Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

HÃY làm rõ đặc điểm, TÍNH CHẤT của THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM từ đó, hãy PHẢN bác NHỮNG LUẬN điểm XUYÊN tạc của kẻ THÙ về QUÁ TRÌNH xây DỰNG CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 39 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Đề tài: HÃY LÀM RÕ ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT CỦA THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM. TỪ ĐÓ,
HÃY PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỂM XUYÊN TẠC CỦA KẺ
THÙ VỀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

MÃ MƠN HỌC: LLCT120314_09CLC
THỰC HIỆN: Nhóm 04_Thứ 3 _Tiết 3, 4
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Thị Phượng

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2020


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I _ NĂM HỌC: 2020- 2021
Nhóm số: 04_ Lớp thứ 3( T 3- 4)
Đề tài: Hãy làm rõ đặc điểm, tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Từ đó, hãy phản bác những luận điểm xuyên tạc của kẻ thù
về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

TỈ LỆ %
STT

HỌ VÀ TÊN SINH MÃ SỐ SINH



1

VIÊN
Nguyễn Thị Huyền
Trang

VIÊN

SĐT

HOÀN
THÀNH

19116137

0364486793

100%

2

Đặng Minh Huy

19116093

0929735638

100%


3

Nguyễn Nhật Lâm

19116101

0879205840

100%

4

Bùi Phi Hùng

19116090

0866495574

100%

5

Nguyễn Thành Nhân

19124155

0914385167

100%


Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Huyền Trang
________________________________________________________
Nhận xét của giáo viên
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Ngày….tháng 12 năm 2020
Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------------ 1
1. Lý do chọn đề tài--------------------------------------------------------------------1
2. Mục tiêu nghiên cứu---------------------------------------------------------------- 1
3. Phương pháp nghiên cứu-----------------------------------------------------------2
PHẦN NỘI DUNG----------------------------------------------------------------------3
CHƯƠNG 1: THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM--------------------------------------------------------------------------------------- 3
1.1. Khái niệm cơ bản về thời kỳ quá độ ------------------------------------------ 3
1.2. Hoàn cảnh và điều kiện ra đời của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội-- 4
1.3. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội --------5
1.4. Các loại hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội-------------------------------------7
1.5. Đăc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội--------------------------------9
1.6. Nhận thức của Đảng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội---------------------- 14
1.7. Khả năng tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội--------------------------- 20
CHƯƠNG 2: PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỂM XUYÊN TẠC CỦA KẺ
THÙ VỀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY----------------------------------------------------------------------------- 22
2.1. Thực trạng------------------------------------------------------------------------ 22
2.2. Mục đích của kẻ thù------------------------------------------------------------- 24
2.3. Quan điểm của Đảng và nhà nước về xuyên tạc, chống phá-------------- 25

2.4. Giải pháp------------------------------------------------------------------------- 29
KẾT LUẬN---------------------------------------------------------------------------- 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO---------------------------------------------------------- 35


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển
những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây,
mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao,
thử thách và vơ cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở
vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về
bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan
của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước
đi và biện pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư
tưởng đó trở thành tài sản vơ giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn
đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Để làm rõ thêm những điều trên, nhóm chúng em chọn đề tài: “ Hãy làm rõ
đặc điểm, tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ
đó, hãy phản bác những luận điểm xuyên tạc của kẻ thù về quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu và phân tích để làm sáng tỏ bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh.

1


Tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
việc phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.

