Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học CAO cấp CHÍNH TRỊ, cơ sở lý luận và nội dung của quan điểm toàn diện sự vận dụng quan điểm toàn diện của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.87 KB, 19 trang )

MBTH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÊN MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
TÊN BÀI THU HOẠCH:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN
DIỆN. SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
PHẦN II: NỘI DUNG ........................................................................................... 2
1.Cơ sở lý luận và nội dung của quan điểm toàn diện - Nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến .......................................................................................................... 2
1.1.Khái niệm về mối liên hệ phổ biến ............................................................ 2
1.2.Các tính chất của mối liên hệ ..................................................................... 2
1.3.Quan điểm toàn diện................................................................................... 3
1.4. Những yêu cầu của quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay .................................................................................................................... 4
2.Sự vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay....................................................................................................... 8
3.Sự vận dụng quan điểm toàn diện của tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay
........................................................................................................................ 12


4. Sự vận dụng quan điểm toàn diện của huyện Xuân Lộc công tác phát triển
nông nghiệp bền vững ....................................................................................... 13
5.Liên hệ bản thân ............................................................................................. 14
PHẦN III: KẾT LUẬN ........................................................................................ 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 16


1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ở nước ta, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người giữ chức vụ
trong tổ chức của hệ thống chính trị các cấp, do bầu cử hoặc chỉ định giữ cương
vị lãnh đạo, điều hành, quản lý; những người quán triệt chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và trực tiếp ra quyết định lãnh đạo,
quản lý để triển khai, tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo nhân dân triển khai thực hiện
những chủ trương, đường lối đó trong hiện thực. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý còn là lực lượng tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định
chiến lược, kế hoạch, chủ trương, chính sách, bước đi, giải pháp thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các lĩnh vực, các địa phương và cả
đất nước. Do vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý có vị trí, vai trị rất quan trọng.
Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống,
mang lại thành cơng hay thất bại đều phụ thuộc vào vai trị to lớn của cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Để hoạt động lãnh đạo, quản lý có hiệu quả, địi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý phải có phương pháp luận nhận thức và hoạt động thực tiễn khoa
học.
Một trong những yêu cầu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn hiện nay phải quát triệt quan điểm toàn
diện vào trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình.
Vì vậy bản thân chọn chủ đề “Cơ sở lý luận và nội dung của quan điểm

toàn diện. Sự vận dụng quan điểm toàn diện của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch môn Triết học Mác LêNin.
Trong khuôn khổ chủ đề đặt ra, với sự vận dụng lý luận của bản thân sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định về trình bày bố cục bài thu hoạch,
nội dung lý luận chưa trọng tâm…, rất mong nhận được sự hướng dẫn và góp ý
từ q thầy, q cơ để hồn thiện hơn./.
Trân trọng cảm ơn!


2

PHẦN II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận và nội dung của quan điểm toàn diện - Nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến
1.1 .Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự nương tựa vào nhau, thâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố của một sự vật, một hiện tượng hay
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ tồn tại ở mọi sự vật,
hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Vì
thế giới là vật chất nên các sự vật, hiện tượng đều tồn tại, biến đổi theo các quy
luật của vật chất. Tính thống nhất vật chất của thế giới được thể hiện ở những
điểm cơ bản sau đây:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất có thuộc tính chung nhất là tồn tại khách quan. Tồn tại khách quan
là bản chất của thế giới vật chất, là cơ sở tạo nên tính thống nhất của thế giới.
Hai là, toàn bộ thế giới vật chất là một thể thống nhất không do ai sáng tạo
ra và khơng bao giờ mất đi. Các hình thức tồn tại của vật chất chỉ có thể chuyển
từ dạng này sang dạng khác.

Ba là, thế giới vật chất đều vận động và biến đổi theo những quy luật
chung nhất. Mặc dù mỗi lĩnh vực vật chất có những quy luật đặc thù nhưng tất cả
mọi sự vật đều vận động theo những quy luật phổ biến. Đó là những quy luật
chung của cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Thế giới vật chất thống nhất trong chu
trình vận động và chuyển hóa vĩnh viễn. Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
hiện tại tác động qua lại với nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của
nhau.
1.2 .Các tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan: mối liên hệ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người, chỉ phụ thuộc vào bản thân sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là mối liên
hệ vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng.
Tính phổ biến: mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy; có ở
mọi lúc, mọi nơi.


