Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

TIỂU LUẬNMÔN: TÀI CHÌNH QUỐC TẾ QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ INTERNATIONAL MONTERY FUND (IMF)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
KHOA TÀI CHÍNH – KẾ TỐN

TIỂU LUẬN
MƠN: TÀI CHÌNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:

QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ
INTERNATIONAL MONTERY FUND (IMF)

Giảng viên hướng dẫn: T.S NGUYỄN VĂN NÔNG
Sinh viên thực hiện:
LẠI THỊ THIÊN THANH
Lớp:
DTN 1126


 MỤC

LỤC 

CHƯƠNG 1: IMF_ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1.
Lịch sử hình thành, cơ cấu và mục đích chính của IMF
1.1.
Q trình hình thành
1.2.
Cơ cấu tổ chức
1.3.
Mục đích hoạt động
2. Chức năng chính của IMF


CHƯƠNG 2: IMF VÀ VIỆT NAM: NHỮNG BƯỚC SONG HÀNH
1.
Việt Nam trong quỹ tiền tệ quốc tế IMF
2.
Hoạt động của IMF dành cho Việt Nam trong các giai đoạn
3.
Nhận định kinh tế Việt Nam qua các giai đoạn của IMF
4.
Hợp tác của IMF – Việt Nam
CHƯƠNG 3: BÁO CÁO “TRIỂN VỌNG KINH TẾ” CỦA IMF
1.
Năm 2014
2.
Năm 2015
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN


CHƯƠNG 1: IMF_ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1.
Lịch sử hình thành, cơ cấu và mục đích chính của IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế (tiếng Anh: International Monetary Fund, viết tắt IMF) là một tổ chức
quốc tế mà thành viên là chính phủ các nước có nhiệm vụ giám sát hệ thống tài chính tồn
cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ
tài chính khi có yêu cầu
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của IMF
Vào năm những năm 30 của thế kỉ trước, khi hoạt động kinh tế ở những nước cơng nghiệp
chính thu hẹp, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởng trọng thương, cố gắng bảo vệ nền kinh
tế của họ bằng việc hạn chế nhập khẩu. Để khỏi giảm dự trữ vàng, ngoại hối, một vài nước
cắt giảm nhập khẩu, một số nước phá giá đồng tiền của họ, và một số nước áp đạt các hạn
chế đối với tài khoản ngoại tệ của công dân. Thương mại thế giới đã sa sút nghiêm trọng,

khi việc làm và mức sống ở nhiều nước suy giảm.
Nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức để giải quyết những vấn đề tiền tệ thế giới. Tuy nhiên
tất cả đều không mang lại kết quả khả quan. Những giải pháp bộ phận và mang tính chất
thăm dị hồn tồn khơng đáp ứng được u cầu cấp thiết lúc bấy giờ.
Ðiều quan trọng nhất ở đây chính là một sự hợp tác với quy mơ lớn chưa từng có giữa tất cả
các quốc gia để xây dựng nên một hệ thống tổ chức tiền tệ cách tân và một tổ chức để điều
hành hệ thống này.
Mùa hè năm 1940, Harry Dester White - Người Mỹ và John Maynard Keynes - Người Anh
đã gần như đồng thời đưa ra dự thảo xây dựng một tổ chức tiền tệ quốc tế mà hành động của
nó được giám sát thường xuyên bởi một tổ chức hợp tác chứ không phải bằng những cuộc
gặp gỡ quốc tế.
Tuy nhiên, phải sau nhiều lần thương thuyết trong điều kiện khó khăn của chiến tranh, cộng
đồng quốc tế mới chấp nhận một hệ thống tiền tệ mới và một tổ chức để giám sát nó.
Những thương thuyết cuối cùng về thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (viết tắt là IMF) đã diễn ra
ở Bretton Woods, NewHamsphire, Hoa kỳ vào tháng 7/1944 giữa 44 quốc gia.


IMF đã đi vào hoạt động ngày 27 tháng 12 năm 1945, khi đó có 29 nước đầu tiên ký kết nó
là những điều khoản của hiệp ước. Mục đích của luật IMF ngày nay là giống với luật chính
thức năm 1944.
Trụ sở chính của IMF ở Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và Geneve. Ngày 1
tháng 3 năm 1947 IMF bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8 tháng
5 năm 1947, khi đó IMF có 49 thành viên.
Từ cuối thế chiến thứ 2 cho đến cuối năm 1972, thế giới tư bản đã đạt được sự tăng trưởng
thu nhập thực tế nhanh chưa từng thấy.
Trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới hai, kinh tế thế giới và hệ thống tiền tệ có thay
đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng và thích hợp trong việc đáp ứng mục tiêu của IMF.
Ảnh hưởng của IMF trong kinh tế toàn cầu được gia tăng nhờ sự tham gia đông hơn của các
quốc gia thành viên. Hiện IMF có 184 thành viên, nhiều hơn bốn lần so với con số 44 thành
viên khi nó được thành lập.

Nguồn vốn của IMF là do các nước đóng góp, các nước thành viên có cổ phần lớn trong
IMF là Mỹ (17,46%), Đức (6,11%), Nhật Bản (6,26%), Anh (5,05%) và Pháp (5,05%). Tổng
vốn của IMF là 30 tỷ Dollar Mỹ (1999).
Uy tín của IMF theo năm tháng là không thay đổi và ngày càng được củng cố.
1.2. Cơ cấu tổ chức
IMF là một tổ chức tổ hợp tài chánh qui tụ 183 nước hội viên hiện nay, nước Nam Tư mới
xin gia nhập sau khi đất nước đã tìm lại được một chế độ dân chủ hơn.
Đứng đầu trong tổ chức hành chánh là Ban Lãnh Đạo những Thống Đốc (Board of
Governors - Conseil des Gouverneurs). Mỗi nước hội viên cử một người nước mình làm
thống đốc đại diện cho nước. Họ thường là những bộ trưởng tài chánh hay giám đốc của
ngân hàng trung ương và quyền quyết định của họ phản ảnh đường lối của chính phủ nước
họ.
Mỗi năm các thống đốc dự cuộc họp thường niên tại trụ sở chính nằm ở thủ đô Washington
hoặc ở một nước hội viên để quyết định đường hướng và hoạt động của cơ quan IMF.
Việc điều hành thường trực của cơ quan được đảm nhận bởi Ban điều hành (Executive
board - Conseil d’administration) gồm có 24 giám đốc (executive directors Administrateurs).
Hiện nay 8 nước có mỗi nước một giám đốc trong Ban điều hành : Mỹ, Nhật, Đức, Pháp,
Anh, Nga, Trung Quốc và Saudi Arabia.
Những nước hội viên khác được chia ra làm 16 nhóm, mỗi nhóm cử một giám đốc. Ban điều
hành cử một giám đốc chính (managing director - directeur général) để điều hành tồn bộ cơ
quan IMF và áp dụng những chính sách đã được Ban Lãnh Đạo những Thống Đốc quyết
định.


 Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị gồm đại
diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm cách 5 năm sẽ có 1 lần bổ
nhiệm.
Trong kỳ họp, Hội đồng quản trị phê chuẩn báo cáo hàng năm về hoạt động của IMF,
xem xét việc kết nạp thành viên mới và khai trừ thành viên ra khỏi tổ chức, xem xét
việc thay đổi vốn pháp định

 Ủy ban lâm thời (Imterm Committee) Hội đồng quản trị của IMF là cơ quan tư vấn
về các vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10 năm 1974. Thành viên của Ủy
ban lâm thời là các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên. Nhiệm vụ chính của Ủy
ban lâm thời là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ thế giới và kiến nghị với Hội
đồng quản trị. Nếu Hội đồng quản trị thấy cần thiết, có thể cải tổ Ủy ban lâm thời
thành cơ quan thường trực có quyền thơng qua nghị quyết.
 Ủy ban phát triển (Development Committee), phối hợp giữa IMF và ngân hàng phát
triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về những nhu cầu đặc biệt của nước
nghèo
IMF có khoảng 2600 nhân viên, đứng đầu là Giám đốc điều hành, đồng thời cũng là Chủ
tịch Hội đồng điều hành (hội đồng tự bầu chủ tịch của mình). Theo truyền thống, Giám đốc
điều hành là người Châu Âu, nếu không thì cũng phải là người Mỹ.
Hiện nay, Tổng giám đốc IMF là bà Christine Lagarde người Pháp, nhậm chức tháng
06/2011. Trở thành nữ lãnh đạo đầu tiên trong lịch sử của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Nhân viên của IMF là người của khoảng 120 nước và đa phần là các nhà kinh tế học, song
cũng có cả các nhà thống kê, bác học, các chuyên gia về tài chính cơng cộng và thuế khố,
các nhà ngơn ngữ học, nhà văn và các nhân viên phục vụ.
Ða số các nhân viên đều hoạt động tại trụ sở nhỏ ở Paris, Geneve, Tokyo, tại trụ sở của Liên
hợp quốc ở NewYork hoặc tại các văn phòng của IMF được thành lập tạm thời ở các nước
thành viên.
Khác với các giám đốc chấp hành là những đại diện của từng nước thành viên, các nhân
viên của Quỹ chỉ là nhân viên quốc tế, họ có trách nhiệm thực thi chính sách của IMF khơng
đại diện cho lợi ích của bất cứ quốc gia nào.

 NHỮNG NGUỒN TÀI CHÍNH CỦA IMF 
Tổ chức của IMF có tính cách tổ hợp tương trợ tài chánh, nghĩa là mỗi hội viên đóng góp
một số tiền được hội quy định. Nguồn tài chánh này được dùng để giúp các nước hội viên
trong trường hợp cần thiết.
Nhưng Quỹ cũng có những phương cách phụ thuộc khác để có thể đáp ứng những nhu cầu
của các nước hội viên.

a/ Phần đóng góp (quotas - quotes-parts)


Phần đóng góp của mỗi nước là nguồn tài chánh chính của Quỹ ngay từ khi được thành lập.
IMF khơng vay mượn trên thị trường tài chánh quốc tế. Điều này giải thích tại sao IMF
khơng phải là một ngân hàng quốc tế dù hoạt động chính của nó liên quan đến lãnh vực tài
chánh.
Phần đóng góp khơng những đóng vai trị của nguồn tài chánh, nó cịn là tiêu chuẩn để xác
định số tiền mà một nước hội viên có thể vay mượn, để phân chia SDR và số phiếu bầu của
mỗi nước.
Phần đóng góp được xác định theo nhiều tiêu chuẩn như tổng sản lượng quốc gia, dự trữ
vàng và dollar Mỹ, số lượng xuất khẩu và nhập khẩu. Nước nào càng giầu thì đóng góp
càng cao. Số đóng góp lúc đầu (1946) trị giá 7.6 triệu dollar Mỹ. Số đóng góp tính tới năm
1998 là 193 tỷ dollar Mỹ. Năm 1999, đề nghị của IMF tăng 45% những phần đóng góp đã
được các nước hội viên phê chuẩn, nguồn tài chánh của cơ quan do đó trị giá quãng 300 tỷ
dollar Mỹ.
Nguồn tài chánh của cơ quan tăng nhiều vì hai lý do. Một mặt các nước gia nhập tổ chức
ngày càng nhiều, từ 35 nước lúc đầu đến nay lên tới 183 nước hội viên. Mặt khác những
phần đóng góp có thể tăng lên hay giảm xuống (chưa bao giờ có) mỗi thời gian 5 năm theo
quyết định của những thống đốc với ít nhất 85% số phiếu thuận.
Những phần đóng góp quan trọng nhất hiện nay là Mỹ (18.25%), Nhật (5.67%), Đức
(5.67%), Pháp (5.10%) và Anh (5.10%). Phần đóng góp của Mỹ trị giá quãng 35 tỷ dollar
Mỹ. Phần đóng góp càng nhiều thì ảnh hưởng trong cơ quan IMF càng mạnh về đường
hướng và những quyết định quan trọng. Rất nhiều nước nhỏ có phần đóng góp rất ít, qng
50 nước có phần đóng góp dưới 65 triệu dollar Mỹ. 52 nước Phi Châu có phần đóng góp
tương đương với phần đóng góp của Đức hay Nhật. Phần đóng góp của Mỹ cao hơn hai lần
những phần đóng góp của các nước Châu Mỹ La Tinh.
Cách thức xác định tiền đóng góp của mỗi hội viên rất đặc biệt. Theo quy chế của Quỹ, mỗi
nước thanh tốn phần đóng góp 25% bằng vàng và 75% bằng tiền nước mình. Số vàng được
dự trữ trong bốn ngân hàng trung ương lớn nhất, 75% tiền mỗi nước được giữ dưới hình

thức một trương mục của Quỹ tại ngân hàng trung ương mỗi nước.Trong thực tế các nước
thanh tốn bằng vàng ít hơn là 25% như quy định.
Từ năm 1971, khi Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar hết hoạt động, 25% được thanh toán bằng
SDR hay những đồng tiền lớn thường được xử dụng trên thị trường quốc tế.

b/ Quyền SDR / DTS (special drawing right - droits de tirage spéciaux)
Nguồn dự trữ trong các ngân hàng trung ương để bảo đảm cho ngoại thương là vàng và các
tiền lớn như dollar Mỹ, yen Nhật, pound Anh và mới đây là tiền euro thay thế cho những
tiền lớn của Cộng Đồng Tiền Tệ Âu Châu như mark Đức, franc Pháp.


Từ năm 1969, IMF quyết định phân chia cho các nước hội viên một loại quyền lợi đặc biệt
gọi là SDR viết tắt của Anh ngữ hay DTS viết tắt của Pháp ngữ. Quyền này được coi như
một loại tiền dự trữ ghi trên sổ kế toán của ngân hàng trung ương mỗi nước.
Lúc đầu ban lãnh đạo IMF đặt rất nhiều hy vọng vào SDR và dự trù nó sẽ trở thành đồng
tiền quốc tế thay tiền dollar Mỹ. Thực tế khơng như Quỹ mong đợi, bởi vì các nước lớn nghĩ
nhiều đến quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi chung và cũng vì dự tính trên lý thuyết thì
hay nhưng khó thực hiện trong thực tế. Lúc ban đầu, SDR được phân chia cho mỗi nước hội
viên theo phần đóng góp đã trình bầy ở trên, do đó các nước nhỏ ít đóng góp khơng được
nhiều SDR. Trong những lần phân chia sau này, Quỹ có khuynh hướng tăng phần dành cho
những nước này.
Giá trị của SDR ban đầu được định giá tương đương với 1/35 oune vàng, do đó 1 SDR = 1
USD. Sau năm 1971, tiền dollar Mỹ khơng cịn được đổi ra vàng, giá trị của SDR được xác
định dựa trên giá trị 16 đồng tiền của 16 nước có hoạt động xuất khẩu cao nhất và thay đổi
theo giá thị trường của những đồng tiền này.
Từ năm 1980, để đơn giản hoá cách tính, giá trị được xác định dựa trên 5 đồng tiền lớn và
mức quan trọng của mỗi đồng tiền : dollar Mỹ (39%), mark Đức (21%), yen Nhật (18%),
pound Anh (11%) và franc Pháp (11%). Từ khi đồng euro ra đời (01/01/1999), mức quan
trọng được xác định như sau : dollar Mỹ (45%), euro (29%), yen Nhật (15%), pound Anh
(11%). Thí dụ ngày 8/8/2000, 1 SDR = 1.30904 USD. Kể từ ngày 01/01/2001, Quỹ quyết