3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu và Internet, tổng hợp và chọn lọc lại thơng tin, phân tích,
nghiên cứu và từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá.
Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân
tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM
1.1. Khái niệm cơ bản về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sự ra đời học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen
đã đánh dấu một bước nhận thức mới, thực sự khoa học về lịch sử nhân loại. Với
quan điểm sản xuất vật chất làcơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản
xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội, đồng thời cũng là cơ sở quyết định
sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế- xã hội;
các ơng cho rằng, xã hội lồi người đã và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao, trong đó hình thái kinh tế- xã hội CSCN là hình thái cuối
cùng, tiến bộ nhất trong lịch sử loài người. Sự chuyển tiếp giữa các hình thái

kinh tế- xã hội chính là thời kỳ quá độ.
Về xã hội của thời kỳ quá độ, C. mác cho rằng đó là xã hội vừa thốt ra từ xã
hội tư bản chủ nghĩa xã hội, chưa phát triển trên cơ sở của chính nó cịn mang
nhiều dấu vết của xã hội cũ để lại, cái xã hội mà chúng ta đang nói ở đây khơng
phải là mạng xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó mà
trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát ra từ xã hội tư bản chủ nghĩa.
Do đó, đó là một xã hội về mọi phương diện kinh tế- đạo đức- tinh thần còn
mang những dấu vết xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra.
Sau này từ thực tiễn nước Nga, V. I Lênin cho rằng Đối với những nước
chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển nào “cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
Vậy là, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản để hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các nước chưa trải
qua chủ nghĩa tư bản phát triển cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội nhưng con đường đó kéo dài; thứ hai, đối với
những nước trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
3


nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất trên thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội này sang xã hội kia thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng
sản.
1.2. Hoàn cảnh và điều kiện ra đời của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80
đầu những năm 90 thế kỷ XX, một chiến dịch cơng kích, phê phán, xuyên tạc,
bôi nhọ chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa Mác- Lênin được dấy lên trên
khắp thế giới bởi các thế lực thù địch với CNXH. Họ nhanh chóng chớp lấy cơ
hội “ngàn năm có một” này để tổng tấn cơng hịng “chơn vùi vĩnh viễn” chủ
nghĩa Mác - Lênin và CNXH.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào khủng hoảng, phong trào cách

mạng thế giới đứng trước những thử thách đầy cam go, những người hoang
mang, dao động về lý tưởng đã “khuyến cáo” Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ
chủ nghĩa Mác- Lênin, từ bỏ con đường đi lên CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn. Bởi theo họ, đến thành trì của CNXH hùng mạnh như Liên
bang Xơ Viết mà cịn khơng đứng vững, thì một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc
hậu như Việt Nam làm sao có thể đi lên CNXH được.
Trong giai đoạn bấy giờ của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình
độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay
gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của
lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới CNXH. Trong xu thế vận động chung đó
của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu
sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
4


TKQĐ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen”.
1.3. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
C.Mac cho rằng thời kì này bao gồm những cơn đau đẻ kéo dài có nghĩa là
tiến trình q độ khơng dễ dàng, nhanh chóng và có thể phải trải qua nhiều khúc
quanh; những quãng cách mới đi đến kết quả cuối cùng. Điều đó cũng được
Lênin khẳng định rằng: Trong thời kì quá độ, sự nghiệp xây dựng CNXH có khi
phải “làm lại nhiều lần” mới xong và trong thực tế diễn biến của tiến trình quá
độ trong gần 90 năm qua với những thất b ại thăng trầm cũng đã chứng minh
điều đó. Theo V.I. Lênin tất yếu xảy ra quá độ lên CNXH là do đặc điểm ra đời

phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vơ sản quy định, sự
hình thành chế độ mới có thể ví như một cơn đau đẻ kéo dài do đó nó cần phải
có thời gian, có những sự chuẩn bị và những tích luỹ vật chất cần thiết đủ cho nó
lọt lịng và phát triển.
- Thứ nhất: Cách mạng vơ sản có điểm khác biệt căn bản so với Cách mạng tư
sản. Đối với Cách mạng tư sản quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất
Tư bản chủ nghĩa đều dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên quan hệ sản
xuất Tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lò ng xã hội phong kiến; nhiệm vụ
của nó chỉ là giải quyết về mặt chính quyền Nhà nước làm kinh tế thị trường
thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
- Thứ hai: Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một
thời kì lâu dài, khơng thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực
lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian, hay
tất yếu phải có thời kì q độ lên CNXH.
Tính tất yếu của quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử. Đó là
thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia, là thời kì “cải biến
cách mạng” từ xã hội tư bản sang xã hội xã hội chủ nghĩa, là thời kì “đau đẻ”
5


