Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Truyền hình với hoạt động lập pháp của quốc hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.65 MB, 219 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VŨ THỊ KHUYÊN

TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP
CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VŨ THỊ KHUYÊN

TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP
CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
Ngành : BÁO CHÍ HỌC
Mã số



: 9. 32. 01. 01

Hướng dẫn 1
GS, TS. VŨ VĂN HIỀN

Hướng dẫn 2
PGS, TS. ĐỖ CHÍ NGHĨA

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ

Vũ Thị Khuyên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BTV

Biên tập viên

ĐBQH

Đại biểu Quốc hội


DLXH

Dư luận xã hội

NNPQ

Nhà nước pháp quyền

NXB

Nhà xuất bản

PT-TH

Phát thanh - Truyền hình

PVS

Phỏng vấn sâu

PV/BTV

Phóng viên, Biên tập viên

Quốc hội TV

Truyền hình Quốc hội Việt Nam

TTĐC


Truyền thơng đại chúng

TS

Tiến sĩ

TXCT

Tiếp xúc cử tri

UBTVQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ

Biểu đồ 1: Tần suất theo dõi thông tin hoạt động lập pháp trên truyền hình ở
các kênh Quốc hội TV, VTV1 ...................................................... 88
Biểu đồ 2: Nội dung thông tin HĐLP trên kênh Quốc hội TV được quan tâm .... 89
Biểu đồ 3: Đánh giá nội dung thông tin hoạt HĐLP của Quốc hội trên truyền
hình ............................................................................................... 91
Biểu đồ 4: Đánh giá truyền hình tham gia vào quá trình phổ biến luật .......... 92
Biểu đồ 5: Đánh giá truyền hình tham gia vào quá trình xây dựng luật ....... 94
Biểu đồ 6: Đánh giá truyền hình tham gia vào q trình hồn thiện luật ....... 97

Hình 1: Cơ cấu thành phần đại biểu ................................................................ 49


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng, hình vẽ
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT
ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY .....................13
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU TRUYỀN HÌNH
VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY ....39
1.1. Quan niệm cơ bản về truyền hình ....................................................................39
1.2. Quốc hội Việt Nam, hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam ............48
1.3. Mối quan hệ qua lại giữa truyền hình với hoạt động lập pháp ...................66
Chương 2: TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ VÀ NGUYÊN NHÂN ....83
2.1. Thực trạng mối quan hệ truyền hình với hoạt động lập pháp và hoạt động
lập pháp với truyền hình của Quốc hội Việt Nam ................................................83
2.2. Vấn đề đặt ra và nguyên nhân của quan hệ truyền hình với hoạt động lập
pháp của Quốc hội Việt Nam .................................................................................105
Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRỊ
TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI VIỆT
NAM HIỆN NAY.....................................................................................................128
3.1. Các giải pháp chủ yếu ......................................................................................128
3.2. Một số khuyến nghị khoa học ........................................................................147
KẾT LUẬN ...............................................................................................................165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................171
PHỤ LỤC



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, cả hệ thống chính
trị nói chung, từng thành tố cơ bản của hệ thống chính trị ấy, nhất là bộ máy
chính quyền nhà nước đang từng bước được đổi mới, hoàn thiện theo hướng
ngày càng gắn bó và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đang từng bước
thể chế hóa đường lối của Đảng theo Nghị quyết của Đại hội. Cuộc bầu cử Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp đã thành cơng tốt đẹp, khởi đầu cho q trình
từng bước thể chế hóa, hiện thực hóa đường lối xây dựng và phát triển đất nước
theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Sáu tháng sau khi Đại hội
XII của Đảng thành công, Quốc hội nước Cộng hịa XHCN Việt Nam đã khóa
XIV đã diễn ra với những khởi sắc mới. Hoạt động của Quốc hội cũng sáng tạo,
năng động và đổi mới. Chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề lớn của đất
nước, giám sát tối cao được Quốc hội quan tâm hơn và trách nhiệm của Quốc
hội và từng Đại biểu Quốc hội cũng được nâng lên. Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa
XIV đã không chỉ tiếp tục triển khai các Nghị quyết được thơng qua trong Kỳ
họp thứ nhất, mà cịn tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa các Nghị quyết Đại hội đại
biểu lần thứ XII của Đảng thành các Nghị quyết Quốc hội: Nghị quyết về nhiệm
vụ năm 2017, Nghị quyết về kế hoạch tài chính 5 năm giai đoạn 2016-2020, Kế
hoạch đầu tư công trung hạn, Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế …
Quá trình ấy cũng đặt ra và đòi hỏi hoạt động lập pháp của Quốc hội cần
có những bước đi cụ thể, với một lộ trình hợp lý trong các hoạt động lập pháp,
tạo điều kiện, căn cứ cơ bản và chủ yếu cho tồn bộ hoạt động của nhà nước
pháp quyền XHCN, góp phần quyết định vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu,
nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, thực hiện
thắng lợi các chủ trương của Đảng. Nếu như q trình hiện thực hóa đường lối,
chủ trương đúng đắn của Đảng vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình cơ bản,