định là giá trị một SDR bằng tổng số những tiền như sau : 0.577 USD + 0.426 EUR + 21
JPY + 0.0984 GBP.
Tỷ số phân lãi của SDR cũng được xác định một cách tương tự. Số SDR phân chia cho các
nước hội viên hiện nay trị giá quãng 29 tỷ dollar Mỹ.
SDR là loại tiền tượng trưng của IMF được quy đổi, đóng góp bằng bản tệ và ngoại tệ mạnh như USD, yên
Nhật, EURO…

c/ Mượn tiền
IMF có thể mượn tiền của những nước hội viên giầu như các nước kỹ nghệ lớn hay có nhiều
dầu hoả trong trường hợp cần thiết. Năm 1962, 11 nước kỹ nghệ hội viên ký giao kèo GAB
(general arrangements to borrow - accords généraux d’emprunt) cho Quỹ vay 23 tỷ dollar
Mỹ. Năm 1997, 25 nước kỹ nghệ hội viên thoả thuận qua giao kèo NAB (new arrangements
to borrow - nouveaux accords d’emprunt) cho quỹ mượn 47 tỷ dollar Mỹ. Saudi Arabia là
nước dầu hoả cho Quỹ mượn nhiều nhất.
Từ năm 1981, nước này đã cho mượn trên 10 tỷ dollar Mỹ, hiện nay saün sàng cho mượn 2
tỷ dollar Mỹ. Điều này giải thích tại sao Saudi Arabia có một giám đốc trong ban diều hành
IMF.
d/ Bán vàng


Tính tới ngày 30/04/2000, số lượng vàng dự trữ của IMF có vào khoảng 103 triệu ounces
(3.217 tấn) và được định theo giá thị trường vào khoảng 30 tỷ dollar Mỹ. Số vàng này có do
các hội viên đóng góp như đã đề cập ở trên, hoặc do các nước hội viên trả tiền lời, hoặc do
Quỹ mua của các nước hội viên.
Vai trò của vàng trong Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar là yếu tố nền tảng gây tin tưởng vào
giá trị tiền của các nước hội viên. Trái lại, vàng khơng cịn đóng một vai trị nào trong hệ
thống tiền tệ hiện nay. Nhưng Quỹ vẫn giữ và coi vàng một mặt như bảo chứng cho giá trị
của chính cơ quan mình và mặt khác để đề phịng những trường hợp khẩn cấp.
Tuy nhiên, trong thời gian 1976 - 1980, Quỹ đã thoả thuận với các nước hội viên để giảm
bớt số vàng dự trữ. Quỹ đã bán quãng 50 triệu ounces vàng. Một nửa trả lại cho các nước

hội viên theo giá 1 ounce = 35 SDR, nửa còn lại được bán theo giá thị trường và là nguồn
tài chánh dành để giúp các nước hội viên nghèo.

1.3 Mục đích chính của IMF











Các mục tiêu của IMF:
Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm
cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ
quốc tế.
Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và
nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập
thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó
là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế.
Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao
dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh.
Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành
viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của
mậu dịch quốc tế.
Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực
dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân

đối trong cán cân thanh toán quốc tế.
Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của
các nước thành viên.

2. Chức năng cơ bản của IMF
* Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên
Theo quy định của văn bản hiệp định đầu, các nước thành viên đều áp dụng hệ thống ngang
giá tiền tệ và TGHÐ cố định.
''Tất cả các thành viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra trên lãnh thổ nước mình những
hoạt động hối đối giữa các đồng tiền của mình với đồng tiền của những nước thành viên


nào tôn trọng một sự cách biệt không quá 1% chế độ đồng giá''. Do sức ép của Mỹ, Hội
nghị Bretton Woods phải chấp nhận 1 tỷ lệ vàng USD là 35 USD – 1 ounce vàng.
Cuối 1947 Bộ Trưởng Tài chính Mỹ, ơng Johw Suyder đã tun bố với Tổng giám đốc của
IMF là Mỹ bán và mua vàng bằng USD với giá 35 USD/ ounce cho tất cả các NHTW nào
có yêu cầu.
Ðiều này biến hệ thống Bretton Woods thành một hệ thống bản vị USD.
Để giải quyết vấn đề dự trữ của quỹ tháng 6-1967, Hội đồng Thống đốc IMF đã nhóm họp ở
Rio de Janeiro, thủ đô Brazil và đã chấp nhận nguyên tắc tạo ra một loại dự trữ quốc tế mới
là SDR (Special drawing right).

Dự trữ SDR được thể hiện dưới hình thức bút tệ, được ghi trong tài khoản đặc biệt của mỗi
nước thành viên và có thể sử đụng qua chuyển khoản.
Giá trị của mỗi đơn vị SDR lúc ban đầu được ấn định là 0,888671 gram vàng, tương đương
với hàm lượng vàng của 1 USD. Ðến năm 1973 vì có sự thả nổi hối suất của USD, giá trị
của SDR được quy định căn cứ vào giá trị tổng hợp của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng
theo tầm quan trọng của mỗi đơn vị tiền tệ thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc
gia trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới
Năm 1981, giá trị tổng hợp đó chỉ cịn căn cứ vào 5 đồng tiền của 5 nước có khối lượng xuất

khẩu lớn nhất thế giới từ 1975-1979 là USD 40; FRF 11%; GDB 11%; JPY 17%; DEM
21%; Cứ 5 năm duyệt lại một lần: một lần vào đầu năm 1986, một lần vào đầu năm 1991.
Trong hệ thống này chỉ có dollar Mỹ có tính cách có thể trao đổi trực tiếp với vàng, những
tiền khác muốn đổi ra vàng phải đổi ra dollar Mỹ trước
Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar, dưới sự kiểm soát và điều hành của IMF, đã hoạt động
trong những thập niên sau Thế Chiến Thứ Hai, tuy nhiên sau hơn hai thập kỷ hình thành, hệ
thống này đã bộc lộ nhiều yếu kém.
Ðến đầu thập kỷ 70 khủng hoảng kinh tế đã các thành viên của quỹ làm cho nó khơng thể
duy trì hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia.
Hệ thống Bretton Woods sụp đổ hoàn toàn vào năm 1973 khi Tổng thống Mỹ Nixon tuyên
bố ngừng chuyển đổi USD ra vàng. Với lý do chính là Mỹ khơng cịn đủ khả năng về dự trữ
vàng để tiếp tục quy đổi với USD theo tỷ giá 35 USD/ounce vàng.
Ðể đáp ứng được yêu cầu dự trữ ổn định quỹ tiền tệ quốc tế trong hoàn cảnh mới của nền
kinh tế quốc dân, IMF yêu cầu các nước thành viên thực hiện bảy nghĩa vụ cũ là:
- Thi hành chính sách tự do mua bán vàng trên thị trường.
- Tạo điều kiện cho đồng tiền của các nước được chuyển đổi tự do.
- Loại bỏ dần các hành chế về hối đoái.