kéo dài đầy đau đớn. Thời kỳ đó bắt đầu từ sau khi giai cấp cơng nhân giành
được chính quyền nhà nước, thiết lập được nền chuyên chính củ giai cấp mình
và kết thúc khi xây dựng xong cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ là tất yếu, bắt buộc đối với mọi nước đi lên chủ nghĩa xã hội là
vì:
- Xét về q trình lịch sử, lịch sử lồi người là lịch sử thay thế các hình thái
kinh tế – xã hội từ thấp đến cao: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa. Cộng sản chủ nghĩa là một hình thái kinh tế – xã hội tiếp
theo với hệ tư tưởng lý luận được Mác- ăngghen xây dựng và phát triển dựa trên

những căn cứ khoa học và căn cứ thực tiễn. Và do đặc điểm của từng hình thái
kinh tế xã hội khác nhau, cộng sản chủ nghĩa có bản chất riêng và khơng thể đi
lên ngay trong lịng một hình thái kinh tế xã hội khác. Để đi lên được cộng sản
chủ nghĩa, mọi dân tộc và quốc gia đều phải trải qua thời kỳ quá độ biến chuyển
bản chất hình thái kinh tế xã hội cũ lên hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Xét trong bối cảnh lịch sử hiện nay, chủ nghĩa xã hội là một chủ nghĩa còn
để ngỏ, chưa một dân tộc, một quốc gia nào đã trải qua và xây dựng xong chế độ
xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần phải có thời gian để phát triển, biến đổi, đi lên chủ
nghĩa xã hội.
- Xét về bản chất, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của chủ
nghĩa cộng sản. Vì vậy, nó cịn mang nhiều dấu vết, tàn tích của chế độ xã hội
cũ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời kỳ quá độ xuất hiện như một tất
yếu nhằm khắc phục được những khó khăn, tiêu cực trên lĩnh vực đạo đức, văn
hóa, tinh thần, lối sống.
Sự ra đời và xuất hiện của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội là một xu
thế tất yếu của thời đại. Thời đại ấy gắn liền với những người công nhân, đại
diện tiêu biểu cho giai cấp vô sản trong thời kỳ thoái trào của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa xã hội chỉ được bắt đầu khi giai cấp công nhân giành được chính
quyền, thiết lập được nền chuyên chính vơ sản của giai cấp mình và sử dụng nó
làm công cụ để tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – XHCN.
6


Mặc dù tuy đã giành chính quyền nhà nước thì giai cấp cơng nhân cũng
khơng thể có ngay chủ nghĩa xã hội được, mà phải trải qua một quá trình đấu
tranh, xây dựng khó khăn, lâu dài.
Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ qui định bởi chỗ: với điểm xuất
phát về kinh tế - xã hội của xã hội tiền tư bản và tư bản, sau khi giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trở thành chủ thể cầm quyền, trong xã hội đó cịn
chưa có đủ những tiền đề vật chất, văn hóa và tinh thần cần thiết để thực hiện