2
chiến lược đảm bảo cho đất nước phát triển thành cơng, đúng định hướng
XHCN, thì khâu chủ yếu đầu tiên có tính quyết định đến thắng lợi của q trình
chiến lược cơ bản ấy chính là thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng
thành các nghị quyết, quy định pháp lý… Khâu chủ yếu đầu tiên có tính quyết
định ấy là hoạt động lập pháp của Quốc hội.
Thực tế những năm qua cho thấy, hoạt động lập pháp của Quốc hội nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam đã và đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết trong
toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, khâu chủ yếu có tính quyết định
để hiện thực hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết chiến lược của Đảng cộng
sản Việt Nam vào thực tiễn cuộc sống, góp phần chủ yếu vào mục tiêu tổng
quát xây dựng thành công đất nước Việt Nam trở thành quốc gia XHCN dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn minh.
Lập pháp là chức năng hàng đầu của Quốc hội. Quốc hội, bao gồm các
Đại biểu Quốc hội tại kỳ họp mới là chủ thể duy nhất có thẩm quyền thay mặt
nhân dân thơng qua các dự án luật. Vì vậy, hoạt động lập pháp của Quốc hội có
ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chức năng lập pháp và quá trình xây
dựng luật góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Mỗi Đại
biểu Quốc hội là người đại diện cho cử tri nơi bầu ra mình, đồng thời là đại
diện cho nhân dân cả nước. Để đảm bảo thực hiện đúng vị trí, vai trị của mình,
địi hỏi Quốc hội phải gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm bắt được tâm tư
nguyện vọng chính đáng của nhân dân để làm tròn trách nhiệm của người đại
biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Mối liên hệ hữu
cơ giữa một bên là Quốc hội đại diện cho ý chí và quyền lực dân chủ của nhân
dân, cùng toàn bộ hoạt động của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, trong đó có hoạt
động lập pháp nhằm thực hiện các ý chí quyền lực dân chủ ấy, với một bên là
nhân dân, dân tộc - chủ thể của toàn bộ hệ thống quyền lực dân chủ XHCN



3
đang được xây dựng ở Việt Nam là mối liên hệ chủ yếu, quyết định đối với xây
dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, tiến đề chính trị chủ yếu cho thắng lợi
của cách mạng Việt Nam do Đảng cộng sản lãnh đạo. Trong số các tác nhân có
thể làm phát triển, củng cố mối liên hệ ấy có vai trị đặc biệt quan trọng của
truyền thơng đại chúng của báo chí nói chung và truyền hình nói riêng.
Với chức năng là phương tiện thông tin đại chúng, báo chí nói chung,
truyền hình nói riêng trong thời gian qua đã khẳng định phạm vi ảnh hưởng
mạnh mẽ trong việc tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chuyển tải hoạt động xây dựng pháp luật
của Quốc hội, các cơ quan dân cử với những bàn định, quyết sách của Đảng,
Nhà nước đến với đồng bào cử tri trong cả nước một cách gần gũi, công khai
minh bạch. Công tác giám sát việc thực thi pháp luật từ việc ban hành đến khi
luật đi vào cuộc sống có những gì bất cập khi áp dụng vào thực tiễn cuộc sống,
dư luận xã hội phản ánh về luật đó ra sao sẽ được thể hiện rõ qua báo chí.
Khẳng định về tầm quan trọng của báo chí truyền thơng, tại phiên làm
việc đầu tiên của Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, trong báo cáo về kết quả
thực hiện kinh tế - xã hội năm 2019 và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2020 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xn Phúc đã nhấn mạnh,
“Báo chí truyền thơng trong thời gian qua, tạo đồng thuận xã hội để xây dựng
đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Với vai trò là một lực lượng
cách mạng quan trọng, thể hiện tiếng nói của Đảng, Nhà nước và Nhân dân,
các cơ quan báo chí, truyền thơng cần khơi dậy lịng yêu nước, khát vọng dân
tộc, xây dựng đất nước. Báo chí cần chung sức, đồng lịng, đồng hành cùng
cả nước vượt qua khó khăn, thách thức; tập trung thơng tin tuyên truyền về
đường lối, chính sách, nỗ lực hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân;
nêu bật những gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến vượt khó
vươn lên. Báo chí khơng làm xói mịn niềm tin mà lan toả năng lượng tích



4
cực, kết nối mọi người dân để thúc đẩy Việt Nam bứt phá vươn lên, phát triển
hùng cường, thịnh vượng”.
Trong môi trường truyền thông số hiện nay, cùng với các loại hình báo
chí khác, nhất là báo mạng điện tử và mạng xã hội, truyền hình đang thể hiện
vai trị gần như trung tâm thu hút công chúng, chiếm lĩnh thị phần truyền thông.
Theo nghiên cứu tháng 5 năm 2019 của Tạp chí Truyền hình Việt Nam, gần
50% cơng chúng tiếp nhận sản phẩm báo chí qua mạng xã hội, hơn 22% cơng
chúng tiếp nhận qua truyền hình (màn ảnh nhỏ) và báo mạng điện tử; trong khi
đó, qua báo in và phát thanh chỉ hơn 10%.
Điều đó cho thấy, truyền hình vẫn có vị trí rất quan trọng trong hệ thống
báo chí Việt Nam, trong việc giao tiếp với cơng chúng xã hội. Do vậy, việc
nghiên cứu vai trị chính trị - xã hội của truyền hình nói chung, trong q trình
lập pháp ở Việt Nam nói riêng, có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Truyền hình là một kênh truyền thơng giúp truyền tải thơng tin thơng qua
hình ảnh, âm thanh với đầy đủ sắc màu, lời nói, âm nhạc và tiếng động. Truyền
hình với các hoạt động chương trình được thu nhỏ qua màn ảnh giúp cho người
xem cảm nhận được những thơng tin, hình ảnh một cách chân thực nhất, sống
động nhất. Đây được xem là những thế mạnh vượt trội của báo truyền hình,
giúp cho thơng tin, các vấn đề thời sự chính trị - xã hội được cập nhật đưa đến
công chúng một cách nhanh chóng, thiết thực nhất có thể.
Trong thời gian gần đây việc các Đài truyền hình khơng ngừng mở rộng
thời lượng phát sóng phát triển các kênh truyền hình mới đổi mới các cơng nghệ
phát sóng cải thiện nội dung chương trình đặc biệt là các chương trình nghị sự
đã giúp cho các chương trình này ngày càng phong phú và hấp dẫn hơn. Các sự
kiện hiện tượng, vấn đề nổi bật đều được cập nhật thể hiện qua các chương trình
truyền hình ngày càng chuyên nghiệp và sáng tạo riêng. Sự hấp dẫn riêng có về