- Tôn trọng quy định của các thành viên khác về hối đoái phù hợp với quy định của
IMF.
- Cung cấp thơng tin tài chính cho IMF
- Hợp tác với các nước khác việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về tiền tệ
.
- Duy trì một tỷ giá hối đoái cố định .
Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ 1978 đến nay được gọi là hệ thống tỷ giá thả nổi có
quản lý (hệ thống Jamaica).
Nhiều cường quốc ấn định tỷ giá của mình theo cơ chế thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này
IMF có vai trị lớn và thường kiến nghị, tác động đến chính sách quản lý tỷ giá của các nước
thơng qua các điều kiện tín dụng.

Tuy tác động, quản lý hệ thống tiền tệ quốc tế theo nhiều cách gián tiếp nhưng IMF đã thực
hiện chức năng duy trì ổn định hệ thống tỷ giá hối đối cố định tương đối l cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chức năng này còn được hỗ trợ bởi các hoạt động thực hiện các
chức năng khác.
* Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của các
nước thành viên
Theo Hiệp định thành lập thì mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là “thực hiện sự
giám sát chặt chẽ tỷ giá hối đoái của các nước thành viên''.
Ðồng thời IMF có quyền áp đụng các nguyên tắc cụ thể để hướng dẫn các thành viên trên cơ
sở tôn trọng chính sách của họ.
Ðể thực hiện nhiệm vụ này IMF kiểm tra các vấn đề tiền tệ quốc tế và phân tích các khía
cạnh của chính sách đó có thể tạo ra tác động đến hệ thống TGHÐ.
Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của việc giám sát kịp thời và hiệu quả đã tăng
lên do nhiều biến chuyển cơ bản trong nền kinh tế toàn cầu : tăng trưởng nhanh chóng của
thị trường vốn tư nhân, hội nhập khu vực và thế giới, gia tăng, chỉnh đốn tài khoản vãng lai
và cải cách kinh tế theo hướng thị trường của nhiều nước. Cuộc khủng hoảng Mêhicô năm
1995 và khủng hoảng tài chính Ðơng Á 7/1997 cho thấy sự cần thiết và vai trò giám sát
quan trọng của IMF. Năng l995, IMF đẩy mạnh chức năng giám sát, nhấn mạnh vào việc
các thành viên cung cấp đầy đủ, chính xác các số liệu.
Theo Ðiều 4 về quan hệ hợp tác giữa IMF và thành viên, IMF được phép xem xét một cách
có hệ thống sự phát triển kinh tế và chính sách kinh tế của thành viên, đánh giá tác động của
các chính sách đối với tỷ giá hối đối và cán cân thanh tốn
* Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán
Ðể thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế IMF đã
cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng cho các nước có khó khăn tạm thời về
cán cân thanh toán.


IMF chỉ cho vay tiền những nước nào gặp khó khăn về vấn đề thanh toán trong cán cân chi
tiêu ngoại địa, nghĩa là số tiền ngoại tệ có từ xuất khẩu khơng đủ để thanh tốn những hàng

hố nhập khẩu.
Nguồn ngoại tệ của một nước có là do từ những xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, từ những
chi tiệu tại chỗ của những du khách ngoại quốc, từ những đầu tư của các hãng xưởng ngoại
quốc, từ những giúp đỡ tài chánh của các nước giầu cho những nước nghèo.
Những nước gặp khó khăn như trên có thể rút ra ở IMF 25% phần mình đã đóng góp trả
bằng vàng hay tiền những nước lớn.
Nếu không đủ, Quỹ có thể cho vay một số tiền tương đương với 75% phần đóng góp, chia
ra làm ba lần, mỗi năm có thể rút một lần. Nếu lần rút 25% là tiền nước đã đóng góp
(reserve tranche - tranche de réserve) thì 75% sau là tiền Quỹ cho mượn (credit tranche tranche de crédit). Khi Quỹ đồng ý giúp 75%, điều này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một hay
nhiều nước hội viên khác có nền kinh tế vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền nước đang cần
trợ giúp. Nước mượn tiền sẽ phải trả lại tiền đã đổi để các nước khác mà tiền đã bị đổi có
thể xử dụng để vay Quỹ trong trường hợp cần thiết. Đây là nguyên tắc nền tảng và cũng là
điều giải thích tại sao, mặc dù như đã nói Quỹ có khoảng 300 tỷ dollar Mỹ tiền các nước hội
viên đóng góp, nhưng 75% là tiền quốc gia của các nước hội viên cho nên Quỹ không thể
cho vay một lúc cả 300 tỷ dollar.
Theo phương thức làm việc của IMF, cách giúp đỡ được chia làm hai loại :
 Giúp đỡ ngắn hạn (Stand-by Arrangements - Accords de Confirmation) nhằm giúp
đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu tạm thời. Thời gian mượn kéo dài từ 12
tháng đến 18 tháng. Mỗi tam cá nguyệt nước mượn có thể rút một phần. Hạn trả
kéo dài từ 3 đến 5 năm.
 Giúp đỡ dài hạn (Extended Fund Facility - Mécanisme Élargi de Crédit) nhằm giúp
đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu mà nguồn gốc xuất phát từ những vấn đề
liên quan tới hạ tầng cơ sở kinh tế của nước. Hạn trả kéo dài từ 4 đến 10 năm.
Nếu lần rút đầu tiên 25% được Quỹ chấp thuận dễ dàng thì những lần rút sau Quỹ địi hỏi
nhiều điều kiện khắt khe. IMF chỉ cho mượn với điều kiện là nước hội viên phải có một
chương trình chi tiết về tài chánh và kinh tế để giải quyết những khó khăn về cán cân chi
tiêu ngoại địa. Quỹ chia tiền cho mượn ra làm nhiều phần cốt ý để kiểm soát sự hữu hiệu
của những biện pháp phải thực hiện. Đó là nguyên tắc thận trọng để tránh việc một nước
mượn được tiền và xử dụng một cách hoang phí hay ít hữu hiệu.
IMF quan tâm đặc biệt đến chính sách tiền tệ, đặc biệt là hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Bởi vì số lượng tiền tệ lưu hành nhiều hay ít là do những chính sách của ngân hàng trung
ương qua việc kiểm soát hệ thống ngân hàng trong nước. Số lượng cho vay của các ngân
hàng quá lớn sẽ khuyến khích nhập cảng gia tăng. Việc kiểm soát và giới hạn hoạt động cho