những chuẩn mực của xã hội xã hội chủ nghĩa. Muốn đạt được những đặc trưng
đó, phải trải qua q trình tổ chức, xây dựng để từng bước cải tạo các quan hệ
kinh tế – xã hội tư bản và tiền tư bản, phát triển lực lượng sản xuất và thay đổi
tương ứng trên lĩnh vực quan hệ sản xuất, phát triển một cơ cấu xã hội tiến bộ,
đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh phù hợp với nhu cầu giải phóng con người.
Kể từ khi ra đời hệ tư tưởng, rồi phát triển thành học thuyết, lý luận và được
nhiều quốc gia đem ra vận dụng cho cho đất nước mình, thực tiễn của việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực đã chứng minh rằng cần thiết phải có một thời
kỳ lịch sử tương đối dài thì mới có thể hịan thành được một cách triệt để những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. - Những khó khăn của q trình biến đổi giữa hai
hình thái kinh tế – xã hội cũng là một đặc điểm qui định sự cần thiết, tất yếu của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo V.I Lênin “Cần phải có một thời kỳ
quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là
việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn
bản trong mọi lĩnh vực của đời sống, và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết
liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo
kiểu tiểu tư sản và tư sản. Bởi vậy, Mác có nói đến cả một thời kỳ chun chính
vơ sản, thời kỳ q độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
1.4. Các loại hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ lên CNXH và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong
q trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
7


Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, thì có hai
con đường q độ tiến lên CNXH:
- Con đường thứ nhất là con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ
những nước tư bản phát triển ở trình độ cao.
- Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước

chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp hoặc các nước tiền tư bản.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về CM không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
CNXH của chủ nghĩa Mác – Lênin, từ đặc điểm tình hình thực tế của Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải
phóng dân tộc, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội. Như vậy, thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là quan niệm
về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể – quá độ từ một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội.

Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, nước ta có đặc
điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi
8


phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và
làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Người đặc biệt lưu ý đến mâu
thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao
của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế – xã hội quá thấp kém
của nước ta.
1.5. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộ và đặc điểm tổng quát của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại đan xen lẫn nhau giữa những
yếu tố, bộ phận của cả hai kết cấu kinh tế- xã hội cũ và mới (chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội). Đặc điểm này thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: kinh tế, xã hội, văn hóa– tinh thần.
- Trên lĩnh vực kinh tế: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều
thành phần, đấy là các thành phần: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá
thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngòai. Nền kinh tế này đồng thời bao gồm nhiều hình thức sở hữu khác

nhau về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế vừa thống nhất, vừa đấu tranh,
cạnh tranh với nhau rất phức tạp. Tùy theo từng thời điểm mà các thành phần
kinh tế có thể thay đổi vai trò, tỉ trọng trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nhưng nhìn chung, thànnh phần kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.

9


- Trên lĩnh vực xã hội: Xã hội trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp,
tầng lớp xã hội khác nhau, thậm chí đối lập nhau về lợi ích cơ bản. Mối liên hệ
giữa các giai cấp, tầng lớp khơng chỉ có liên minh, đồn kết, hữu nghị, bình
đẳng mà cịn có đấu tranh, cạnh tranh, bất bình đẳng. Cịn có sự khác biệt cơ bản
giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và chân tay,
vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội cần phải được xác lập dần dần. ở nước ta
hiện nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác
và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân vẫn
luôn là giai cấp tiên phong trong suốt quá trình biến đổi, quá độ lên chũ nghĩa xã
hội. Và nhìn chung với tất cả các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm nổi
trội nhất trên lĩnh vực xã hội là tính thống nhất, hợp tác lâu dài của các giai cấp,
các tầng lớp trong xã hội, sự thống nhất đảm bảo cho quá trình phát triển đi lên
chủ nghĩa xã hội, quyết định thành công trong sự nghiệp xây dựng chế độ chủ
nghĩa xã hội.

- Trên lĩnh vựa văn hóa tinh thần: Bên cạnh hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa đang xây dựng và ngày càng phát triển

