tuyến
4.1 Vụ việc tranh chấp của EBAY
Thỏa thuận và Hòa giải: EBay là một trang đấu giá trực tuyến với hơn 125 triệu người
dùng đã đăng ký và có hơn 24 triệu mặt hàng được rao bán mỗi ngày. Ebay giúp người
415


bán mở rộng thị trường tiêu dùng vòng quanh thế giới. Bản thân eBay không phải là
một bên trong bất kỳ giao dịch nào và nói chung, khơng chịu trách nhiệm về các vấn đề
phát sinh giữa người mua và người bán. Năm 1999, eBay quyết định rằng việc có một
quy trình giải quyết tranh chấp có thể nâng cao hơn nữa lòng tin giữa người mua và
người bán. Do đó, eBay đã ủy quyền cho Trung tâm Cơng nghệ Thông tin và Giải quyết
Tranh chấp (“Center for Information Technology and Dispute Resolution”) tại Đại học
Massachusetts tiến hành một dự án thử nghiệm để kiểm tra tính khả thi và giá trị của
một quy trình giải quyết tranh chấp cho phép các bên không thể tự giải quyết một số
vấn đề nhận được sự hỗ trợ của chuyên gia từ người hịa giải. Trong lần sử dụng ODR
quy mơ lớn đầu tiên, Trung tâm đã xử lý hơn 200 tranh chấp trong thời gian hai tuần.
Vài tháng sau khi hoàn thành dự án thử nghiệm của Đại học Massachusetts, eBay đã

chọn SquareTrade.com làm nhà cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp. Cách tiếp cận
của SquareTrade đối với ODR khác với cách tiếp cận của Đại học Massachusetts theo
hai cách, mỗi cách đều đại diện cho một bước tiến quan trọng trong ODR. Đầu tiên,
trước khi cung cấp hòa giải viên là con người, SquareTrade đã thêm quy trình thương
lượng được hỗ trợ bởi cơng nghệ, trong đó các bên có thể cố gắng tự giải quyết tranh
chấp trước khi yêu cầu hòa giải viên. Thứ hai, SquareTrade sử dụng Web thay vì email
như một phương tiện giao tiếp và làm việc với các bên tranh chấp.
Cách thức SquareTrade sử dụng Web minh họa những thay đổi tương đối nhỏ trong
cách thức giao tiếp diễn ra mà có thể gây ra những hậu quả lớn. Hầu hết những người
nộp đơn khiếu nại với SquareTrade đều đã cố gắng thương lượng qua email và đã đi
đến bế tắc. Không chỉ các bên có vẻ sẵn sàng đàm phán qua Web hơn qua email mà các
cuộc đàm phán thường thành công hơn. Trang web được thiết kế bởi SquareTrade cung
cấp một tập hợp các trao đổi có tính cấu trúc cao hơn giữa các bên so với các trao đổi
qua email. SquareTrade biết rằng hầu như tất cả các tranh chấp tại eBay rơi vào khoảng
mười loại [tranh chấp]. Điều này cho phép SquareTrade tạo ra các biểu mẫu mà các bên
điền vào và các biểu mẫu này làm rõ và làm nổi bật cả những gì đang chia rẽ các bên
và những giải pháp mong muốn. Mặc dù các bên có cơ hội để mô tả mối quan tâm thông
qua việc sử dụng ngôn ngữ riêng [của họ], nhưng các biểu mẫu và bản tóm tắt biểu mẫu
mà các bên nhận được chắc chắn sẽ làm giảm các văn bản/ từ ngữ phàn nàn và yêu cầu
được thực hiện, kết quả dường như có tác động làm giảm sự tức giận và thù địch giữa
các bên.