3

Tính đa dạng, phong phú: có rất nhiều mối liên hệ khác nhau phụ thuộc
vào góc độ xem xét: có mối liên hệ bên trong - bên ngoài, mối liên hệ bản chất không bản chất, mối liên hệ tất yếu - ngẫu nhiên, mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu,
mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp,... Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng
trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chính sự vật và hiện tượng quy định.
Dĩ nhiên, sự phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, do góc độ
của sự xem xét, đánh giá và các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa lẫn
nhau. Ví dụ cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này, nhưng lại là tất
nhiên, khi xem xét trong mối quan hệ khác. Mặt khác, trong quá trình vận động,
phát triển mối liên hệ ngẫu nhiên có thể chuyển hóa thành tất nhiên và ngược lại.
Các loại liên hệ khác nhau có vai trị khác nhau đối với sự vận động, phát
triển của sự vật và hiện tượng. Ví dụ, giữa mối liên hệ bên trong và mối liên hệ
bên ngoài, mối liên hệ bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, còn mối
liên hệ bên ngồi khơng có ý nghĩa quyết định, thậm chí nó phải thơng qua mối

liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng.
Như vậy, sự liên hệ tác động qua lại của sự vật, hiện tượng trên thế giới rất
phong phú, đa dạng và phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính
phức tạp của sự liên hệ được nhân lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của
vơ vàn các hoạt động có mục đích, có ý thức của con người. Chính vì vậy, nhận
thức và phân loại đúng đắn các mối liên hệ trong xã hội khó khăn hơn nhiều so
với trong giới tự nhiên.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho ta hiểu tính đa dạng, phức tạp về
mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng. Những mối liên hệ đó bộc lộ thuộc tính,
tính chất của các sự vật, hiện tượng. Do đó, muốn nhận thức đúng bản chất của
sự vật, hiện tượng phải thông qua mối liên hệ của nó với sự vật, hiện tượng khác.
1.3 .Quan điểm toàn diện
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của phép biện chứng duy vậy. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chỉ ra
rằng, mọi sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn
nhau. Vì vậy, muốn nhận thức được sự vật, hiện tượng phải xem xét tất cả các
mặt, các mối liên hệ giữa các yếu tố, các bộ phận trong sự vật đó và giữa các sự


4

vật, hiện tượng với nhau.
Nội dung chính của quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều mối quan hệ của nó.
Thực hiện điều này sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc hạn chế được sự phiến
diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải
quyết các tình huống thực tiễn, nhờ đó tạo ra khả năng nhận thức đúng được sự
vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý chính xác, có hiệu quả đối với các vấn
đề thực tiễn.

1.4. Những yêu cầu của quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay
Một là, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng phải xem
xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, thuộc
tính khác nhau của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật,
hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Bởi vì bản chất của sự vật, hiện tượng
được hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua mối liến hệ giữa chúng với các sự
vật, hiện tượng khác.
V.I.Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự
vật đó. Chẳng hạn, kinh tế và chính trị tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau. Xem xét vấn đề chính trị mà khơng tính đến các quy luật kinh tế khách
quan sẽ dẫn đến chủ quan duy ý chí, xem thường các quy luật khách quan.
Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến kinh tế, xem nhẹ vai trị của chính trị sẽ dẫn đến
chủ nghĩa duy kinh tế, khơng thấy được tính tích cực của chính trị. Chính trị và
kinh tế có mối quan hệ biện chúng với nhau, kinh tế thay đổi thì chính trị cũng
thay đổi, nhưng không phải mọi sự thay đổi của kinh tế đều dẫn đến sự thay đổi
của chính trị, chính trị cũng có quy luật vận động, biến đổi của riêng nó.
Mặt khác, quan điểm tồn diện cũng u cầu phải nhận thức sự vật trong
tính chỉnh thể của nó, trong tính nhiều mặt và sự tác động qua lại quy định lẫn
nhau, chi phối lẫn nhau của chúng. Sự vật trong thực tế tồn tại với tư cách như


5

một chỉnh thể. Nó khơng phải là “tổng số đơn giản” các mối liên hệ mà là tổng
số các mối liên hệ hữu cơ, có sự tác động qua lại quy định, chi phối lẫn nhau. Có
nhận thức sự vật trong tính chỉnh thể thì mới nhận thức đưực sự vật, nhận thức
được bản chất của sự vật.