10



thì vẫn cịn tồn tại những tàn dư cũ của nền văn hóa cũ, hệ tư tưởng cũ lạc hậu,
thậm chí phản động, gây cản trở khơng nhỏ cho con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của các dân tộc sau khi mới được giải phóng. Trong thời điểm xu thế tồn
cầu hóa đang diễn ra ở khắp mọi nơi, sự du nhập, giao lưu giũa các luồng tư
tưởng, văn hóa là điều tất yếu. Điều này mang tính hai mặt: Một là tạo điều kiện
cho sự du nhập, thống nhất về văn hóa mang tính tồn cầu, phản ánh rõ qui luật
vận động và phát triển của xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đi lên
của hình thái kinh tế – xã hội, đặc biệt là với những quốc gia đang ở trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng mặt khác, sự du nhập các luồng tư tưởng
gây tác động không nhỏ đến lối sống và sự phát triển định hướng xã hội, gây
nhiều khó khăn và phức tạp đến sự nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy cần
phải nắm rõ những yêu cầu của xã hội nảy sinh trong thời kỳ quá đội đi lên chủ
nghĩa xã hội, kế thừa có chọn lọc trong khi tham gia hội nhập hóa quốc tế.

Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu ra hai kiểu quá độ lên
chủ nghĩa xã hội:

11


+ Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và quá độ gián
tiếp từ những xã hội tiền tư bản chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa xã hội. Dù là trực
tiếp hay gián tiếp đều phải trải qua một quá trình gay go, phức tạp và lâu dài.
+ Thời gian kéo dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước là
khác nhau, tùy theo những điều kiện lịch sử, kinh tế xã hội ở mỗi nước qui định.
Ở Việt Nam, do xuất phát với một nền kinh tế cịn lại hậu, thấp kém với sản xuất
nơng nghiệp, thủ cơng nhỏ lẻ là chủ yếu lại bị kìm hãm, áp bức của chế độ thực
dân, phong kiến hàng nghìn năm nên thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ rất
khó khăn, kéo dài và gian khổ. Mác và ăngghen đã hình dung tất yếu khơng chỉ
của sự quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội mà các ơng cịn dự cảm

thấy khả năng của cả sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Sự “bỏ qua” này thực chất chỉ là sự bỏ qua hình thái chính trị chứ khơng
bỏ qua cách thức phát triển kinh tế, vận hành và củng cố xây dựng cơ sở vật chất
vững mạnh. Có 3 điều kiện để một nước có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
đi lên chủ nghĩa xã hội:
1) Chủ nghĩa tư bản bị lạc hậu, đánh bại tại quê hương của nó và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Các nước kém phát triển biết được tấm gương,
nhìn vào cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tư bản mà học theo, đồng
thời nhận được sự giúp đỡ của các nước ấy.
2) Thực hiện những bước quá độ, những bước đi trung gian mềm dẻo linh
họat, sử dụnh thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa như cây cầu nối.
3) Có đảng cộng sản vững mạnh cầm quyền lãnh đạo. Đổi mới nền sản xuất
xã hội đòi hỏi cần có thời gian mới thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt mới có thể cỏ thể gạt
bỏ hết những tàn dư, thói quen cịn sót lại của chế độ xã hội trước đó.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm của thời kỳ quá
độ chủ nghĩa xã hội qui định thực chất của nó là thời kỳ quá độ chính trị: xã hội
cịn phân chia giai cấp, cịn đấu tranh giai cấp, còn nhà nước. Nhà nước trong
thời kỳ q độ “khơng thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chế cách mạng của
12


giai cấp vô sản”. Tuy nhiên, xã hội trong thời kì quá độ đang trong quá trình
biến đổi từng bước để tạo ra những điều kiện đi tới xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa
bỏ đối kháng giai cấp, đấu tranh giai cấp và bất bình đẳng xã hội. Đấu tranh giai
cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chủ yếu diễn ra giữa một bên là
giai cấp công nhân liên minh với các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động để
đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội. Với một bên là giai cấp tư sản đã bị đánh đổ
nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và các thế lực phản động chống phá sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại với lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.