416


Theo định nghĩa, thương lượng là việc các bên trong tranh chấp tự thực hiện mà khơng
có sự hiện diện của bên thứ ba. Việc sử dụng Web theo cách của SquareTrade thêm một
yếu tố mới vào thương lượng truyền thống, một loại “hiện diện ảo” (“virtual presence”).
Trang Web, đặc biệt là các biểu mẫu được sử dụng, đóng khung giao tiếp qua lại và
cung cấp một số giá trị có thể bởi một người bên hịa giải. Khơng có thuật tốn nào phân

tích phản hồi và do đó đây chỉ là bước đầu tiên hướng tới một quy trình thương lượng
trực tuyến phức tạp hơn. Tuy nhiên, công nghệ càng làm việc với các bên trong đàm
phán thì sự phân biệt [có tính] truyền thống giữa đàm phán và hịa giải sẽ càng ít rõ ràng
hơn.
Khi thương lượng dựa trên web không thành công, SquareTrade cung cấp một nhân
viên trung gian với mức phí là 20 đơ la. Giao diện Web vẫn được sử dụng nhưng cuộc
trò chuyện được tạo điều kiện bởi một bên thứ ba là con người trung lập. Sử dụng Web
cung cấp một cấu trúc và định dạng cho phép các bên tham gia bất cứ khi nào họ muốn
và với một người hòa giải có thể ở bất cứ đâu.
4.2 Tranh chấp tên miền của ICAN
Để Internet hoạt động, mọi máy tính được kết nối với nó phải có một số nhận dạng hoặc
địa chỉ Internet duy nhất. Các địa chỉ như vậy thường giống như: 128.119.28.27. Bởi vì
con người cảm thấy khó nhớ các chuỗi số, một hệ thống đã được phát triển cho phép
một tên miền, chẳng hạn như “adr.org”. được nhập thay vì chuỗi số. Điều xảy ra khi
một người nhập tên miền là một máy tính ở đâu đó đã dịch nó thành chuỗi số, một thứ
mà máy tính có thể xử lý để tìm ra một máy cụ thể.
Nhu cầu về tên miền tăng lên khi hoạt động thương mại trên Internet phát triển và các
doanh nghiệp muốn khách hàng tiềm năng có thể dễ dàng để tìm thấy họ. Hệ thống tên
miền đã được thiết kế trước khi hoạt động thương mại được cho phép trên Internet và
người ta khơng lường trước được rằng nhiều doanh nghiệp có tên tương tự có thể muốn
cùng một tên miền hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ khó chịu nếu ai đó đăng ký một tên
miền tương tự như nhãn hiệu của họ. Sự kết hợp giữa việc khan hiếm tên miền và những
lo ngại của chủ sở hữu nhãn hiệu đã dẫn đến tranh chấp về tên miền.
Năm 1998, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý cho phép một tổ chức mới, Tổng công ty Internet
cho Tên và Số được Chỉ định (“the Internet Corporation for Assigned Names and
Numbers” - “ICANN”) quản lý hệ thống tên miền. Một trong những điều đầu tiên
ICANN đã làm là ban hành Chính sách giải quyết tranh chấp thống nhất (“Uniform
417