5

tính tương tác với khán giả người xem bằng hình ảnh và âm thanh khiến cho
thông tin được truyền tải theo một hình thức sống động gần gũi.
Thơng tin về Quốc hội nói chung và thơng tin về hoạt động lập pháp nói
riêng là loại thơng tin đặc thù, liên quan đến mọi mặt đời sống người dân, đến
an nguy xã hội, đến chế độ Nhà nước mà chúng ta đang xây dựng và phát triển.
Do vậy, để đưa hình ảnh của Quốc hội tới gần dân chúng thì một trong những
phương tiện truyền thơng hữu hiệu nhất chính là truyền hình. Truyền hình là
cầu nối thơng tin hồn hảo tới người dân và chỉ thơng qua truyền hình với hình
ảnh sống động, chân thực, thơng tin về Quốc hội mới truyền tải được một cách
đầy đủ, cập nhật, phổ quát và thiết dụng.
Truyền hình phục vụ hoạt động lập pháp thời gian qua đã đóng góp khơng
nhỏ vào q trình hoạt động lập pháp. Những đóng góp ấy thể hiện ở các kết
quả cơ bản như: cung cấp thông tin mang tính gợi ý đề xuất cho các sáng quyền
lập pháp, các đề nghị xây dựng dự án luật góp phần vào q trình ra đời các dự
án luật mới hoặc bổ sung điều chỉnh các luật đã ban hành; cung cấp thơng tin
mang tính gợi ý đề xuất đối với quá trình soạn thảo ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành luật, các chính sách mới...; cung cấp các thông tin nhằm giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho các tổ chức, cá nhân, nhân dân về các
luật và chính sách mới. Truyền hình cung cấp thơng tin mang tính gợi ý đề xuất
cho các sáng quyền lập pháp, các đề nghị xây dựng dự án luật có vai trị đặc biệt
quan trọng. Ngồi ra, truyền hình đã phố biến giáo dục ý thức pháp luật, phát
huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong chấp hành pháp luật, thực hiện
quyền và nghĩa vụ cơng dân của mình trước đất nước. Từ đó tác động vào ý thức
xã hội để xác lập và củng cố hệ thống tư tưởng chính trị thống nhất, qua đó,
liên kết các thành viên rời rạc thành một khối đồn kết.
Các chương trình truyền hình mang đến thơng tin gần gũi với cử tri, phản
ánh được nguyện vọng của cử tri đến với Quốc hội, Đảng và Nhà nước. Nhất


6

là việc khơi dậy và phát huy được ý thức dân chủ của nhân dân quan tâm và
tích cực tham gia vào cơng việc của Nhà nước. Bên cạnh đó, truyền hình đã
truyền tải nhiều thơng tin phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri về các điều
luật và dự thảo luật đến Quốc hội và phản ánh chân thực, đa dạng các vấn đề
của đời sống, tạo cơ sở thực tiễn cho công tác nghiên cứu xây dựng luật pháp.
Qua q trình thơng tin về hoạt động lập pháp trên truyền hình đã góp
phần phản ánh thực tiễn thi hành pháp luật và hướng dẫn dư luận xã hội ủng hộ,
biểu dương người tốt, việc tốt trong chấp hành pháp luật, lên án, phê phán những
biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội, tạo niềm tin
vào pháp luật, vào công lý trong mọi tầng lớp nhân dân. Trong cơng tác tun
truyền chính sách, pháp luật, truyền hình cịn đóng vai trị là cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân. Bên cạnh đó, truyền hình cịn là diễn đàn thực hiện
quyền tự do ngôn luận của nhân dân thông qua các chương trình talk, từ nghị
trường đến cuộc sống, ý kiến của cử tri... Truyền hình phản ánh những đề xuất,
kiến nghị của người dân với Đảng, Nhà nước về các chính sách, các quy định
pháp luật chưa thật phù hợp, về những bất cập, những vướng mắc, bức xúc trong
thực tiễn thi hành, chấp hành pháp luật.
Với lợi thế của mình, truyền hình đã chuyển tải thơng tin q trình hoạt
động lập pháp của Quốc hội, các cơ quan dân cử với những bàn định, quyết sách
của Đảng, Nhà nước đến với người dân trong cả nước một cách nhanh nhất, với
hình ảnh chân thực, sống động, gần gũi, cơng khai minh bạch cũng như đưa tiếng
nói của cử tri đến với Quốc hội để có những tác động kịp thời đối với việc sửa
đổi luật cho thích hợp với cuộc sống thực tế thơng qua các chương trình truyền
hình trực tiếp, các chương trình, các chuyên mục và chắc chắn đây là những
chương trình có ý nghĩa chính trị rất lớn, đem lại hiệu quả thiết thực trong quá
trình lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay.