Theo V.I. Lênin: “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời
kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang
phát sinh, hay nói cách khác, giữ chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bật nhưng chưa bị
tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh này diễn ra trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội và diễn ra trong điều kiện mới (giai cấp công
nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền), nội dung mới (mà trung tâm là xây dựng
tòan diện xã hội mới, trong đó, xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ cơ bản nhất) và bằng những hình thức (cơ bản là hịa bình tổ chức xây dựng)
và phương pháp mới. Đối với những nước kém phát triển như nước ta đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn là sự đấu tranh giữa hai
con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong thời kì quá độ, đấu tranh
giai cấp là tất yếu. Tuy nhiên, cũng khơng nên cường điệu hóa nó q mức.
Cường điệu hóa đấu tranh giai cấp hoặc phủ nhận đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều dẫn đến những sai lầm. Từ đó có thể nói,
thời kỳ quá độ là thời kỳ, xét trên mọi phương diện, còn tồn tại nhiều yếu tố
khác nhau, đối lập nhau, thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy xét về
xu hướng tất yếu, các yếu tố mang tính chất xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng phát
triển, nhưng không loại trừ khả năng ở những lúc, những nơi nhất định, cái cũ
tạm thời lấn át cái mới; trong đó, tính tự phát tư bản chủ nghĩa cịn có cơ sở rộng
13


lớn. Trình độ thấp trong sự phát triển kinh tế- xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội qui định tính khó khăn, lâu dài của thời kỳ này. Trong q trình đó,
sự phát triển tiến bộ có thể đan xen với những sự suy thóai tạm thời; những tìm
tịi, thử nghiệm nhiều khi phải làm đi, làm lại mới xác định được giá trị chân
thực của nó trong q trình xây dựng xã hội. Khi đề cập tới khả năng đó.
V.I.Lênin: “Cịn chúng ta thì biết rằng việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ

nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh vơ cùng khó khăn. Nhưng chúng ta sẵn sàng
chịu đựng hàng nghìn khó khăn, thực hiện hàng nghìn lần thử, và khi chúng ta
đã thực hiện được một nghìn lần thử rồi, thì chúng ta sẽ thực hiện cái lần thử thứ
một nghìn lẻ một”. Như vậy, xét về bản chất, mục tiêu nhất quán của các chế độ
xã hội từ khi có Đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo thì thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nằm trong giai đoạn thấp của hình thái kinh tế– xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
1.6. Nhận thức của Đảng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta đã trải qua một quá trình lâu dài và khơng đơn giản. Trong q trình đó Đảng
Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có
nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã diễn ra gần 30 năm, đạt được nhiều thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu to lớn là Đảng và nhân dân
ta nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng rõ hơn.
Trong 85 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hồn cảnh nào Đảng
ta vẫn ln kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là “sợi
chỉ đỏ” xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời và
trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và
14


nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của
mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ

qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên
thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa khơng cịn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn
khủng hoảng, thối trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh”, và đã được khẳng định điều này tại Đại hội toàn quốc
lần thứ XI (tháng 01-2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Đảng Cộng sản Việt Nam đã bước đầu hình thành được những nét cơ bản
một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, là cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần
bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhận thức về mục tiêu và bản chất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ngày càng đầy đủ hơn ở Việt Nam; về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của
Đảng Cộng sản Việt Nam; về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam; về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường
quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về
mơ hình và phương hướng áp dụng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là những
vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong
phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, địi hỏi phải có sự nghiên
cứu nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Chúng tôi xin đề
cập một số khía cạnh nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như sau:
15


- Một là, nhận thức về mục tiêu và bản chất của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ hơn ở Việt Nam: Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa

xã hội, Đảng ta đã đặc biệt chú trọng tới sự phát triển dân tộc, phát huy động lực
quan trọng và mạnh mẽ nhất là sự đoàn kết dân tộc, có chính sách dân tộc bình
đẳng, đồn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở một quốc gia đa
tộc như người Việt Nam. Một trong những nét mới trong tư duy đổi mới là,
Đảng khẳng định đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị, hợp tác. Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu tổng quát khi kết
thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù
hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức
phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Hai là, nhận thức về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng Cộng sản
Việt Nam: Khẳng định sức sống của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nêu cao tư tưởng
Hồ Chí Minh. 85 năm qua, Đảng ta tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn của cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định rằng, cần phải thấm nhuần chủ nghĩa
Mác – Lênin, bởi học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Từ chỗ coi chủ nghĩa
Mác - Lênin là cái cốt của Đảng, “cái gốc của Đảng”, Đại hội lần thứ II (năm
1951), Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tiếp theo, Đại hội lần thứ III (năm 1960), Đảng khẳng định chủ nghĩa Mác Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng. Đặc
biệt đến Đại hội lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta chính thức khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động. Việc chính thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh cho
16