Dispute Resolution Policy” - “UDRP”) thiết lập cả quy trình và bộ quy tắc để quyết
định tranh chấp tên miền. Các cách tiếp cận mà ICANN đã chọn, gồm quy trình trọng
tài và hệ thống mà thực hiện việc tiếp cận này, đại diện cho một sự lựa chọn khác trong
việc chuyển giải quyết tranh chấp trực tuyến.
Quy trình được sử dụng để giải quyết tranh chấp tên miền rất thú vị theo một số cách.
Ví dụ: giải quyết tranh chấp UDRP xảy ra mà không cần gặp mặt trực tiếp và, ngoại trừ
một số trường hợp hiếm, khơng có liên lạc qua điện thoại. Do đó, giải quyết tranh chấp
ở một khoảng cách xa. Tuy nhiên, quy trình giải quyết tranh chấp được sử dụng bởi các
nhà cung cấp lúc đó lại ít sử dụng Internet. Một trong những nhà cung cấp giải quyết
tranh chấp ban đầu, eResolution.com, đã sử dụng một hệ thống hoàn toàn trực tuyến
nhưng đã ngừng xử lý các vụ việc vào năm 2001. Hai nhà cung cấp chính hiện tại, Tổ
chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (“the World Intellectual Property Organization” “WIPO”) và Diễn đàn Trọng tài Quốc gia (“National Arbitration Forum” - “NAF”) có
các hệ thống trực tuyến có thể được sử dụng và có thể sẽ được sử dụng trong tương lai.
Hiện nay, các hồ sơ trực tuyến đang diễn ra với tần suất ngày càng tăng và đôi khi email
được sử dụng. Tuy nhiên, khơng giống như việc hịa giải của eBay, Web khơng được
sử dụng và nếu có giá trị gia tăng có thể được cung cấp bởi các quy trình dựa trên Web,
thì giá trị đó vẫn chưa có.
Hơn nữa, UDRP khơng phải là trọng tài truyền thống, trong đó các quyết định khơng
có giá trị ràng buộc và có hiệu lực thi hành tại tịa án. Các trọng tài viên của UDRP
được gọi là ban hội thẩm vì từ trọng tài biểu thị người có thể đưa ra quyết định có hiệu
lực thi hành tại tịa án. Các thành viên của UDRP được trao quyền theo các điều khoản
trong hợp đồng đã thỏa thuận khi một tên miền được đăng ký. Các quyết định của trọng
tài được thực thi bằng cách thực hiện các thay đổi cần thiết trong cơ quan đăng ký tên
miền. UDRP đã tạo ra một quy trình hiệu quả, mặc dù hơi khơng chính thống, và khơng
phải là khơng có tranh cãi.
5/ Khả năng áp dụng ODR tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra
Với độ mở thương mại trên 200%, nền kinh tế Việt Nam đón nhận rất nhiều những giao
dịch thương mại quốc tế. Đồng thời Việt Nam cũng tham gia ký kết rất nhiều hiệp định
thương mại tự do với nhiều quốc gia và vùng miền lãnh thổ khác nhau. Nhiều tập quán
kinh doanh cũng như đặc tính nội địa của những vùng lãnh thổ khác nhau được cụ thể

hóa trong các điều khoản của các hiệp định thương mại. Nhiều tranh chấp pháp lý quốc
tế đã được Việt Nam thúc đẩy, đứng ra khởi kiện hoặc đóng vai trò là bị đơn.
418


Việt Nam cũng tham gia kết nối mạng internet quốc tế từ tương đối sớm. Từ đây tạo
động lực thúc đẩy công nghệ thông tin phát triển và đạt được tỷ lệ lượng người sử dụng
các nền tảng công nghệ rất cao. Tuy vậy, việc giải quyết các tranh chấp thương mại
quốc tế thông qua phương án trực tuyến vẫn đang là vấn đề mới mà cả nhà nước, doanh
nghiệp và những nền tảng công nghệ đều chưa sẵn sàng tham gia.
5.1 Vai trò của Nhà nước
Nhà nước Việt Nam đã tham gia hệ thống mạng quốc tế và thúc đẩy phát triển nền tảng
công nghệ tạo nền tảng để thương mại điện tử phát triển. Các quy định về thương mại
điện tử cũng khá đầy đủ nhưng các quy định để điều chỉnh trực tiếp về ODR còn nhiều
vắng bóng. Đây là ngun nhân chính cản trở các bên liên quan giải quyết các tranh
chấp thương mại bằng các công cụ trực tuyến.
Hệ thống pháp luật Việt Nam đã ban hành rất nhiều những chính sách và những quy
định về ODR: Từ giai đoạn 2005 đến 2010 rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật tương
ứng về lĩnh vực thương mại điện tử được ban hành. Tuy vậy, phải đợi đến giai đoạn
2010 đến 2020 hệ thống pháp luật Việt Nam mới ban hành những văn bản dưới luật,
những quy định hướng dẫn hoàn chỉnh hơn đối với lĩnh vực thương mại điện tử. Các
chế tài đã dần hình thành các khung cơ bản để xử lý vi phạm liên quan đến ứng dụng
công nghệ thông tin hay các giao dịch thương mại điện tử. Hệ thống pháp luật đầy đủ
giúp tạo điều kiện cho các nền tảng công nghệ phục vụ giao dịch điện tử và phát triển
nhanh chóng trên thị trường Việt nam thời gian qua.
Rất nhiều nhà khởi nghiệp trong nước phát triển và cung cấp các dịch vụ giao dịch
thương mại điện tử. Đồng thời rất nhiều cơng ty nước ngồi cũng nhanh chóng đầu tư
vào mảng kinh doanh này tại thị trường Việt Nam. Từ đây, các tranh chấp trong môi
trường thương mại điện tử gia tăng.
Tuy vậy các văn bản quy định về các thủ tục từ khi phát sinh các mâu thuẫn các tranh