Từ khi đổi mới đất nước, với quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ quốc tế, Việt Nam đã hội nhập quốc tế sâu rộng. Năm 1992, chúng ta đã nối
lại được quan hệ với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB); năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN); năm 1996 tham gia Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu với tư cách là thành viên
sáng lập; năm 1998, Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức của APEC
(Diễn đàn Họp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương).
Sau hơn 35 năm đổi mới hội nhập quốc tế, đến nay Việt Nam đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn; có
quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức
của tất cả các tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài chính
chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới. Điều đó chững tỏ tính đúng đắn và
sáng tạo trong các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong thời đại hiện nay, việc nhận thức sâu sắc quan điểm, đường lối của
Đảng về hội nhập quốc tế cũng là tiền đề cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ra
quyết định phù họp, mở ra khả năng hợp tác cho các tỉnh, thành phố trong hội
nhập quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng giao lưu hợp tác văn hóa,
tiếp thu thành tựu khoa học cơng nghệ trong lao động sản xuất... Bên cạnh đó, để
hoạt động lãnh đạo, quản lý có hiệu quả, người cán bộ phải nắm chắc đặc điểm
kinh tế, xã hội, văn hóa, lối sống, truyền thống, phong tục tập quán, con người ở
địa phương mình thì mới ban hành được những quyết định lãnh đạo, quản lý
đúng đắn, phù hợp. Ngoài ra, phải biết đặt địa phương mình vào trong tổng thể
liên kết một vùng, miền để tạo ra hệ thống đồng bộ, thống nhất.
Hai là, quan điểm toàn diện chỉ ra rằng, sự vật, hiện tượng tồn tại trong
mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trị của các mối liên hệ không “ngang


6


bằng” nhau. Do vậy, trong vô vàn các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng phải
nắm được mối liên hệ chủ yếu, bản chất, quy định sự tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng để tìm ra xu hướng, cách thức, cơ chế tác động cho sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng.
Trong những năm đổi mới, việc nhận thức và giải quyết những mối quan
hệ lớn thể hiện rõ quan điểm toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta
cho rằng, những mối quan hệ lớn góp phần xác định quy luật và tính quy luật của
đổi mới và phát triển đất nước, đồng thời làm rõ hơn những đặc trưng bản chất
của chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự hồn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tạo ra động lực của đổi mới và
phát triển toàn diện đất nước trong thời kỳ mới. Trong các mối quan hệ lớn đó,
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị giữ vai trị trung tâm, cơ
bản bởi việc giải quyết mối quan hệ này sẽ quyết định tới việc giải quyết các mối
quan hệ khác.
Ở mỗi địa phương, cơ sở, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng cần biết
xác định rõ thế mạnh của từng vùng, miền để ra quyết định, lãnh đạo, quản lý.
Hiện nay, việc thực hiện Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) theo
Quyết định số 490/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 7-5-2018
đang góp phần thúc đẩy phát triển thế mạnh nông sản ở các vùng miền trên địa
bàn cả nước ta, cũng là tinh thần của quan điểm toàn diện.
Ba là, quan điểm toàn diện chỉ ra rằng, nhận thức của con người về sự vật,
hiện tượng cũng chỉ mang tính tương đối, khơng đầy đủ, trọn vẹn. Bởi lẽ, trong
quá trình vận động, phát triển, sự vật, hiện tượng không phải lúc nào cũng bộc lộ
hết các thuộc tính ra bên ngồi. Mặt khác, bản thân chủ thể nhận thức lại luôn bị
giới hạn bởi những điều kiện xã hội, lịch sử gắn với nhu cầu thực tiễn và mục
đích của con người. Nhận thức rõ điều này, chúng ta sẽ tránh tuyệt đối hoá tri
thức về sự vật, hiện tượng và tránh coi những tri thức đã có là những chân lý bất
biến, tuyệt đối, cuối cùng về sự vật, hiện tượng mà không bổ sung phát triển nữa.
Yêu cầu cần thiết phải xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm



7

phải sai lầm và sự cứng nhắc.
Khơng có một đường lối, chính sách, quyết định lãnh đạo, quản lý ln
đúng khi thực tiễn đã thay đổi. Do vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn
nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý thông qua việc học tập, đào tạo, tu dưỡng
rèn luyện, nhất là bồi dưỡng năng lực tư duy lý luận để có tư duy khái quát, hệ
thống, tư duy chiến lược trong việc xây dựng, ban hành các quyết định quản lý
đúng đắn, phù hợp với thực tiễn.
Quan điểm toàn diện chống quan điểm phiến diện, chiết trung và ngụy


biện.

