Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

LÝ LUẬN về CON NGƯỜI và bản CHẤT CON NGƯỜI TRONG TRIẾT học mác lê NIN và ý NGHĨA của nó đối với VIỆC rèn LUYỆN NHÂN CÁCH của SINH VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.97 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MỤC LỤC

ĐỀ MỤC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Trang

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
NỘI DUNG........................................................................................................... 2
1.............................................................................................................................
LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON 2

NGƯỜI
TRONG TRIẾT HỌC MÁC LÊ - NIN VÀ Ý
1.1. …..........................................................................................................
NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN NHÂN
2
CÁCH CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
1.2. ..............................................................................................................

5
1.3................................................................................................................
6

Trần Phương Nam - 2051150151 - 010100510501


2….........................................................................................................................
8
Giảng viên hướng dẫn: Hà Huyền Hồi Vân
2.1. ..............................................................................................................
8

Thành phố Hồ Chí Minh - 2021
2.2.

12

............................................................................................................


KẾT

LUẬN..........................................................................................................

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................
14


MỞ ĐẦU
Với câu hỏi “Nếu được lựa chọn, bạn có học các mơn đại cương trong
chương trình học hay khơng?”, có đến 38-54% trả lời “khơng”. Nhiều bạn cho
rằng những môn học này nhàm chán, tốn thời gian, công sức, tiền bạc và “chỉ
học cho qua”.
Một sinh viên viết: “Những mơn học đại cương rất ít phục vụ các mơn chuyên
ngành và ngành nghề sau này. Giảng viên dạy rất chán. Bài giảng phải chạy đua

với lượng kiến thức rất lớn nên khó tiếp thu, học xong khơng cịn nhớ gì hết”.
Nhiều sinh viên xác nhận ở lớp hầu như ít học mà chỉ... ngủ. Dẫn đến 1 lối sống
phổ biến ở giới trẻ hiện nay đó hính là sự thờ ơ. Ngồi ra, có một bộ phận khơng
nhỏ các bạn sống mà như đã chết, sống mà khơng có nỗi một ước mơ bởi vì ước
mơ của họ đã có người khác xây dùm. Họ khơng cịn tin vào bất cứ điều gì,
khơng tin vào thế giới xung quanh hoặc ngay cả chính bản thân mình.
Với mục tiêu hướng đến là việc rèn luyện nhân cách của sinh viên hiện
nay thông qua lý luận về con người và bản chất con người trong triết học Mác
-Lênin và ý nghĩa của nó
Trên cơ sở khái quát những đặc điểm của nhân cách sinh viên Việt Nam
hiện nay, bài viết phân tích vai trị của triết học Mác - Lênin trong việc hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trên 3 lát cắt chủ yếu sau: Xây
dựng thế giới quan duy vật biện chứng - yếu tố quan trọng trong nhân cách sinh
viên; Xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; Xây dựng lý tưởng cộng
sản cho mỗi sinh viên.

1


NỘI DUNG
1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người.
1.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học,
tính lồi. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn
tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con
người là một bộ phận của tự nhiên.

Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của mn lồi, con người là sản phẩm
của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm
kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhhiên như thức ăn,
nước uống, hang động để ở. Đó là q trình con người đấu tranh với tự nhiên,
với thú dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ
vượn thành người, điều đó đã chứng minh trong các cơng trình nghiên cứu của
Đácuyn. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành,
phát triển đến mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như
vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân
con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với
tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các
giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.