chấp của các bên liên quan cho đến khi kết thúc q trình tố tụng ODR cịn chưa có
hoặc chưa đầy đủ. Các điều khoản trong Luật Giao dịch điện tử năm 2005 hay Nghị
định số 52/2013 về thương mại điện tử có chứa một vài quy định về các thức tiến hành
thủ tục tố tục ODR nhưng mới chỉ mang tính ngun tắc chung, khơng thể trực tiếp áp
dụng để ODR.

419


Nghị định số 22/2017 NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 24 tháng 02 năm 2017
hướng dẫn về hòa giải thương mại là cơ sở pháp lý đầu tiên về hòa giải thương mại trực
tuyến. Tuy nhiên, cụ thể các nội dung tranh chấp nào được áp dụng phương thức ODR,
và cụ thể trình tự, thủ tục cũng như hiệu lực của các chứng cứ điện tử cũng như giá trị
hiệu lực của các quyết định gải quyết ODR như thế nào chưa được cụ thể hóa cũng như
các hướng dẫn chi tiết để áp dụng.
Đặc biệt trong quá trình xét xử nếu gặp những trục trặc của các cơ sở hạ tầng mạng thì
các thủ tục tiến hành cũng như hiệu quả của nó như thế nào chưa được khẳng định. Các
cách thức khi trình bày các lập luận, chứng cứ điện tử, các quá trình hỏi đáp trong tố
tụng hay tập huấn để các bên tham gia tố tụng nên các bên cịn gặp nhiều khó khăn
trong việc trình bày các lập luận, ý kiến của mình cũng như khả năng tương tác với nhau
trong phiên xử. Cơ chế áp dụng để cưỡng chế thi hành hay bằng chứng tiếp nhận các
thông tin là chứng cứ điện tử của các bên liên quan chưa được cụ thể để đảm bảo các
bên xác nhận việc tiếp nhận và nghiên coo các chứng cứ hay các viện dẫn pháp lý đầy
đủ.
Bởi vậy khi các tranh chấp xảy ra thì các bên liên quan thường viện dẫn những điều
khoản trên các cơng bố mang tính mặc định về các điều khoản khi tham gia tương tác
mua bán hay bất kỳ giao dịch nào của các trang thương mại điện tử. Tuy nhiên các tuyên
bố hay những nội quy, quy chế của các giao dịch điện tử này thường ít khi được các cơ
quan chức năng kiểm định và phê duyệt đầy đủ.
Các giao dịch thương mại điện tử lại có giá trị chưa cao nên các bên tham gia cũng ít