7
Nói cách khác, truyền hình là kênh giao tiếp đại chúng phổ dụng, thiết

thực và sinh động mà quá trình hoạt động lập pháp của Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ln coi đó là một trong những kênh chính thức,
chính thống và chủ yếu nhất.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một
cách cơ bản, có hệ thống ở tầm mức cần thiết vấn đề về vai trò của truyền hình
trong hoạt động lập pháp theo tiếp cận báo chí học, cũng như tiếp cận liên ngành
báo chí học, chính trị học, … trong đời sống chính trị và khoa học pháp lý. Vì vậy
nghiên cứu sinh chọn vấn đề về Truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội
Việt Nam hiện nay làm đề tài cho luận án tiến sĩ báo chí học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự mối quan hệ của truyền hình với hoạt động lập
pháp của Quốc hội Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai
trò của báo chí truyền hình trong hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thứ nhất, thực hiện tổng quan kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học
thế giới và Việt Nam về mối quan hệ qua lại và vai trị của báo chí truyền hình
với hoạt động lập pháp;
- Thứ hai, xây dựng cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của nghiên cứu mối quan
hệ qua lại và vai trị truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam;
- Thứ ba, khảo sát, đánh giá thực trạng mối quan hệ qua lại và vai trị
giữa truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam;
- Thứ tư, đề xuất và luận chứng cho các giải pháp chủ yếu, các khuyến
nghị khoa học nhằm phát huy vai trò của truyền hình với hoạt động lập pháp
của Quốc hội ở Việt Nam.


8
3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

3.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Câu hỏi 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu truyền hình với hoạt
động lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay
- Câu hỏi 2: Truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam
hiện nay: Thực trạng, vấn đề và nguyên nhân
- Câu hỏi 3: Giải pháp và khuyến nghị nhằm phát huy vai trị truyền hình
với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay
3.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết thứ nhất
Giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực quản
lý điều hành của nhà nước là yếu tố tiên quyết, chủ yếu đảm bảo hiện thực hóa
một cách hiệu quả quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng và củng cố từng bước
nền dân chủ XHCN. Báo chí truyền thơng là một trong số các phương thức cơ
bản hiện thực hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý điều hành của
Nhà nước, có vai trị đặc biệt quan trọng các hoạt động của nhà nước nói chung,
của Quốc hội và hoạt động lập pháp (HĐLP) của Quốc hội nói riêng. Giữ vững,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực quản lý điều hành
của nhà nước là yếu tố tiên quyết, chủ yếu phát huy vai trị của báo chí truyền
hình đối với hoạt động lập pháp của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
- Giả thuyết thứ hai
Hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội và
các Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tại các kỳ họp của Quốc hội là chủ thể duy nhất,
có vai trị chủ yếu thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Báo chí nói chung, báo chí truyền hình nói riêng có quan
hệ mật thiết và có vai trị to lớn trong các HĐLP của Quốc hội. Việc củng cố và
tăng cường mối quan hệ kết hợp giữa các chủ thể của HĐLP với các chủ thể báo


9
chí truyền hình lập pháp là phương hướng, giải pháp cơ bản của phát huy vai trị

truyền hình với HĐLP của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
- Giả thuyết thứ ba
Hoạt động lập pháp của Quốc hội đang có những bước phát triển mạnh
mẽ, ln đặt ra u cầu đòi hỏi những đổi mới mạnh mẽ, tương ứng trong hoạt
động truyền hình lập pháp. Sự phát triển năng động, mạnh mẽ trong mọi mặt
đời sống xã hội, cùng với đó trình độ dân trí, trình độ làm chủ của nhân dân
ngày càng được nâng lên cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi những thay đổi
tương ứng hoạt động truyền hình lập pháp. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán
bộ báo chí truyền hình lập pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ
chun mơn giỏi, có khả năng làm chủ và phát huy tính năng của các phương
tiện truyền hình hiện đại là một phương hướng cơ bản của phát huy vai trị
truyền hình với hoạt động lập pháp.
Giả thuyết thứ tư
Chất lượng nội dung và hàm lượng thông tin là một yếu tố cơ bản mang
tính quy định đối với chất lượng, hiệu quả truyền thơng của các sản phẩm báo
chí truyền thơng. Hình thức sáng tạo và chuyển tải các sản phẩm báo chí truyền
thơng và các chương trình báo chí truyền hình cũng là yếu tố cơ bản mang tính
quy định đối với chất lượng, hiệu quả truyền thông của các sản phẩm báo chí
truyền thơng. Vì vậy, nâng cao chất lượng nội dung thơng tin và đổi mới hình
thức các chương trình truyền hình chính là một phương hướng giải pháp quan
trọng phát huy có hiệu quả vai trị của truyền hình với HĐLP của Quốc hội
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ qua lại và vai trị truyền
hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay.