2


Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm
khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng
công cụ lao động. Là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có
tư duy.
Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía
cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn
gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người:
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tơn giáo, nói chung

bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt
với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình”.
Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải
biến toàn bộ giới tự nhiên : “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, cịn con
người thì tái sản suất ra tồn bộ giới tự nhiên”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và
3


tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy;
xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản
chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng
đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên q trình hình thành và phát triển
của con người ln bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống
nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể
với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy
định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý - ý thức
hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình
cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ
xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học
và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái
sản suất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh

thần .
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật.
Nhu cầu sinh học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người,
và đến lượt nó, nhu cầu xã hội khơng thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh

4


học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con
người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội .
1.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ
xã hội.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối
quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa
người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và
mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên
luận đề nổi tiếng trong Luận cương về Phoiơbắc : “Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”1.
Luận đề trên khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly
mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong
điều kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí

tuệ. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc,
thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con
người mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa
là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn
5


mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã
hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác
không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý
nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ khơng thể là duy cái duy nhất.
Do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của
mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội .

1.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho
rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học thuyết ấy
quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo
dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên,
Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của
chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do
chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy
thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao
nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức
bấy nhiêu”.

Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
6


nhiên. Con người thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích
của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự
tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp
với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra . Khơng có hoạt động của con người
thì cũng khơng tồn tại quy luật xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ
lịch sử xã hội lồi người .
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan
hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải
thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người khơng phải là một hệ thống đóng kín,
mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là
“tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch
sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thơng qua đó, bản chất con người cũng vận
động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch
sử sẽ quy định tương ứng ( mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến
đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là

tồn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
7


hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa
định hướng giáo dục. Thơng qua đó, con người tiếp nhận hồn cảnh một cách
tích cực và tác động trở lại hồn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt
động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất
trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động
vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong
bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
2. Ý nghĩa của lý luận về con người và bản chất con người trong triết học Mác Lênin đối với việc rèn luyện nhân cách của sinh viên hiện nay.
2.1. Thực trạng sinh viên Việt Nam hiện nay
Sinh viên từ các thời kỳ và quốc gia khác nhau thường đi đầu trong các
phong trào chính trị và các tiến trình chính trị. Triết học có vai trị quan trọng
trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận và con người. Nó giống
như một “la bàn” có thể giúp sinh viên kết hợp sự nhiệt tình xã hội và chính trị
của họ với quan điểm xây dựng và mục tiêu sáng tạo. Hiểu biết về các quan hệ
xã hội, bản chất và chức năng của nhà nước và pháp luật, mục đích tồn tại của
con người, hiểu biết về lòng tốt, cái ác, về mối quan hệ giữa con người và đất
nước cả về tự do và trách nhiệm Vì vậy, triết học có vai trị quan trọng trong việc
định hướng nhân cách sau này của sinh viên.
Sinh viên Việt Nam ngày nay là một trong những người trẻ được lựa chọn
thông qua các kỳ thi quốc gia và được học trong các trường đại học và cao đẳng.
Là một nhóm người đang trưởng thành và chuẩn bị cho sự nghiệp, cần thiết và
trưởng thành về tính cách. Là một phần của dân số với độ tuổi ban đầu chủ yếu
từ 18 đến 23 tuổi, đào tạo để trở thành những nhà quản trị của xã hội và các lực
8