khi tìm hiểu, bởi vậy áp lực về nhu cầu bảo vệ các giao dịch trong thương mại điện tử
thông qua phương thức ODR chưa đủ lớn, nhưng pháp luật cần dự liệu để đảm bảo
quyền và lợi ích của các bên liên quan được đảm bảo tốt nhất, dù lợi ích đó là nhỏ nhất.
Thời điểm hiện tại thì Bộ Công thương đã thành lập cổng thông tin điện tử nhằm lắng
nghe ý kiến phản ánh của người tiêu dùng về những vấn đề phát sinh trong các giao
dịch điện tử. Tuy nhiên thời gian xử lý thông tin thường kéo dài và giao diện không
thân thiện. Cục thương mại điện tử và kinh tế số cũng thiết lập hệ thống quản lý và giải
quyết các khiếu nại trong tranh chấp trực tuyến. Hệ thống này dựa trên việc chia sẻ cơ
sở dữ liệu giữa các đơn vị như: Cục thương mại điện tử và kinh tế số, Cục cạnh tranh
và bảo vệ người tiêu dùng, Sở Công thương các tỉnh, thành phố… Hệ thống này cịn có
sự tham gia của các sàn giao dịch điện tử sẽ kỳ vọng là một kênh giải quyết trực tuyến
nhanh nhất các khiếu nại của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm và tiến độ giao
420


hàng. Thông qua các thông tin tiếp nhận của người mua và người bán các cơ quan có
thẩm quyền sẽ ra các quyết định kịp thời để ngăn chặn các tranh chấp phát sinh tạo niềm
tin cho người tiêu dùng.
Tuy vậy độ bao phủ của các cổng thông tin này đối với từng người dân, từng khách
hàng là không cao hoặc không phải người mua hàng nào cũng biết về cơng nghệ thơng
tin, do đó hình thành một rào cản rất lớn trong trường hợp họ muốn sử dụng hình thức
ODR.
5.2 Hạ tầng công nghệ phục vụ giải quyết tranh chấp trực tuyến
Nếu cơ sở pháp lý là nền tảng thì cơ sở vật chất lại đóng vai trị vơ cùng quan trọng,
quyết định thành bại trong các phiên xét xử, điều này cịn đặc biệt quan trọng bởi q
trình xét xử trực tuyến hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của các dịch vụ công nghệ.
Tuy thời gian qua Việt Nam đã mở cửa và chứng kiến sự phát triển bùng nổ của ngành
công nghệ thông tin, hệ thống cáp quang biển thường xuyên gặp trục trặc dẫn đến việc
các giao dịch thương mại bị hạn chế. Chính điều này cũng góp phần rủi ro đe dọa các
phiên tranh tụng trực tuyến khi chất lượng hệ thống công nghệ bị ảnh hưởng.

Theo báo cáo đánh giá ICT về mức độ sẵn sàng của các cơ quan quản lý nhà nước tại
Việt Nam trong việc ứng dụng công nghệ thông tin có những cải thiện đáng kể. Tuy
vậy để đảm bảo nền tảng giải quyết các tranh chấp trực tuyến còn cần cả yếu tố nguồn
thiết bị và phần mềm ổn định phục vụ cho công nghệ vẫn chưa được đáp ứng.
5.3 Chuẩn bị của doanh nghiệp trong giải quyết tranh chấp trực tuyến
Một vấn đề quan trọng cần phải giải quyết để thực hiện việc ODRhiệu quả đến từ rào
cản tâm lý của các doanh nghiệp trong tranh chấp. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn
thái độ e ngại khi nhắc đến các tranh chấp pháp lý tại tòa án hoặc trọng tài. Điều này
ảnh hưởng không chỉ tới việc giải quyết tranh chấp nói chung mà cịn hạn chế việc lựa
chọn phương pháp ODRcủa các bên nói riêng, trong khi đây vẫn còn là một phương
thức giải quyết tranh chấp mới tại Việt Nam.
Ngoài ra, các doanh nghiệp hiện tại của Việt Nam rất khó khăn khi tuyển dụng các lao
động có chun mơn trong lĩnh vực cơng nghệ thơng tin. Các chi phí để ứng dụng các
cơng nghệ hiện đại thường có chi phí cao và là rào cản để các doanh nghiệp đầu tư ứng
dụng. Điểm đặc biệt quan trọng khác đó là các doanh nghiệp có quy mơ nhỏ, với thói
421