10
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Khảo sát và đánh giá thực trạng mối
quan hệ qua lại và vai trị truyền hình với hoạt động lập pháp.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận án nghiên cứu thực trạng mối
quan hệ qua lại và vai trị của Kênh VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam và Truyền
hình Quốc hội Việt Nam với hoạt động lập pháp.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận án nghiên cứu từ năm 2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Cơ sở lý luận của luận án là lý thuyết truyền thông hiện đại, về truyền
thơng phát triển, về vai trị của báo chí truyền thông đối với sự phát triển xã
hội, các lý thuyết này lại được thực hiện theo tiếp liên ngành giữa báo chí truyền
thơng với lý luận về nhà nước và pháp luật.
- Cơ sở thực tiễn của nghiên cứu luận án là những quan điểm cơ bản của
Đảng về báo chí cách mạng Việt Nam, trong chỉ đạo xây dựng NNPQ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam và những quyết sách lớn của Đảng, của Nhà nước trong lộ
trình xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử mà trực tiếp là lý luận về tính độc lập tương đối của các hình
thái ý thức xã hội, về mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa báo chí
truyền thơng với hoạt động lập pháp với tính cách là các thành tố của kiến trúc
thượng tầng của một hình thái kinh tế xã hội mới đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
5.2.2. Phương pháp nghiên cứu chủ đạo
Do đặc thù về đối tượng, phạm vi nghiên cứu, phương pháp chủ đạo trong
triển khai nghiên cứu luận án là phương pháp phân tích - tổng hợp sử dụng
trong q trình thu thập phân loại tài liệu, phân tích lược khảo và phân tích tổng



11
quan tài liệu kết hợp với phương pháp quy nạp - diễn dịch trong khảo sát thực
trạng vai trò truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội ở Việt Nam.
5.2.3. Phương pháp cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Các cơng trình khoa học, sách, bài viết, bài báo, các trang thông tin điện
tử về các nội dung như liên quan đến Quốc hội, lập pháp, truyền hình v.v...
Phương pháp này nhằm xác định các chủ đề thông tin, thơng điệp truyền hình
lập pháp, tần suất xuất hiện... Qua đó, hình thành và củng cố các luận cứ nhằm
luận chứng cho các giả thuyết về vai trò của báo chí truyền hình với hoạt động
lập pháp của Quốc hội Việt Nam.
- Phỏng vấn bằng bảng hỏi (Anket):
Quy mô điều tra xã hội học thông qua phỏng vấn bằng bảng hỏi được xác
định là cả nước, với lượng mẫu được phỏng vấn 300 người, chia đều theo 03
vùng địa lý Bắc - Trung - Nam (chia đều cho 6 khu vực), một số bộ, ban, ngành
Trung ương, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
- Phỏng vấn sâu (PVS) thực hiện đối với 10 đối tượng PVS là cán bộ lãnh
đạo quản lý báo chí, nhà báo, ĐBQH và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
trong phạm vi 3 khu vực Bắc - Trung - Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp một phần làm rõ một số khái niệm cơng cụ: báo chí truyền
hình lập pháp, quy trình lập pháp của Quốc hội, làm rõ hơn mối quan hệ qua
lại và vai trị giữa báo chí truyền hình với hoạt động lập pháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Những kết quả của luận án cũng sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích, tin
cậy trong việc định hướng nghiên cứu lý luận, thực trạng về báo chí truyền
thơng, về vai trị truyền hình với hoạt động lập pháp Việt Nam hiện nay.



12
- Đối với tác giả và đồng nghiệp, các cơ quan báo chí, luận án có thể
cung cấp kiến thức, nâng cao tầm hiểu biết và nâng cao năng lực chuyên môn
trong nhiệm vụ cụ thể hiện nay là cung cấp thông tin từ công chúng, nhân dân
cho các chủ thể hoạt động lập pháp; chuyển tải có hiệu quả các thông tin về
hoạt động lập pháp đến với nhân dân.
7. Đóng góp mới của luận án
- Trên cơ sở khảo sát hoạt động truyền hình lập pháp trên Kênh VTV1 Đài
Truyền hình Việt Nam, Truyền hình Quốc hội Việt Nam, luận án tiến hành đánh
giá một cách cơ bản thực trạng vai trị truyền hình với hoạt động lập pháp của
Quốc hội Việt Nam;
- Đề xuất và luận chứng cho các giải pháp tác động, các khuyến nghị
khoa học nhằm phát huy vai trị truyền hình đối với hoạt động lập pháp của
Quốc hội Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo
và Phụ lục, luận án có kết cấu gồm 3 chương 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu truyền hình với hoạt động
lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay
Chương 2: Truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện
nay: Thực trạng, vấn đề và nguyên nhân
Chương 3: Giải pháp và khuyến nghị nhằm phát huy vai trị truyền hình với
hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay


13
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRUYỀN HÌNH
VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tổng quan kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa báo chí với hệ

thống chính trị
1.1. Những cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1. Chủ nghĩa Mac – Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của
báo chí
1.1.1. Chủ nghĩa Mac – Lê-nin
1.1.1.1. C. Mac và Ph. Ăng-ghen
Có thể khẳng định rằng trong những thập niên gần đây, truyền thông xã
hội nói chung và báo chí truyền thơng nói riêng, có vai trị ngày càng to lớn đối
với sự phát triển xã hội của thế giới hiện đại. Cùng với truyền thơng xã hội, báo
chí truyền thơng đang trở thành nhân tố bên trong và là động lực của sự phát
triển. Những nghiên cứu hiện đại về vai trò của truyền thơng, của báo chí đối
với sự phát triển xã hội, trong đó có vai trị đối với hoạt động của hệ thống
chính trị nói chung, của các nhà nước nói riêng … xuất hiện ngày càng nhiều,
rất đa dạng và phong phú. Điều đó địi hỏi các nghiên cứu về báo chí, báo chí
truyền hình đối với quốc hội, HĐLP của quốc hội cần thực hiện tổng quan các
kết quả nghiên cứu liên quan đến vấn đề về mối quan hệ tác động qua lại giữa
báo chí truyền thơng với hệ thống chính trị, với nhà nước. Tồn bộ những phân
tích tổng quan ấy lại cần được thực hiện trên lập trường duy vật lịch sử, cần
được bắt đầu từ các quan điểm cơ bản, có tính chất phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mac – Lê-nin về báo chí truyền thơng, quan hệ báo chí truyền thơng với
HTCT và nhà nước…
Do tính quy định bởi các điều kiện lịch sử cụ thể, C. Mac và Ph. Ăngghen chưa thể đề cập trực diện vai trị báo chí với các hoạt động của nhà nước.
Nhưng các Ông cũng đã nêu ra hai quan điểm có tính chất định hướng cơ bản,