lượng sản xuất hiện đại và quan trọng trong tương lai. Là một bộ phận đặc biệt
của xã hội, họ có những đặc điểm riêng. Thứ nhất, số lượng sinh viên thay đổi
theo từng năm, tùy thuộc vào quá trình tuyển sinh và xu hướng ngày càng tăng.
Thứ hai, sinh viên là đội dự bị của những trí thức tương lai. Vì vậy, chúng mang
những thuộc tính của trí thơng minh, như khả năng nhận thức và sáng tạo tri thức
khoa học kỹ thuật. Họ là một nhóm xã hội dễ tiếp thu những ý tưởng mới (cả tích
cực và tiêu cực). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “óc những người tuổi trẻ trong
sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ
”(1). Cho nên các lực lượng xã hội khác nhau, các đảng phái khác nhau cố gắng
thu hút những sinh viên muốn họ ủng hộ các hoạt động của mình. Thứ ba, các
bạn sinh viên chưa có “vị thế thực sự” trong nghề nghiệp cơ cấu cũng như trong
xã hội. Do khơng có nghề nghiệp ổn định nên họ khơng có vị trí riêng trong quy
trình sản xuất ngành hàng. Hoạt động chính của các em là hoạt động học tập và
bước đầu tham gia nghiên cứu khoa học, nắm vững một lĩnh vực kiến thức mơn
học nào đó để sau này trở thành chuyên gia trong ngành nghề đó.
Trong điều kiện hiện đại, nhân cách của sinh viên Việt Nam ngồi những
nét nhân cách chung cịn có những biểu hiện cụ thể về phẩm chất và năng lực
đạo đức, như của sinh viên năng động, sáng tạo, thực tiễn ngày nay. So với các
thế hệ sinh viên trước đây, sinh viên ngày nay rất thực tế cụ thể là họ chọn ngành
học là biểu hiện đầu tiên của tính thực tế. Họ tập trung vào các khối ngành mà
sinh viên tốt nghiệp có thể ứng tuyển mà xã hội cần nên có việc làm ngay, lương
cao, ít sinh viên lựa chọn ngành nghề mình mơ ước. Sinh viên ngày nay cũng rất
năng động, tràn đầy năng lượng tiếp thu kiến thức để làm bài. Tích cực tham gia
các hoạt động xã hội: bán thời gian theo nhiều cách khác nhau (nửa ngày, các
ngày trong tuần, buổi tối), tham gia nhiều nghề (ví dụ, cố vấn, nhân viên bán
hàng, quản gia) ... để tham gia kinh doanh và thể hiện sự chủ động và sự sáng tạo
9


trong cơng việc của họ. Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở khả năng

sáng tạo rất cao. Nhiều người trong số họ tham gia nghiên cứu khoa học đạt giải
cao trong các cuộc thi quốc tế và trong nước Giải thưởng Tài năng trẻ Việt Nam
do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hàng năm. Vai trò cá nhân của học sinh chất
lượng cao: Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến giáo dục và giáo dục.
Trau dồi nhân cách của sinh vien Việt Nam hiện nay. Sinh viên ln nỗ lực hết
mình ở mức độ cao và phát triển kiến

thức chuyên môn để duy trì vị thế của

mình trong xã hội. Đồng thời, họ nói rõ vai trị và lợi ích cá nhân của mình trong
hành động. Ý thức về sở thích và nhu cầu của bản thân, những lợi ích chung, sự
quan tâm và chia sẻ dường như lấn át các nhu cầu của bản thân. Các bạn sinh
viên xác định rõ phương pháp lý tưởng của mình: Lý tưởng cao đẹp của sinh
viên Việt Nam ngày nay là giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội mà trong đó Đạo đức cộng sản là một bộ phận quan trọng trong lý
tưởng của sinh viên. Sự thật đã chứng minh rằng đạo đức là một phần đặc biệt và
đặc biệt của nhân cách sinh viên và điều này đã được khẳng định. Sự khác biệt
giữa người này với người khác chính là dựa vào cái gốc là “đức” trong mỗi
người. Ngày nay, mỗi cá nhân đều hiểu rằng lý tưởng sống trước hết phải tôn
trọng và bảo vệ nền độc lập của mọi người. Vì đó là thành quả của bao mồ hôi,
xương máu của các thế hệ cha ông đi trước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
bờ cõi. Thứ hai, sinh viên cần có tinh thần quyết tâm học tập, rèn đức luyện tài.
Đào tạo giúp thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và thúc đẩy sự phát triển
của đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển trong bối cảnh tồn cầu hóa.
Họ hiểu rằng họ muốn củng cố và bảo vệ độc lập, tự do. Chỉ có một con đường
đúng đắn cho chủ nghĩa xã hội. Về học tập, tìm tịi, chăm chỉ, cần cù, sáng tạo
mới thể hiện rõ nhất lý tưởng của học sinh. Trong quá trình học tập, chúng ta tạo
ra khả năng làm chủ kiến thức và chiếm lĩnh tầm cao của khoa học - công nghệ
10