vay của hệ thống ngân hàng là điều Quỹ bắt nước cần mượn phải thực hiện. IMF thường đòi
nước phải hạ tỷ giá hối đoái để giới hạn phần nhập khẩu và để phần xuất khẩu gia tăng, vì
sự cạnh tranh sẽ dễ dàng hơn do giá rẻ hơn.
Quỹ cũng khuyến khích nước phải giảm những chi tiêu trong ngân sách quốc gia : ít cơng
chức hơn, giảm đầu tư công cộng, giới hạn việc giúp các doanh nghiệp quốc doanh nếu
khơng muốn nói là phải tư hữu hố, xố bỏ những hạn chế về giá cả. và ngay cả đường lối
cứng rắn chống lại tệ nạn tham nhũng hối lộ, nguồn gốc của nhiều cản trở và hoang phí cho
sự phát triển kinh tế.
Mặt khác, các nước hội viên có thể dùng quyền SDR của mình nếu cần thiết. Quỹ khơng địi
hỏi điều kiện để một nước có thể dùng quyền này. Nếu một nước hội viên cần ngoại tệ, Quỹ
sẽ chỉ định một nước có sức mạnh kinh tế và tài chánh đổi những phần SDR lấy ngoại tệ.
Khi nước gặp khó khăn tìm lại được tình trạng thăng bằng kinh tế, số ngoại tệ đã mượn sẽ
được trả lại cho nước đã cho mượn. SDR cũng có thể được thanh toán trực tiếp giữa các
ngân hàng trung ương của một số nước hội viên mà không cần sự can thiệp của Quỹ.
Ngoài những cách thức cho vay mượn trên, IMF cũng đặt ra một số phương thức cho vay
tuỳ theo tình trạng khẩn cấp của những khó khăn tài chánh mà các nước hội viên có thể phải
đối đầu.
Để giúp nước Mexico năm 1995 và các nước Đông Á Châu năm 1997, Quỹ thiết lập một
loại cho vay thêm (SRF : supplemental reserve facility - FRS : facilité de réserve
supplémentaire) hạn trả từ 1 đến 2 năm.
Từ năm 1999, để phòng bị trường hợp một hay nhiều nước hội viên gặp khó khăn trầm
trọng có thể gây ảnh hưởng giây chuyền tạo ra khủng hoảng kinh tế thế giới, Quỹ thiết lập
một loại cho vay phụ khác (CCL : contingent credit lines - LCP : lignes de crédit
préventives), hạn trả cũng tương tự như loại cho vay trên.
Cán cân chi tiêu ngoại địa có thể bị hao hụt đột ngột bởi thiên tai như động đất, ngập lụt,

hạn hán hay chiến tranh. Sự giúp đỡ của Quỹ đi song song với những cứu trợ của những cơ
quan quốc tế khác, của các nước phát triển. Nhưng mục đích của Quỹ ln nhắm tới sự tái
thiết hạ tầng kinh tế, đặc biệt trong lãnh vực tổ chức hành chánh quốc gia.
Những cách thức cho vay của Quỹ đều kèm theo một phân lời (từ ngữ được Quỹ dùng gọi là
commission) cần thiết để trả tiền lời cho những nước hội viên mà Quỹ đã chỉ định đóng góp
tiền cho vay và để cho cơ quan hành chánh của Quỹ có thể hoạt động.
Điểm cuối cùng cần đề cập là hoạt động của IMF để giúp đỡ các nước hội viên nghèo. Mục
đích và tổ chức của IMF dành một chỗ đứng ít quan trọng cho các nước đang phát triển ;
hoặc vì phần đóng góp của các nước này rất ít trong các nguồn tài chánh của Quỹ như đã đề


cập ở trên ; hoặc vì ảnh hưởng của các nước này trong những trao đổi thương mại, tài chánh
quốc tế ít tầm quan trọng.
Cho tới cuối thập niên 70, chính sách cho vay của Quỹ kèm theo những điều kiện địi nước
gặp khó khăn phải thực hiện nhấn mạnh đến khía cạnh giảm tiêu thụ trong nước để tìm lại
được mức thăng bằng của cán cân chi tiêu với ngoại địa
Từ thập niên 80, dưới sự thúc đẩy của ông giám đốc chính Jacques de Larosière, chính sách
của IMF đối với các nước hội viên nghèo nhấn mạnh hơn đến những yếu tố làm cho kinh tế
nội địa phát triển như các nghành có thể dễ dàng xuất khẩu, những nghành có thể thay thế
nhập khẩu.
Năm 1999, việc chống lại nạn nghèo trong các nước hội viên nghèo trở thành một trong
những mục tiêu chính thức của IMF. Hiện nay Quỹ cơng nhận có 80 nước hội viên nghèo.
Phần lớn nằm ở Phi châu, Mỹ châu La Tinh và Á châu. Trong vùng Đơng và Đơng Nam Á
châu có Cam bốt, Lào, Việt Nam và Trung Quốc. Quỹ thay thế loại vay kể trên bằng một
loại vay mới gọi là PRGF - FRPC (poverty reduction and growth facility - facilité pour la
réduction de la pauvreté et la croissance), hạn trả từ 5 năm đến 10 năm với phân lời rất thấp
(0.5%).
Để được Quỹ cho mượn, nước muốn được trợ giúp phải thiết lập một chương trình chống
nạn nghèo chi tiết với sự tham gia không những của những cơ quan chính phủ, mà cịn cả
những cơ quan xã hội độc lập hoạt động giúp những người nghèo. Tính cách hữu hiệu và cụ

thể của những chính sách đề nghị là yếu tố nền tảng để Quỹ quyết định giúp. IMF cộng tác
với Ngân Hàng Phát Triển Thế Giới (World Bank - Banque Mondiale) trong lãnh vực này.
Với những hoạt động tài chánh kể trên, tổng số tiền IMF cho các nước hội viên mượn tăng
rất nhanh. Năm 1965 quãng 4 tỷ SDR, năm 1980 quãng 12 tỷ SDR, năm 1985 gần 40 tỷ
SDR và năm 1998 hơn 55 tỷ SDR. Từ khi Quỹ được thành lập, những nước hội viên mượn
nhiều nhất là Mexico 17 tỷ SDR, Nga hơn 14 tỷ SDR, Nam Hàn hơn 14 tỷ SDR, Argentina
10 tỷ SDR, Ấn Độ gần 10 tỷ SDR, Anh gần 10 tỷ SDR, Brazil 5 tỷ SDR, Nam Dương 4.5 tỷ
SDR, Phi Luật Tân hơn 4 tỷ SDR và Pakistan 4 tỷ SDR.
* Giúp đỡ về mặt kỹ thuật
Trong thập niên 60, nhiều nước Phi châu và Á châu trở thành độc lập đã nhờ IMF giúp đỡ
để thiết lập hạ tầng tài chánh quốc gia như ngân hàng trung ương, bộ kinh tế tài chánh. Sự
giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng được mở rộng không những về số nước được giúp đỡ,
mà cịn trong chương trình huấn luyện kỹ thuật như phương cách thiết lập chính sách tiền tệ,
ngân sách quốc gia, kiểm soát hệ thống ngân hàng, kế toán quốc gia, thống kê. Trong thập
niên 90, nhiều nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường đã được
Quỹ giúp đỡ trong lãnh vực này. Kinh nghiệm của Quỹ trong lãnh vực tài chánh từ hơn 50
năm nay, với những chuyên viên kinh tế, tài chánh, luật pháp, thống kê. gây nhiều tin tưởng


quốc tế. Những nước giầu muốn giúp đỡ những nước đang phát triển trong lãnh vực này có
thể đóng góp tài chánh và để Quỹ tổ chức cách giúp đỡ.