14
quan trọng cho hoạt động của báo chí cách mạng của giai cấp vơ sản. Trước
hêt, đó là quan điểm về
vai trò to lớn của tuyên truyền, truyền bá để lý luận thâm nhập vào quần chúng
nhân dân, tạo nên lực lượng vật chất to lớn để chiến thắng; nhờ đó mà có thể

chiến thắng. Bên cạnh đó, Chủ nghĩa Mác cũng chỉ rõ bản chất của mối quan
hệ tác động qua lại giữa các chính quyền nhà nước với báo chí, xuất bản.
Cac Mac từng khẳng định trong Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hê-ghen- Lời nói đầu: “Vũ khí phê phán cố nhiên khơng thể thay thế được
sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng
vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm
nhập vào quần chúng. Lý luận có thể thâm nhập vào quần chúng…” khi nó “…
trở thành triệt để. Triệt để có nghĩa là hiểu được sự vật đến tận gốc rễ của nó”.
[78, trang 580] . Tiếp cận theo đối tượng nghiên cứu của luận án này, có thể rút
ra hai nhận định, có ý nghĩa phương pháp luận: một là, truyền bá các thơng tin
chính trị - xã hội vào quần chúng nhân dân là quá trình khách quan, tuyệt đối
cần thiết, là điều tiên quyết để sự nghiệp cách mạng có thể đi đến thắng lợi, báo
chí và truyền thơng có vai trị đặc biệt quan trọng trong q trình ấy; hai là, q
trình ấy chỉ có hiệu quả khi nội dung thông tin được truyền bá là khách quan,
khoa học, triệt để. Điều này đồng nghĩa với việc, để phát huy hiệu quả vai trị
báo chí truyền thơng đối với hoạt động nhà nước, với HĐLP, bản thân người
làm báo chí truyền thông phải nắm chắc, hiểu sâu sắc các nội dung tun truyền
mà mình cần chuyển tải đến cơng chúng. Đây là điều chủ yếu nhất.
Nói về mối liên hệ giữa chính trị, nhà nước với bào chí trong các quốc
gia tư sản, Ph.Ăng-ghen viết: “Hoàn toàn hiển nhiên là trong các nước lớn, báo
chí thể hiện quan điểm của đảng mình, nó khơng bao giờ chống lại lợi ích của
đảng mình và điều đó khơng làm tổn hại gì đến tự do luận chiến, bởi vì mỗi
trào lưu, ngay cả trào lưu tiến bộ nhất đều có cơ quan báo chí của mình” [80tập
6, tr.241]. Như vậy là, báo chí có vai trị to lớn, nhưng báo chí ln ln mang
bản chất chính trị, nó là đại diện là tiếng nói của một chính đảng xác định cụ


15
thể và là công cụ đấu tranh tư tưởng quan trọng của đảng chính trị phục vụ cho
các lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp mà chính đảng ấy là đại diện.

1.1.1.2. V. I. Lê-nin
Trong điều kiện lịch sử mới của cách mạng Nga, V.I.Lênin đã kế thừa,
phát triển sáng tạo nhiều quan điểm của Chủ nghĩa Mac về vai trị của báo chí
đối với cách mạng, đối với các hoạt động của Đảng cộng sản và nhà nước của
giai cấp vô sản Nga. V.I. Lê-nin từng nhấn mạnh: “ … điểm xuất phát của hoạt
động, bước thực tiễn đầu tiên…” của những người cách mạng Nga “…phải là
việc thành lập tờ báo chính trị tồn Nga. Chúng ta cần trước hết là tờ báo, ⎯
khơng có nó thì khơng thể tiến hành được một cách có hệ thống cuộc tuyên
truyền cổ động hết sức có nguyên tắc và tồn diện. Đó là nhiệm vụ chủ yếu và
thường xuyên của phong trào dân chủ - xã hội nói chung, và đó là nhiệm vụ
đặc biệt cấp bách trong lúc này, lúc mà sự lưu ý đến chính trị, đến những vấn
đề xã hội chủ nghĩa đã được nhóm lên trong các tầng lớp nhân dân rộng rãi
nhất” [119, tr 10].
Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, khi đề cập vai trị của báo chí, V. I.
Lê-nin nhấn mạnh rằng: “Báo chí phải làm cơng cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội;
báo chí phải giới thiệu hết sức tỉ mỉ những thành công của các công xã kiểu mẫu,
phải nghiên cứu những nguyên nhân thành công, những phương pháp làm việc và
quản lý của các công xã đó; mặt khác, báo chí sẽ đưa lên “bảng đen” những công
xã nào cứ khư khư giữ những “truyền thống của chủ nghĩa tư bản” nghĩa là những
truyền thống vô chính phủ, lời biếng, vơ trật tự, đầu cơ” [120].
Nghiên cứu vai trị của truyền hình nói riêng, báo chí nói chung trong
HĐLP của quốc hội, luận điểm này của V. I. Lê-nin có ý nghĩa quan trọng,
khơng chỉ về phương pháp luận mà còn cả trong phương thức thực hiện nhiệm
vụ của mình. Theo đó, cần nghiên cứu để phát hiện và để “giới thiệu hết sức tỉ
mỉ” nguyên nhân của những thành công, phê phán các nguyên nhân dẫn đến
khơng thành cơng, thiếu sót liên quan đến hoạt động của cacst tổ chức cơ quan
nhà nước, quốc hội nói chung và HĐLP của quốc hội nói riêng.