được hòa nhập nhanh vào xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi vì,
với xu thế phát triển hiện nay, nước nào vươn lên hàng đầu thì nước đó sẽ
thắng.Trung thành với câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dân tộc dốt là dân
tộc yếu"
Cuối cùng, có thể nói sinh viên đang ở vị trí “song hành” và vị trí “kép”
trong xã hội. Một mặt, có một số sinh viên trẻ đang từng bước hoàn thiện nhân
cách, họ là lực lượng sản xuất hiện đại, là chủ nhân của đất nước tương lai. Mặt
khác, họ là nguồn lực quan trọng nhất để gia nhập đội ngũ trí thức trong tương
lai. Đây là những nguồn nhân lực chất lượng cao, có sức sáng tạo và tiềm năng
ứng dụng cơng nghệ trong tương lai. Ngày nay góp phần thực hiện thành cơng
cơng cuộc trẻ hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Mỗi người ở một địa vị xã hội khác nhau đều có những biểu hiện nhân
cách đặc trưng tương ứng với địa vị của mình. Ví dụ, nhân cách của người lãnh
đạo, giáo viên, v.v. Xã hội cũng có những khía cạnh thể hiện tính đặc thù của tính
cá nhân. Nhân cách học sinh là một trường hợp đặc biệt của nhân cách, nó là sự
thể hiện bản chất của con người trong một giai cấp xã hội cụ thể. Có thể hiểu,
nhân cách của người học sinh là tổng hòa của đạo đức, tài năng, sức khỏe thể
chất và tinh thần và trí óc do lịch sử hình thành - cụ thể là sự xác định các giá trị
và hành vi xã hội của học sinh, được thể hiện và thực hiện trong các hoạt động
giáo dục, hoạt động giao tiếp, ứng xử và hoạt động xã hội của sinh viên đều khác
nhau.
2.2. Vai trò trong việc hình thành và rèn luyện nhân cách sinh viên đúng hướng
Khi khảo sát sự hình thành nhân cách của các sinh viên, chúng tôi thấy
rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển bằng cách kết hợp giữa quá
trình học tập và tự hình thành, quá trình giao tiếp và quá trình hoạt động. Hành vi
11


thực tế cho thấy "thành tựu nhân văn" của tất cả mọi người. Giáo dục đóng một

vai trị quan trọng ở đây. Dạy học triết học Mác - Lênin cho sinh viên là một bộ
phận quan trọng của giáo dục đại học nước ta nhằm đào tạo sinh viên có tư cách
cá nhân gồm minh bạch, có bản lĩnh chính trị vững vàng mới đáp ứng được nhu
cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập và phát triển của đất nước. Cơ sở của
nhận định là:
Trước hết, việc giảng dạy triết học Mác - Lênin trong trường đại học cần
giúp hình thành thế giới quan khoa học về cá nhân của sinh viên Việt Nam. Giáo
dục triết học chủ nghĩa Mác - Lê-nin trước hết dạy những nguyên lý và phạm trù
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin nhằm thiết lập trường phái nhân sinh quan về
thế giới. Đây là thế giới quan duy vật biện chứng: nền tảng để em hiểu và tiếp
thu các nguyên lý, quy luật khác. Thế giới quan là một hệ thống tri thức và khái
niệm hoàn chỉnh. Quan điểm của con người về thế giới và vị trí của anh ta trong
thế giới này. Đây là một hệ thống kiến thức, một suy nghĩ về thế giới, nhưng là
một suy nghĩ về thế giới. Thế giới quan được hiểu là kết quả của một quá trình
nhận thức nhất định của con người, chứ không phải là tổng hợp giản đơn của
tổng khối lượng tri thức khoa học cụ thể.
Thứ hai, giáo dục triết học Mác - Lênin cịn giúp hình thành tầm nhìn cộng
sản về đời sống sinh viên, hình thành những quan niệm đúng đắn về cuộc sống, ý
nghĩa và mục đích sống. Xây dựng xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh; xã hội
mà mọi người đều có đời sống vật chất và tinh thần đầy đủ, là xã hội mà “sự phát
triển tự do của mọi người là tiền đề cho sự phát triển tự do của mọi người”.
Thứ ba, đào tạo triết học Mác - Lênin giúp hình thành lý tưởng cộng sản
cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lí tưởng có vai trị quan trọng trong việc hình
thành nhân cách của học sinh vì lí tưởng là mục tiêu, là cái cao cả, cái đẹp nhất
12