CHƯƠNG 2: IMF VÀ VIỆT NAM: NHỮNG BƯỚC SONG HÀNH
1/
Việt Nam trong quỹ tiền tệ quốc tế IMF
Năm 1976, CHXHCN Việt Nam chính thức kế tục quy chế hội viên của Việt Nam tại IMF
và được quyền hưởng các khoản vay từ IMF.
Quan hệ Việt Nam - IMF tiếp tục được duy trì tốt đẹp mặc dù giữa hai bên khơng cịn
chương trình vay vốn từ năm 2004. IMF vẫn rất tích cực tiến hành nhiều hoạt động tư vấn
chính sách và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam hàng năm trong các lĩnh vực ngân hàng, tài

chính, thương mại, cải cách DNNN, tiền tệ, ngoại hối, thị trường mở, thanh tra ngân hàng
(Đoàn điều IV: giám sát kinh tế vĩ mơ), cải cách thuế (tư vấn cho Bộ Tài chính), xác định
mục tiêu lạm phát, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố v.v.
Ngoài ra, hàng trăm lượt cán bộ NHNN và các bộ ngành liên quan được tạo điều kiện tham
dự các khóa đào tạo, hội thảo ngắn hạn và xuất học bổng dài hạn theo chương trình do IMF
tài trợ tại Singapore, Áo, Mỹ.
Hàng năm theo định kỳ, IMF thường xun cử hai đồn cơng tác: đồn Điều IV và đồn
cơng tác cập nhật đánh giá vào Việt Nam. Ngồi ra, đã có ba Phó Tổng Giám đốc của IMF
đã vào thăm và làm việc tại Việt Nam bao gồm Phó Tổng Giám đốc thứ nhất của IMF ơng
John Lipsky, ơng Takatoshi Kato Ngun Phó Tổng Giám đốc của IMF, ơng Naoyuki
Shinohara hiện là Phó Tổng Giám đốc của IMF đã nhiều lần vào Việt Nam tham dự các Hội
nghị Quốc tế cấp cao tại Việt nam.
Đoàn cấp cao Việt Nam hàng năm cũng tích cực tham gia Hội nghị Thường niên IMF/WB
để trao đổi và cập nhật tình hình kinh tế thế giới.
Tăng vốn cổ phần đặc biệt năm 2008: vốn cổ phần của Việt Nam tại IMF đã tăng thêm
131,6 triệu SDR từ 329,1 triệu SDR lên 460,7 triệu SDR. Việc góp vốn của Việt Nam đã
hồn tất và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 27/4/2011.


Về tăng vốn cổ phần, trong đợt rà soát vốn cổ phần tổng thể lần 14 của IMF, vốn cổ phần
của Việt Nam tại IMF sẽ tiếp tục tăng từ 0,4607 tỷ SDR lên 1,1531 tỷ SDR (tăng thêm 692,4
triệu SDR). Trong đợt tăng vốn lần này, số cổ phần của Việt Nam tăng khoảng 150% so với
mức tăng chung 100%, do ngoài mức tăng 100% cổ phần như các nước khác, tỷ lệ cổ phần
của Việt Nam cũng được tăng từ 0,193% lên 0,242%. Điều này phản ánh thành tựu kinh tế
và vị thế tiếng nói ngày càng tăng của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế.
Trong thời gian qua, IMF đã cử nhiều Đoàn HTKT vào Việt Nam giúp đánh giá, tư vấn về
nhiều lĩnh vực chính sách, nghiệp vụ chun mơn như CSTT, CSTK, chính sách thuế, cán
cân thanh tốn, xây dựng dự thảo luật phịng chống rửa tiền và tổ chức nhiều khóa đào tạo;
tổ chức nhiều buổi tọa đàm đối thoại chính sách với các cơ quan chức năng.
IMF cũng đã có nhiều ý kiến tư vấn, khuyến nghị chính sách cho Chính phủ và các cơ quan

Việt Nam trong việc bình ổn kinh tế vĩ mô, đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
đề ra.
Hiện nay cổ phần của Việt Nam tại IMF bằng 460,7 triệu SDR, chiếm 0,193% tổng khối
lượng cổ phần và có tỷ lệ phiếu bầu là 0,212% tổng số quyền bỏ phiếu. Việt Nam thuộc
nhóm Đơng Nam Á với 13 nước thành viên.
 Việt Nam
Hội viên từ năm 1956
Phần đóng góp : 460,7 triệu SDR
SDR : 48 triệu
Những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :
Loại
Ngày chấp Số cam kết
mượn
nhận
ESAF

11/11/1994

535

STF

06/10/1993

34

SBA

06/10/1993


157

PRGF

13/04/2001

368

Kỳ hạn phải
trả

2000

2001

2002

2003

2004

Tiền mượn

8

34

52

52


49

Tiền lời

1.4

4

3.6

3

3

2/ Hoạt động của IMF dành cho Việt Nam trong các giai đoạn
a) Trong giai đoạn 1976-1983
Ngân hàng Nhà nước đã tích cực chủ động làm việc với IMF để vay khoảng
200 triệu Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) theo các điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời
hạn giúp Việt Nam khắc phục các khó khăn trong cán cân thanh toán.
b) Trong giai đoạn 1985-1993


Quan hệ giữa Việt Nam với IMF bước vào một thời kỳ vơ cùng khó khăn khi IMF đình chỉ
quyền vay vốn của Việt Nam do các khoản nợ quá hạn. Trong thời gian này, dưới sự chỉ đạo
của Chính phủ, NHNN đã phối hợp các bộ, ngành liên quan kiên trì các nỗ lực ngoại giao để
duy trì quan hệ hội viên tại IMF, tạo tiền đề cho việc nối lại quan hệ tín dụng sau này. Trợ
giúp của IMF được thực hiện thơng qua các đồn cơng tác về kinh tế vĩ mô và hỗ trợ kỹ
thuật. Ðến tháng 10-1993, với nỗ lực to lớn và quyết tâm thực hiện cải cách của Chính phủ
Việt Nam cùng với sự vận động dàn xếp tài chính thiện chí của các nhà tài trợ thuộc Câu lạc

bộ Paris, quan hệ tín dụng giữa IMF và Việt Nam chính thức được nối lại.
Ðây là kết quả của quá trình đàm phán kiên trì của Chính phủ ta với các chính phủ và một
số ngân hàng nước ngoài để huy động nguồn tài trợ cho việc trả hết các khoản nợ quá hạn.
c) Trong giai đoạn 1993-2004
IMF đã cung cấp cho Việt nam 4 khoản vay với tổng vốn cam kết 1.094 triệu
USD, trong đó, chương trình vay cuối cùng là Tăng trưởng và Giảm nghèo (PRGF)
3 năm. Chương trình này được ký kết từ tháng 4/2001 với tổng số vốn cam kết
khoảng 368 triệu USD. Việt Nam đã rút vốn 3 đợt với tổng số tiền là 158 triệu
USD.
Từ thời điểm đó đến tháng 4/2004 khi chương trình hết hạn, hai bên: IMF và Chính phủ Việt
Nam khơng có đợt giải ngân nào được thực hiện do 2 bên không đạt được sự nhất trí về
chính sách an tồn mà IMF đưa ra làm điều kiện cho việc
giải ngân. Sau nhiều lần kiên trì đàm phán nhưng khơng đi đến một giải pháp trung hồ
mang tính thoả hiệp, tháng 4/2004, IMF và Việt Nam đã thống nhất sẽ để chương trình
PRGF kết thúc mà không tiếp tục gia hạn.
Mặc dù chương trình này kết thúc, nhưng IMF cũng như các nhà tài trợ quốc tế khác vẫn
công nhận những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội Việt Nam đạt được trong những năm
vừa qua.
Đồng thời trong năm 2004, IMF tiếp tục trợ giúp kỹ thuật cho các Bộ, ngành hữu quan của
Việt Nam trên các lĩnh vực: chính sách thuế, phương pháp thống kê, hoạt động tiền tệ - ngân
hàng và ngoại hối; cung cấp các khoá đào tạo ngắn và trung hạn ở nước ngoài do IMF cung
cấp kinh phí về: kinh tế vĩ mơ, quản lý rủi ro tín dụng, quản lý tài khố, an tồn hoạt động
ngân hàng, thanh tra - kiểm soát hoạt động tiền tệ, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố,... cho
cán bộ trung cao cấp của Việt Nam.
Năm 2009, IMF đã tiến hành hai đợt phân bổ SDR tổng thể và đặc biệt vào các tháng 8 và 9
nhằm giúp các nước hội viên tăng dự trữ ngoại hối , chống đỡ trước tác động của khủng
hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu (*). Qua hai đợt phân bổ này, Việt Nam được
phân bổ tổng cộng hơn 267 triệu SDR
TT
Đợt phân bổ