16

1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa và phát triển các quan điểm cốt lõi của
Chủ nghĩa Mác - Lênin về báo chí, vai trị của báo chí trong các hoạt động của
nhà nước. Qua đó có thể rút ra những giá trị khoa học-thực tiễn đối với hoạt
động của báo chí, báo chí truyền hình trong hoạt động của nhà nước, HĐLP
của Quốc hội.
Trong Thư gửi Hội nghị thơng tin tun truyền tồn quốc 1949, sau khi
biểu dương “Nhiều nơi có sáng kiến dùng những cách thức phổ thông để tuyên
truyền, như kịch, vè, ca dao, v.v..” để đưa thông tin đến với quần chúng nhân dân,
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những khuyết điểm của thơng tin, tun truyền và báo chí.
Người nhắc nhở rằng anh em đã có lúc “…quên nhiệm vụ của mình là tun
truyền, cổ động, giải thích và huấn luyện cho nhân dân”. Thơng tin tun truyền
cịn có biểu hiện “máy móc, khơng biết áp dụng theo hồn cảnh thiết thực”,
tuyên truyền không sát thực tế “… mà hay nói những lý luận viển vơng” [70, tr
480].
Đây thực sự là những gợi mở hết sức có ý nghĩ đối với nghiên cứu vai
trog báo chí truyền hình đối với HĐLP của quốc hội.
Trong Thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng (1949), nhân lớp học
khai mạc, Hồ Chí Minh nêu ra một cách ngắn gọn, đầy đủ mục đích nhiệm vụ, tơn
chỉ và đối tượng phục vụ của báo cách mạng Việt Nam. Theo đó Người chỉ rõ: “1.
Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục, và tổ chức
dân chúng, để đưa dân chúng đến mục đích chung”. “2. Mục đích của báo chí là
mục đích của cách mạng …”. “3. Tơn chỉ của tờ báo là đoàn kết toàn dân, thi đua
ái quốc”. Từ những điều ấy, Người khẳng định: Đối tượng của báo chí là đại đa
số dân chúng. Nếu báo chí “… khơng được đại đa số dân chúng ham chuộng, thì
khơng xứng đáng là một tờ báo. Muốn được dân chúng ham chuộng, coi tờ báo
ấy là tờ báo của mình” thì “Nội dung tức là các bài báo phải giản đơn, dễ hiểu,
phổ thông, thiết thực …” [71, tr 102].



17
Tóm lại, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh
đã đặt nền móng cho lý luận báo chí cách mạng vơ sản, trong đó có lý luận về
vai trị báo chí cách mạng đối với sự vận động trong thực tế của quá trình cách
mạng vô sản và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là những tiền đề lý
luận quan trọng cho nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại giữa báo chí,
truyền hình với hệ thống chính trị, nhà nước nói cung, quốc hội và HĐLP của
quoocss hội nói riêng.
1.2. Các nghiên cứu ở nước ngồi về vai trị báo chí với HTCT
1.2.1. Về vai trị của báo chí hiện đại
“Cơ sở lý luận của báo chí” [45]. của E.P.Pơkhơrốp (2011) có thể được
coi là tài liệu cung cấp những kiến thức cơ bản có hệ thống về báo chí. Trong
đó, tác giả trình bày vấn đề chung nhất về lý luận nghiệp vụ báo chí và những
đặc thù của hoạt động báo chí với tư cách là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo.
Cuốn sách cung cấp nhiều thơng tin quan trọng liên quan đến q trình phát
triển của báo chí; bản chất của thơng tin đại chúng; vị trí, vai trị và chức năng
của báo chí trong xã hội và mối quan hệ báo chí với phát triển xã hội; các quan
điểm và nguyên tắc hoạt động báo chí nói chung và đối với các nhà báo nói
riêng; tự do báo chí và trách nhiệm của nhà báo; phương diện pháp lý của tự do
báo chí... Một số nội dung được đề cập trong cuốn sách này có giá trị tham khảo
hữu ích đối với NCS trong củng cố cơ sở lý thuyết của luận án.
Trong Truyền thơng chính sách và năng lực tiếp nhận của cơng chúng,
tác giả Jeong Se-Hoon đã chỉ ra bốn yếu tố liên quan đến truyền thơng chính
sách cơng: một là, nguồn thông tin; hai là, thông điệp truyền thông; ba là, kênh
truyền tải và sau cùng là người nhận - công chúng truyền thông. Tác giả khẳng
định năng lực tiếp nhận thơng tin của cơng chúng đóng vai trị rất quan trọng
cả trong tương quan với 3 yếu tố còn lại, nhất là trong quan hệ vai trò của yếu
tố này đối với hiệu quả của truyền thơng chính sách [111, tr 134]. Trong khi
đó, tác giả Seung - Yong Uhm với Quy trình xây dụng sự đồng thuận chung về