tạo nên ý chí giúp con người làm chủ mọi thử thách để đạt được mục tiêu đã đề
ra. Mục tiêu cao nhất của lý tưởng cộng sản là xây dựng một hệ thống xã hội tốt
đẹp: xã hội chủ nghĩa và sau này là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở đó mọi người

được tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Sinh viên được tiếp thu kiến thức khoa học
Mác - Lênin sẽ tự tìm thấy sức mạnh. Để tri thức tự vươn lên, phát huy lý tưởng
cộng sản, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin và hồi
bão, học sinh phải có ý chí vươn lên để đạt được lý tưởng. Để thực hiện được lí
tưởng khơng phải là xa vời, nhưng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường các
em cần hình thành ý chí học tập để sau này góp phần xây dựng quê hương đất
nước, đồng thời cần có tinh thần chiến đấu với những hành vi lệch lạc của một
bộ phận học sinh sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, sống thiếu lý
tưởng, hướng tới cuộc sống sung sướng, sống thực dụng, chỉ nghĩ đến lợi ích của
bản thân, thờ ơ với lợi ích của người khác,những người bạn đồng hành, quốc gia.
KẾT LUẬN
Dưới tác động của nền giáo dục triết học Mác - Lênin, sự hình thành và
phát triển nhân cách của sinh viên Việt Nam hiện đại cũng là quá trình các em
trau dồi những phẩm chất cần thiết về tri thức và trưởng thành. Xét về khía cạnh
xã hội, ở một khía cạnh nào đó giúp sinh viên nâng cao kiến thức lý luận, nhận
thức chính trị, chấp nhận thực tiễn, năng lực xử lý các tình huống nảy sinh trong
thực tiễn và thực hiện lý tưởng, ước mơ của mình. Học tập, chăm chỉ và cống
hiến. Bạn không thể sống mà không phấn đấu cho lý tưởng. Lý tưởng là sự thôi
thúc bên trong giúp con người hành động theo nhu cầu và lợi ích của con người.
Vì vậy, việc giáo dục triết học Mác - Lê-nin nhằm từng bước hình thành lý tưởng
cách mạng cho sinh viên là hết sức quan trọng. Đây cũng là giá trị đạo đức của
mỗi học sinh. Mục tiêu mà mỗi học sinh phấn đấu. Để đạt được mục tiêu này,
giáo dục triết học Mác - Lênin đã khẳng định đầy đủ vai trò quan trọng, quyết
13


định của mình đối với quá trình này. Trước tác động tiêu cực của sự phát triển
kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, phấn đấu không để học
sinh sa sút về tư cách đạo đức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Báo cáo phát triển con người Việt Nam các năm 1999, 2011 và 2016.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học. 3 quyển. Nxb. Chinh trị quốc gia, Hà
Nội. 2003.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 (tháng 5-1941). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương khoa VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
[5]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tổng tập hồi ký. Nxb. Quân đội nhân dãn, Hà
Nội, 2006.
[6]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp lý luận chỉnh
trị - Triết học Mác - Lênin. Nxb Lý luận Chính trị, H. 2018.
[7]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình Triết
học Mác - Lênin (Tái bản có sửa chữa, bổ sung). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2010.
[8]. Lê Hữu Nghĩa, Lịch sử và lơgíc. Nxb. Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội.
1987.
[9]. Trần Văn Phịng (chủ biên), Giảo trình Triết học (dùng cho cao học không
chuyên ngành triết học). Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2015.
14


15



×