Giá trị
Đơn vị
Thời gian
1
Phân bổ tổng thể
243.965.055
SDR
28/08/2009
2
Phân bổ đặc biệt
23.168.946
SDR
09/09/2009


TỔNG CỘNG

267.134.001

SDR

3/ Nhận định kinh tế Việt Nam qua các giai đoạn của IMF
a) Giai đoạn năm 1976 – 2000
Trong thập niên 90, Việt Nam gặp nhiều khó khăn:
 Đầu tư ngoại quốc suy giảm. Các doanh nghiệp quốc doanh khơng có
năng suất cao hoặc thua lỗ nhiều.
 Hệ thống ngân hàng quốc doanh gặp khó khăn vì số tiền cho các
doanh nghiệp này vay không được trả lại hết.
 Các doanh nghiệp tư doanh cịn q ít và cịn q nhiều luật lệ kiểm
sốt và do đó giới hạn sự phát triển trong lãnh vực này.

 Mặt khác, kinh tế Việt Nam dựa trên hàng nhập khẩu rất nhiều.
Những nhận định về nền kinh tế Việt Nam của IMF trong giai đoạn này:
1. Việt Nam cần có những chính sách hạ tầng mới để lôi cuốn đầu tư ngoại quốc.
2. Về ngân sách, IMF gợi ý là tiền cho các doanh nghiệp quốc doanh vay cần phải được theo
dõi kỹ càng hơn để tránh tình trạng tiền cho mượn khơng được trả do nhiều khó khăn của
các doanh nghiệp này. Hệ thống xác định tỷ lệ phân lãi cần phải được sửa đổi và để cho thị
trường đóng vai trò quan trọng. Cách quản trị cần phải rõ ràng và hữu hiệu hơn : chấp nhận
việc kiểm soát độc lập, dùng những kỹ thuật bảo hiểm tiền cho mượn, áp dụng tiêu chuẩn
quốc tế để xác định giá trị thực sự của tiền cho vay.
3. Về doanh nghiệp quốc doanh, những dự định cải cách lâu dài các doanh nghiệp này cần
phải được cụ thể hoá bằng những phương thức giải quyết vấn đề nhân công bị sa thải và vấn
đề đóng cửa những doanh nghiệp khơng có năng xuất kinh tế.
4. Việt Nam nên giảm bớt những hạn chế về số lượng của nhiều loại hàng hoá và việc ký
giao kèo thương mại với Mỹ.
5. IMF ln đóng một vai trị hết sức quan trọng, giúp Chính phủ Việt Nam trong việc hoạch
định chính sách, đặc biệt là các chính sách kinh tế vĩ mơ. IMF gợi ý sự cải thiện việc thu
thập những dữ kiện thống kê kinh tế, kế toán quốc gia và cán cân chi thu. Việc cải thiện này
giúp Quỹ kiểm soát
dễ dàng hơn và là dấu chỉ sự hữu hiệu của những chương trình cải cách của chính quyền
Việt Nam
b) Giai đoạn năm 2007 đến nay:
- Năm 2007, dưới ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam cũng gặp nhiều
khó khăn
 Giá lương thực và hàng hóa tăng mạnh
 Giá bất động sản tăng đột biến


 Tài chính mở rộng, tăng trưởng tín dụng nhanh chóng xuất hiện tạo nên áp lực cho
lạm phát, thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, Việt Nam đang có triển vọng tốt, hội nhập sâu hơn
vào nền

kinh tế toàn cầu và được hưởng từ các lợi ích tiềm năng của WTO.
Những nhận định về nền kinh tế Việt Nam của IMF trong giai đoạn này
1. Việt Nam cần thắt chặt các điều kiện tiền tệ. IMF khuyến khích các cơ quan có thẩm
quyền kiểm sốt tăng trưởng tín dụng bằng cách thắt chặt các điều kiện tiền tệ và tăng
cường giám sát bảo đảm an toàn của ngân hàng, đặc biệt là của các ngân hàng cổ phần.
2. Việt Nam nên tăng tỷ giá hối đoái linh hoạt. Trong ngắn hạn, tỷ giá hối đối linh hoạt sẽ
khơng chỉ giúp giảm áp lực lạm phát. Trong dài hạn, sẽ tạo ra một động lực để quản lý rủi ro
tỷ giá có hiệu quả, đào sâu hơn nữa thị trường tài chính, và giúp tăng cường khả năng phục
hồi của Việt Nam
trước những cú sốc bên ngoài
3.Việt Nam cần thực hiện chính sách tài khóa thận trọng. Theo đuổi một chính sách tài khóa
mở rộng có thể làm trầm trọng thêm lạm phát và làm suy yếu các triển vọng tăng trưởng cao
và bền vững. Để tăng cường tính bền vững tài chính trung hạn, IMF nhấn mạnh sự cần thiết
thúc đẩy doanh thu phi dầu mỏ. Trong giai đoạn này kế hoạch cải cách thuế nên được thiết
kkệ thận trọng hơn nữa và quản lý thuế cần phải tăng cường. Các cơ quan có thẩm quyền
nên vay vốn bên ngồi thận trọng. Các biện pháp trên cùng doanh thu dầu sẽ tạo chỗ cho
chính sách tài hóa phản chu kì mà khơng đe dọa ổn định tài chính ài hạn và nợ
4. Việt Nam nên đẩy mạnh cải cách Ngân hàng. Thành lập một lộ trình tồn diện để cải cách
khu vực Ngân hàng kịp tời triển khai thực hiện kế hoạch này sẽ giúp phát triển ngành Ngân
hàng và bảo bvệ sự ổn định của nó. Việc cổ phần hóa teo kế hoạch của Ngân hàng thtương
mại nhà nước và tăng cường định hướng thương mại của Việt Nam là những bước quan
trọng trong quá trình này. IMF cũng khuyến khích các cơ quan có thẩm quyền đưa ra một
khuôn khổ pháp lý và giám sát hỗ trợ một hệ thống dữ liệu tốt.
5. Việt Nam cần mở rộng vai trò của khu vực tư nhân, chiếm hơn 60% của GDP là động cơ
cho tăng trường kinh tế nhanh chóng của Việt Nam và tạo việc làm. Các cơ quan có thẩm
quyền tham gia nhiều hơn cùng các nhà đầu tư chiến lược nước ngồi. Cái thiện mơi trường
kinh doanh và quản trị, tăng cường nguồn nhân lực cũng rất quan trọng để tiếp tục phát triển
khu vực tư nhân năng động
IMF cũng cho rằng những thách thức lớn vẫn còn đặt ra cho Việt Nam trong thời gian sắp
tới