quen kinh doanh truyền thống tận dụng các lao động phổ thông giá rẻ nên khả năng áp
dụng công nghệ và khai thác công nghệ không cao.
Điều này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam chưa sẵn sàng cho việc kinh doanh bằng
các phương pháp hiện đại dựa trên nền tảng cơng nghệ chứ chưa nói đến việc sẵn sàng
tham gia giải quyết các tranh chấp ODR. Qua đó thấy được rằng các doanh nghiệp đang
đặt ở vị trí vơ cùng rủi ro khi chưa chủ động đầu tư kết nối và tham gia giải quyết các
tranh chấp một cách cơng khai minh bạch.
6/ Giải pháp kiến nghị
Thứ nhất, Hồn thiện hệ thống pháp luật phục vụ ODR tại Việt Nam
Tiếp nhận hồ sơ trực tuyến: Việc tiếp nhận hồ sơ trực tuyến được xem là việc đem lại
rất nhiều thuận lợi so với việc nộp hồ sơ thông thường. Việc nộp hồ sơ thơng thường sẽ
có những vụ việc cần cất giữ, lưu trữ nên chiếm nhiều diện tích hơn. Nộp hồ sơ trực

tiếp sẽ khắc phục được những mặt hạn chế của tiếp nhận hồ sơ trực tiếp. Nhưng việc
tiếp nhận hồ sơ trực tuyến sẽ gặp một số khó khăn như: Khơng thể truy cập, khơng thể
scan chứng cứ, tài liệu, hay hệ thống mạng bị chập chờn… vì khi nộp hồ sơ khơng phải
chỉ có một bộ hồ sơ mà thường phải chuẩn bị nhiều hồ sơ khác nhau trong một bộ, và
nhiều bộ hồ sơ trong một đợt. Do đó, cần nghiên cứu các phần mềm kết nối mạng một
cách tốt nhất để khi người dân nộp hồ sơ của họ thì có thể tiếp nhận hồ sơ trực tuyến
một cách hiệu quả.
Phòng xét xử trực tuyến: Phòng xét xử trực tuyến sẽ giúp cho người dân lẫn người
tham gia xét xử có thuận lợi hơn về khoảng cách địa lý và thời gian. Ngoài ra, phòng
xét xử trực tuyến cũng giúp mọi người quan tâm đến vụ án cũng dễ dàng theo dõi hơn
thông qua các app trực tuyến. Nhưng cũng có một số trở ngại lớn như khó thể nào giữ
được khơng khí trong phịng xét xử được hiệu quả vì xét theo những người tham gia xét
xử bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, Người đại diện của các bên, người có quyền và nghĩa
vụ liên quan, Thẩm phán xét xử, Viện kiểm sát và báo chí thì số lượng rất nhiều. Do đó,
cần phải có những quy định chặt chẽ về phịng xét xử trực tuyến này để tạo được một
khơng khí uy nghi nhất có thể.
Thứ hai: Hồn thiện Chính phủ điện tử đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp.

422


Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 với mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao.” thì để bảo vệ cơng lý, nâng cao hiệu quả xét xử đòi
hỏi thực hiện nền tảng điện tử cho các cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh bằng
điện tử là bắt buộc.
Để thực hiện được mục tiêu chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì Bộ Chính trị
các nhiệm vụ cải cách tư pháp phải thực hiện như sau:

Hoàn thiện pháp luật: Các chính sách của Đảng, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự
và thủ tục tố tụng, các hệ thống văn bản trong lĩnh vực tư pháp cần được hồn thiện và
ban hành. Hệ thống thơng tin tiếp nhận phản ánh cũng như quy trình giải quyết tranh
chấp, thủ tục tố tụng cần phải công khai minh bạch để từng người dân có thể thuận tiện
tìm hiểu nắm bắt và chủ động trong giải quyết các tranh chấp. Các bên liên quan cũng
tiếp cân được nhanh chóng và dễ dàng. Hồn thiện quy trình thu thập chứng cứ điện tử,
quy trình thu thập, quyền của chủ thể khi tiến hành thu thập. Xây dựng hệ thống xác
thực và định danh điện tử cơng dân; đẩy nhanh việc hồn thiện xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư, tiến tới cấp căn cước điện tử quốc gia kèm theo chữ ký điện tử cá
nhân cho cơng dân.
Hồn thiện các chế định bổ trợ tư pháp: Việc xác thực giao dịch đóng vai trị quan
trọng để đảm bảo tính hiệu lực của hợp đồng, ngăn chặn các hành vi lừa đảo trên các
trang mạng cũng như các hình thức tội phạm khác trên internet. Nhanh chóng xây dựng
chính phủ số và nền kinh tế công nghệ. Kết nối giữa các sàn giao dịch điện tử với các
các cơ quan chịu trách nhiệm thi hành ODR để giải quyết tranh chấp phát sinh ngay từ
đầu. Nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ, thiết bị, kỹ thuật cho các phiên xử
để đảm bảo việc truyền tải thông suốt nội dung dữ liệu, âm thanh, hình ảnh, chất lượng
tương tác trong quá trình phiên họp diễn ra là yêu cầu tiên quyết đối với mơ hình này.
Đào tạo lực lượng xét xử: Trọng tài viên, thẩm phán, luật sư và các đương sự cũng
phải thích nghi với cơng nghệ trực tuyến, bởi các kỹ năng, thao tác của mỗi bên tham
gia tố tụng trong phiên xử trực tuyến có sự khác biệt với một phiên xử truyền thống.
Thứ ba: Thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng công nghệ.

423


Việc Doanh nghiệp tích cực ứng dụng cơng nghệ cũng như đầu tư tìm hiểu về hệ thống
cơng nghệ, cũng như các biện pháp tranh tụng ODR để chuẩn bị kịp thời cho quá trình
tố tụng nếu cần thiết. Tập trung gỡ bỏ các rào cản tâm lý để doanh nghiệp có thể tin
tưởng vào phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến.

7. Tài liệu tham khảo
1. Colin Rule, Online Dispute Resolution and the Future of Justice, phiên bản đầy
đủ tại < > [truy cập ngày
23/06/2021].
2. Hà Công Anh Bảo, Lê Hằng Mỹ Hạnh (2017), Giải quyết tranh chấp trực tuyến
– khả năng áp dụng ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 93 (12/2017).
3. Ethan Katsh (2004), Bringing Online Dispute Resolution to Virtual Worlds:
Creating Processes Through Code, NYLS Law Review, Vols.22-63 (19762019).
4. E. Katsch & J. Rifkin, Online Dispute Resolution: Resolving Conflicts in
Cyberspace, Jossey-Bass, San Fracisco, 2001.
5. Phan Thị Thanh Thủy (2016), Giải quyết tranh chấp thương mại trực tuyến:
Những vấn đề pháp lý đặt ra cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật
học, Tập 32, Số 4 (2016) 38-45.
6. United Nations Conference on Trade and Development (2003), E-commerce and
development report 2003 – Internet edition prepared by the UNCTAD
secretariat, Chapter 7: Online dispute resolution: E-commerce and beyond,
UNCTAD/SDTE/ECB/2003/1.
7. Zhengmin Lu, Xinyu Zhu (2017), Study on the Online Dispute Resolution System
in China, Advances in Engineering Research, volume 129, Atlantis Press, phiên
bản đầy đủ tại < [truy cập ngày 23/06/2021].

424



×