nền tảng tư tưởng của Đảng là đánh dấu một bước tiến mới, một bước phát triển

quan trọng trong tư duy lý luận. Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn
vai trị, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các
quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
là kết quả vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
của nước ta, đồng thời là sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài
sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Việc xác định chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động cách mạng, đòi hỏi phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dùng lập trường (lập trường
cách mạng triệt để), quan điểm (hệ quan điểm khoa học) và phương pháp
(phương pháp duy vật biện chứng) của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh đề giải quyết đúng đắn những vấn đề của cách mạng Việt Nam và thời
đại đặt ra. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì và vận dụng phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giải đáp được những
vấn đề mới do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện mới của thời đại.
- Ba là, nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam: Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một hệ động lực,
bao gồm các loại động lực vật chất và tinh thần, các động lực bên trong (nội lực
và nội sinh) và các động lực bên ngoài (ngoại lực và ngoại sinh). Trong hệ thống
động lực phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, trước hết là ba động lực
quan trọng sau:
+) Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là động lực quan
trọng hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với thành công của sự nghiệp đổi
mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai.Ở nước ta hiện nay, điểm
17



tương đồng chung là: Giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
+) Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc đổi mới nhằm khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
con người, tính tích cực, chủ động, năng động của nhân dân được tăng lên. Đảng
ta cho rằng, trong điều kiện của một đảng cầm quyền, để phát huy được vai trò
động lực mạnh mẽ của dân chủ, cần coi trọng sự phát triển hài hịa, đồng bộ giữa
dân chủ ở cơ sở, trong đó, dân chủ ở cơ sở có tính chất nền tảng, dân chủ ở trung
ương có tính chất quyết định. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị - xã hội; xây dựng và đẩy
mạnh hoạt động của các mơ hình tự quản trong các cộng đồng dân cư ở cơ sở;
bám sát thực tiễn để góp phần khắc phục tập trung quan liêu; mở rộng sinh hoạt
dân chủ và nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể từ hội nghị cấp ủy cho tới đại
hội Đảng các cấp; tăng cường kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của
tổ chức đối với cán bộ, đảng viên - kể cả đối với những người lãnh đạo chủ chốt;
có quy chế đảm bảo phát huy tự do tư tưởng, tôn trọng những ý kiến khác nhau.
+) Thứ ba, kết hợp hài hịa lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân, quan tâm lợi ích
thiết thân của con người. Đảng ta nhận thức rằng, làm cho mỗi con người quan
tâm tới lợi ích chính đáng của mình, lấy đó làm động lực trực tiếp, thúc đẩy
mạnh mẽ nhất hoạt động của họ sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xây
dựng xã hội mới. Thực tiễn đổi mới đã minh chứng, sự cần thiết phải kết hợp hài
hịa lợi ích cá nhân với lợi ích chung, trong đó lợi ích thiết thân của con người là
động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất.
- Bốn là, nhận thức về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường quá
độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Lãnh
đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta có những đổi mới sâu sắc:
+) Nhận thức rõ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu chặng
18