18
tiến trình thống nhất Bán đảo Triều tiên - Điển hình của truyền thơng chính
sách xoay quanh cộng đồng (2019), đã khái quát tình hình của Đại Hàn Dân
quốc (Hàn Quốc), trong điều kiện chính phủ phải đối phó với các xung đột Nam
- Bắc, củng cố sự ủng hộ của cơng chúng cho các chính sách giải quyết nguy
cơ chiến tranh Triều tiên và tiếp cận với vấn đề thống nhất. Bài viết tập trung
vào kế hoạch hành động của chính phủ để xây dựng một sự đồng thuận trên
tồn quốc về cơng cuộc thống nhất đất nước, điều mà trên lý thuyết là vơ cùng
khó khăn. Bài viết cũng nhằm chia sẻ với Chính phủ Việt Nam và các học giả
Hàn Quốc những nỗ lực xây dựng sự đồng thuận xã hội trong các chương trình
nghị sự chính sách với một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất, vấn đề về sự
thống nhất bán đảo Triều Tiên. Đồng thuận xã hội đóng vai trị như một sự nỗ
lực được phân tích dưới góc nhìn cơng chúng về các chính sách nhà nước [111,
tr. 341]. Hai bài viết này sẽ cung cấp cho nghiên cứu sinh những giá trị tham
khảo với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên có một giá trị tham khảo quan trọng
là trong cả hai bài viết này đều đề cập vị trí, tầm quan trọng của cơng chúng
truyền thơng trong truyền thơng chính sách, tầm quan trọng của năng lực tiếp
nhận thông tin của cơng chúng đối với truyền thơng chính sách. Sự đồng thuận
của cộng đồng công chúng truyền thông đối với truyền thơng chính sách của
chính phủ. Đây thực sự là những kiến thức có thể tham khảo có giá trị đối với
các nghiên cứu về truyền thông các hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam.
Có thể khẳng định, các nghiên cứu trên đây đã có những cống hiến to trong
lý luận về báo chí truyền thơng và vai trị của báo chí truyền thơng với sự phát
triển xã hội của thế giới hiện đại. Đó là những cống hiến quan trọng vào hệ thống
lý luận báo chí truyền thơng hiện đại. Những cống hiến ấy có giá trị tham khảo rất
quan trọng đối với những nghiên cứu thuộc lĩnh vực báo chí truyền thơng xã hội
trong đề cập và luận chứng cho cơ sở lý thuyết, các khái niệm cơng cụ của các
cơng trình nghiên cứu ấy. Trong đó có luận án tiến sĩ mà NCS đang thực hiện.
1.1.2. Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước



19
Ngay trong điều kiện lịch sử của sự ra đời, xác lập từng bước nền dân
chủ tư sản, các chính phủ tư sản và cùng với đó là sự ra đời và phát triển của
báo chí xuất bản, khi đề cập mối quan hệ giữa chính phủ của giai cấp tư sản với
nhân dân, với xã hội, Ph.Ăngghen đã viết: “… điều rất tự nhiên là đối với chính
phủ, nó chỉ có thể địi những quyền và những tự do cho nó, dưới nhãn hiệu
những quyền và những tự do cho nhân dân” [79, tr. 143]. Luận điểm này đã thể
hiện rất rõ quan điểm của Ph.Ăngghen về một thực tế khách quan đang diễn ra:
chính quyền tư sản, ln luôn nhân danh những quyền và tự do cho nhân dân
để thực hiện những quyền và tự do cho giai cấp mà chính phủ ấy là đại diện giai cấp tư sản.
Trải qua khoảng ba thế kỷ tồn tại và phát triển, lý luận về dân chủ và
NNPQ tư sản đã có những bước tiến dài. Trong xã hội đương đại, các lý luận
ấy được vận dụng được áp dụng trên thực tế thông qua 3 hệ thống lý luận cơ
bản: học thuyết Rechtsstaat của Đức, Học thuyết Etat de droit của Pháp và Học
thuyết Rule of law của Anh.
- Học thuyết Rechtsstaat của Đức
Học thuyết Rechtsstaat ra đời giữa thế kỷ XIX đáp ứng nhu cầu cần có
một nhà nước vững mạnh để thống nhất nước Đức, đồng thời nhà nước này
phải tôn trọng tự do của các tầng lớp xã hội mới đang lớn mạnh. Chính nhu cầu
đó đưa tới quan niệm NNPQ. Theo đó, nhà nước đồng nhất, hoá thân vào một
người (vua) và người này chỉ có thể thi hành nhiệm vụ (thực thi quyền lực)
bằng phương tiện luật pháp và địi hỏi phải tơn trọng luật pháp. Quyền lực nhà
nước không phải là vô hạn mà nó phải bị hạn chế bằng pháp luật.
- Học thuyết Etat de droit của Pháp
Lý thuyết Etat de droit được du nhập từ Đức. Sau cuộc cách mạng tư
sản 1789, Pháp thay đổi hệ thơng pháp luật có trước, lập ra một thứ bậc pháp
luật rất chặt chẽ. Trên đỉnh cao tột cùng là “luật tự nhiên”, là những quyền tự
nhiên, không thể chuyển nhượng và thiêng liêng của con người. Tiếp đến là



×