4/ Hợp tác của IMF – Việt Nam
Trong những năm gần đây Việt Nam và IMF cũng đẩy mạnh các quan hệ hợp tác với nhau.
Cụ thể:
- Hằng năm, IMF cử các đồn cơng tác định kì đến Việt Nam cập nhật tình hình kinh
tế vĩ mơ. Cung cấp nhiều hỗ trợ kĩ thuật cho các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường
mở, thanh tra ngân hàng, cải cách thuế, xác định mục tiêu lạm phát, tính tốn lạm


phát cơ bản…Các cán bộ NHNN và các ngành liên quan được tạo điều kiện tham dự
các khóa đào tạo, hội thảo ngắn hạn và suất học bổng dài hạn theo chương trình do
IMF tài trợ
- 5/5/2011, Việt Nam tiếp đón ngài Naoyuki Shinohara, Phó tổng giám đốc quỹ tiền tệ
quốc tế IMF nhân dịp ông tham dự Hội nghị thường niên Hội đồng thống đốc Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB) lần thứ 44.
- 21/2/2014, tại trụ sở Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã tiếp
và làm việc với Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ quốc tế tại Việt Nam (IMF) - ông Sanjay
Kalra. Hai bên đã trao đổi những thông tin thiết thực về hợp tác phát triển giữa IMF
và Việt Nam.
- Theo thơng lệ hàng năm, NHNN dự kiến sẽ cử Đồn tham dự Hội nghị thường niên
của Quỹ Tiền tệ Quốc tế/Ngân hàng Thế giới (IMF/WB) năm 2014 tổ chức từ ngày 8
- 12/10/2014 tại Washington D.C., Hoa Kỳ.
- Theo thông lệ hàng năm, NHNN Việt Nam ln cử Đồn tham dự Hội nghị thường
niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế/Ngân hàng Thế giới (IMF/WB) .
 Việt Nam luôn đành giá cao vai trò của IMF trong thúc đẩy hợp tác tiền tệ quốc tế, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước thành viên trong đó có Việt Nam về tư vấn chính sách
kinh tế hỗ trợ kĩ thuật, hỗ trợ tài chính cũng như những đóng góp quan trọng của các vị lãnh
đạo IMF cho việc tăng cường hợp tác giữa IMF và Việt Nam nói riêng và giữa Việt Nam và
cộng đồng tiền tệ quốc tế nói chung. Việt Nam mong muốn nhận được sự giúp đỡ có hiệu
quả hơn nửa của IMF và các thể chế tài chính quốc tế nhằm thực hiện và hồn thành mục
tiêu kinh tế xã hội đề ra góp phần sự ổn định của nền kinh tế tài chính khu vực và thế giới


CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM KHI HỢP TÁC VỚI IMF
 Sự phối hợ chặt chẽ giữa IMF với các cán bộ, ngành chức năng của Việt Nam nên
các đánh giá hằng năm của IMF về kinh tế Việt Nam tương đối chính xác, khá sát với
thực tế chính điều này góp phần tích cực trong cơng tác chỉ đạo và điều hành kinh tế
vĩ mơ của Chính phủ Việt nam
 IMF giúp Việt Nam nhựng hoạt động tư vấn về chính sách trước việc ứng phó với
hậu q của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu
 Tham gia IMF, Việt Nam theo đuổi những chính sách kinh tế mà không cần thiết áp
dụng hạn chế về thanh toán hoặc chuyển đổi đối với các giao dịch quốc tế vãng lai,
góp phần làm cho hệ thống thanh tốn đa phương hồn tồn khơng có bất kì hạn chế
nào.
 Là thành viên của IMF, là một nước đang phát triển, Việt Nam có quyền tiếp cận với
các phương thức choh vay của IMF. Tong trường hợp cần thiết có thể sử dụng nguồn
vốn này cho dự trữ ngoại hối của mình cũng như hỗ trợ cán cân vãng lai, cán cân
vãng lai, cán cân thương mại


CHƯƠNG 3: BÁO CÁO “TRIỂN VỌNG KINH TẾ” CỦA IMF
TRONG NĂM 2014 VÀ DỰ ĐOÁN NĂM 2015
1.

Năm 2014

 THẾ GIỚI 
Năm 2014: Nguồn World Economy Outlook. 2014
Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF nhận định, nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng
trưởng 3,3% trong năm nay, thấp hơn 0,1 điểm phần trăm so với mức dự báo mà định chế
tài chính này đưa ra hồi tháng 7.
Định chế này cũng dự báo, nền kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 3,8% trong năm tới, thấp hơn

0,2 điểm phần trăm so với lần dự báo trước. Như vậy, đây là lần lần thứ ba trong năm nay
IMF hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2014 và 2015.
Báo cáo cũng đề cập đến yếu tố suy giảm tăng trưởng của khu vực sử dụng đồng tiền chung
châu Âu (Eurozone). Theo đó, IMF cho rằng Eurozone khó có thể đạt mức tăng trưởng dự
báo 0,8% trong năm 2014 và 1,3% trong năm 2015.


Dưới đây là biểu đồ GDP năm 2014 của RBC Capital Market lấy số liệu từ Quỹ Tiền tệ Thế
giới (IMF).


Giá dầu thô thế giới sụt giảm mạnh
xuống mức thấp nhất trong gần 5 năm
qua, có thời điểm xuống dưới 60
USD/thùng đối với dầu Brent Biển Bắc
và chưa tới 55 USD/thùng đối với dầu
ngọt nhẹ New York. Giá dầu sụt giảm đã
tác động mạnh tới nhiều nền kinh tế, đặc
biệt là các nước phụ thuộc vào xuất khẩu
dầu mỏ.

Trong khi nền kinh tế lớn nhất là Mỹ trở thành “điểm sáng” với GDP có thể tăng 2,3% trong
năm nay và 3,1% trong năm 2015 thì các nền kinh tế phát triển khác như Eurozone và Nhật
Bản chỉ phục hồi “ì ạch” (Eurozone tăng lần lượt 0,8% và 1,3%; Nhật Bản tăng 0,9% và
0,8% trong năm 2014 và 2015).


Do vậy, các nền kinh tế phát
triển chỉ tăng 1,8% trong năm
nay và 2,3% trong năm 2015,

thấp hơn mức dự báo 2,4% đưa
ra hồi tháng 7.

Mức tăng trưởng không đều cũng được dự báo ở nhóm các nền kinh tế mới nổi. Trung Quốc
được giữ nguyên mức dự báo tăng trưởng 7,4% năm 2014, trong khi khu vực Mỹ Latinh và
Caribê có thể chỉ tăng trưởng 1,3% trong năm nay. Brazil - nền kinh tế lớn nhất Mỹ Latinh được dự báo có tốc độ tăng trưởng thấp nhất, chỉ 0,3% trong năm 2014.
Khu vực ASEAN-5, gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam được
nâng dự báo năm nay thêm 0,1%, lên 4,7%. Tuy nhiên, tốc độ năm sau lại giảm từ 5,6%
xuống 5,4%.

Cuộc khủng hoảng Ukraine đã tác động tiêu cực tới kinh tế khu vực Đông Âu.


Trong khi kinh tế Nga dự báo chỉ tăng 0,2%, một phần do các biện pháp trừng phạt của
phương Tây và căng thẳng với Ukraine, thì GDP của Ukraine trong năm 2014 dự báo sẽ
tăng trưởng âm 6,5%, cao hơn mức dự báo là âm 5% đưa ra trước đó.

Trước triển vọng kinh tế tồn cầu khơng mấy
sáng sủa, báo cáo của IMF khuyến cáo các nền kinh tế lớn như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản
cần tiếp tục duy trì tỷ lệ lãi suất thấp để khuyến khích vay mượn, chi tiêu và tăng trưởng.
Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng cần cân nhắc chương trình mua trái phiếu chính phủ
khi cần thiết để tránh tình trạng giảm phát.
Ngồi ra, IMF cũng hối thúc các nước tiến hành một loạt cải cách mang tính cơ cấu như cải
thiện chính sách đối với thị trường lao động, ngăn chặn nạn trốn thuế và tăng đầu tư để nâng
cấp cơ sở hạ tầng.

 VIỆT NAM 




×