đường đầu của thời kỳ quá độ. Đó là, trong thời kỳ quá độ sẽ tồn tại nhiều hình
thức kinh tế - xã hội có tính chất q độ.
+) Nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cái gì bỏ qua, cái gì cần tiếp thu…
- Năm là, nhận thức rõ hơn về mơ hình và phương hướng áp dụng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta: Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng. Trong đó, một số nội dung của các đặc trưng đã được
là sáng tỏ hơn so với Cương lĩnh 1991. Điều này thể hiện như sau:
+) Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+) Thứ hai, nhấn mạnh vị trí của dân chủ. Nội dung dân chủ đặt lên trước
công bằng, văn minh. Tồn thể nhân dân làm chủ chứ khơng chỉ là nhân dân lao
động làm chủ. Tôn trọng quyền làm chủ, quyền con người, coi con người là
trung tâm của chiến lược phát triển là chủ thể phát triển.
+) Thứ ba, nhận thức mới đầy đủ hơn về quan hệ sản xuất gồm 3 yếu tố: Chế
độ sở hữu tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ, phương thức phân phối sản
phẩm. Việc nhấn mạnh “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” với lực lượng sản
xuất hiện đại là phản ánh đúng quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+) Thứ tư, bổ sung đặc trưng thứ bảy: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đó là
nội dung xây dựng chế độ chính trị trong mơ hình chủ nghĩa xã hội, cũng là vấn
đề cốt lõi trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay, cho
thấy những câu trả lời cho hiện tại - tương lai - triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở

nước ta, của nhân dân và dân tộc ta là: Chủ nghĩa xã hội là sợ chỉ đỏ xuyên suốt
19


trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội,
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng và văn minh. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung
tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm tạo lập cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tường Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng một “xã hội ngày càng tiến,
vật chất ngày càng tang, tinh thần ngày càng tốt...”.

1.7. Khả năng tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Với những điều kiện để quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
Mác- Lênin đã đề ra xét trong bối cảnh quốc tế và đất nước chúng ta có đủ khả
năng để đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
bao gồm cả khả năng khách quan và khả năng chủ quan.

20


- Với khả năng khách quan: các yếu tố khách quan trọng đầu tiên giúp chúng
ta tiến lên chủ nghĩa xã hội Liên Xơ lúc đó đã tiến hành thành công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật chất và tinh thần.
Sau đó hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã đưa ra chúng
ta một tấm gương kháng sinh động về sự thành công và thất bại sâu sắc và chi
tiết đến mức có thể từ đó đưa ra những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và
thực hiện tiến trình cách mạng.


- Với khả năng chủ quan: sự thành công của chúng ta đẹp được phải kể đến
yếu tố quan trọng bậc nhất là sự lãnh đạo của Đảng và liên minh công nông
chuyển chắc các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin ln ln nhấn mạnh
vai trị của Đảng vơ sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc
thực hiện quá trình phát triển rút ngắn ở các nước tiền tư bản nói riêng. Thì ở
Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có vai trò quyết định đối với việc
tại mặt nhân sự phát triển của đất nước và trong công cuộc đổi mới do để khởi
xướng và lãnh đạo đã thu được những kết quả khả quan như: đã củng cố và
khẳng định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của chúng ta là đúng đắn sự lựa
chọn con đường quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua Tư bản chủ nghĩa của nước
21


ta là phù hợp với sự lựa chọn của nhân dân ta các tầng lớp lao động công nhân
nông dân và tri thức dưới sự sự lãnh đạo của Đảng cũng đã cùng nhau chiến đấu,
hi sinh để giành lại độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

CHƯƠNG 2: PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỂM XUYÊN TẠC CỦA KẺ
THÙ VỀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng
Một là, sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên. Dưới tác động của mặt trái cơ chế thị trường, chiến lược “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch và những khó khăn, khuyết điểm trong q trình
đổi mới đất nước... một bộ phận cán bộ, đảng viên mất niềm tin vào lý tưởng
của Đảng, thậm chí cịn xun tạc, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; hoài nghi về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Nhóm này ẩn chứa nhiều nguy cơ
chuyển biến thành các phần tử cơ hội chính trị, chủ nghĩa dân túy. Một số nhóm

cịn cấu kết với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị tham gia xuyên tạc, bóp

22


×