8

Phiến diện là chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt kia; khơng đảm bảo
tính đồng bộ; khơng thấy được vị trí, vai trị khác nhau của các mối liên hệ.
Những năm qua, nhiều tỉnh, thành trong cả nưởc đã thu hút các dự án đầu
tư mà khơng tính tới các vấn đề về môi trường, an sinh xã hội và các vấn đề xã
hội khác. Những dự án có quy mô lớn đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
đem lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế và đời sống của nhân dân. Ngoài ra,
những hệ lụy mà nó mang lại, như: nơng dân bị thu hồi đất sản xuất, tình trạng
thừa lao động, thiếu việc làm vẫn là những vấn đề khó giải quyết hiện nay. Do
vậy, đây vẫn là vấn đề rất căn bản trong việc thay đổi tư duy, nhận thức cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
Quan điểm toàn diện cũng hoàn toàn xa lạ với chiết trung và ngụy biện.
Thực chất của chiết trung là kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan những cái
mà về nguyên tắc là không thể kết hợp được hoặc coi những mối liên hệ là

“ngang bằng” nhau, khơng có sự phân biệt về vai trò của chúng. Trong lãnh đạo,
quản lý, những người có tư tưởng chiết trung thường thể hiện ra là những người
thiếu chính kiến, thiếu bản lĩnh, lập trường, khơng có thái độ rõ ràng trong lời
nói và việc làm. Một bệnh nguy hiểm nảy sinh từ những người chiết trung là chủ
nghĩa cơ hội. Người cơ hội về chính trị thường tung hơ, ca ngợi những thành tích
của tổ chức, cơ quan, nhưng lại nhấn mạnh những sai lầm, khuyết điểm của cơ
quan, tổ chức ấy. Những người cơ hội thường dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển


hóa” gây tổn hại cho tổ chức, cho cách mạng.
Trong đánh giá, bình xét, sử dụng cán bộ, người cán bộ lãnh đạo, quản lý
nếu lấy yêu cầu về phẩm chất, trình độ, năng lực của người này để xem xét, đánh
giá người khác là quan điểm chiết trung. Điều này không chỉ đánh giá sai con
người, năng lực của mỗi cán bộ và còn hạn chế sự phát triển một cá nhân, kìm
hãm sự phát triển, làm mất động lực của một cơ quan, tổ chức.
Ngụy biện là lối tư duy đánh tráo một cách có chủ đích vị trí, vai trị của
các mối liên hệ, coi cái khơng cơ bản là cái cơ bản, cái không bản chất là cái bản
chất... Người lãnh đạo, quản lý mắc bệnh này sẽ biểu hiện ra là người độc đoán,
chuyên quyền hoặc những người yếu năng lực lãnh đạo phải nịnh nọt, bợ đỡ. Khi
thấy cái sai của người không cùng phe cánh thì lợi dụng trù dập, nói xấu, kỷ luật
nặng, “nâng quan điểm”; đối với cái sai của những người cùng phe cánh thì xuề
xịa bỏ qua hoặc chỉ rút kinh nghiệm. Trong công tác, họ luôn tỏ ra là người cấp
tiến, ưa cái mới, họ ln tìm mọi cách để lập luận cho những quan điểm, chính
sách mới của mình để nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Trong đánh giá
cán bộ, người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngụy biện không công tâm, khách quan.
Họ thường ngụy biện, sẽ dẫn đến đánh giá sai năng lực, phẩm chất của người cán
bộ. Nhận thức rõ điều này cũng góp phần vào việc đấu tranh chống lại những tư
tưởng sai trái, để bảo vệ cán bộ tốt, bảo vệ quan điểm, đường lối đúng.
Chiết trung và ngụy biện có vẻ như tồn diện, nhưng thực chất là đối lập
với quan điểm toàn diện. Chiết trung và ngụy biện đều là những biểu hiện khác

nhau của phương pháp luận sai lầm trong việc xem xét các sự vật hiện tượng.
Nói về sự khác nhau này, V.I.Lênin viết: “Tính linh hoạt đó áp dụng một cách
chủ quan bằng chủ nghĩa chiết trung và ngụy biện. Tính linh hoạt áp dụng một
cách khách quan, nghĩa là phản ánh tính tồn diện của quá trình vật chất và là sự
thống nhất của q trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính xác
sự phát triển vĩnh viễn của thế giới”.
2. Sự vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay


Ngay từ chủ đề Đại hội XIII trong Báo cáo chính trị đã thể hiện rất rõ
quan điểm tồn diện, đó là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát
huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại;
tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa
thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
Có thể nhận thấy, Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay đã quán triệt, vận
dụng quan điểm toàn diện trong sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng tại Đại hội XIII
trên tất cả các lĩnh vực. Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng ta
quán triệt thực hiện nguyên tắc tồn diện, tuy nhiên chúng ta khơng thực hiện rập
khn mà có sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách trọng
điểm”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải đổi mới toàn diện các lĩnh
vực của đời sống xã hội; chú trọng tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công
bằng xã hội, giải quyết những vấn đề của xã hội; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa, đi tới bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; vừa chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, an ninh quốc phịng…trong đó xác định
phát triển kinh tế là trọng tâm, anh ninh quốc phòng là trọng yếu, chính trị là
quan trọng, xây dựng đảng là then chốt...

Chính vì áp dụng quan điểm tồn diện vào hoạt động trong các lĩnh vực,
lĩnh vực bên trong của mỗi lĩnh vực nên chúng ta đã phát triển có trọng tâm,
trọng điểm, khơng cào bằng các lĩnh vực vì thế đã đạt được những thành tựu
rất quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực.
Về mặt kinh tế:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được
khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội”.


Ngay trong việc phát triển kinh tế, quan điểm toàn diện cũng được Đảng ta
áp dụng thể hiện cụ thể ở việc thực hiện phát triển chính sách kinh tế nhiều thành
phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là
Nhà nước vẫn thừa nhận vai trị tích cực của các thành phần kinh tế khác cũng
như thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, trong đó Đảng
ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu cơng cộng với vai trị
chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị trường.
Giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta vẫn tuân thủ nguyên tắc trên
song song đó là sàng lọc, lựa chọn và giữ nguyên các tập đoàn quốc doanh kinh
doanh có hiệu quả đồng thời xóa bỏ các tập đoàn, doanh nghiệp quốc doanh làm
ăn kém hiệu quả gây hệ lụy xấu cho toàn bộ nền kinh tế.
Về An ninh, Quốc phịng:
Tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các
Nghị quyết về an ninh, quốc phòng của Đảng. Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch;
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đòi đa nguyên, đa đảng, “phi chính trị hóa” lực

lượng vũ trang của các thế lực thù địch; ứng phó có hiệu quả với các tình huống,
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng tội phạm..., góp
phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao tiềm lực,
uy tín, vị thế quốc tế của đất nước. Các khu vực phòng thủ được quan tâm xây
dựng cả về chiều rộng và chiều sâu; lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh,
tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường... tăng thêm khả năng ngăn
chặn, loại trừ nguy cơ xung đột, chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các
tình huống quốc phòng, an ninh, xâm phạm an ninh quốc gia.
Quan điểm toàn diện được thể hiện rõ qua những văn kiện Đại hội lần thứ
XIII, tiếp tục xem xét mọi mặt, mọi lĩnh vực để xác định mục tiêu, trọng điểm
của các vấn đề, để khi đem ra thực tiễn áp dụng sẽ mang lại hiệu quả cao nhất.
Chúng ta “Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với
quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang”
Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh
tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an


ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu
quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ
Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ,
chương trình, kế hoạch cụ thể”.
Về chính trị:
Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao
năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng, Nhà nước phải được
xây dựng thành Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội
bằng pháp luật. Nước ta đã và đang xây dựng một nền hành chính nhà nước dân

chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức trong sạch, có năng lực.
Đổi mới chính trị thể hiện ở đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, phân cấp
lãnh đạo của Đảng, dân chủ hóa trước hết từ trong Đảng. Đổi mới chính trị, tạo
điều kiện cho đổi mới kinh tế. Khi đường lối chính trị, thiết chế chính trị được
đổi mới phù hợp với u cầu phát triển kinh tế thì chính trị trở thành định hướng
cho phát triển kinh tế. Đồng thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự để
phát triển kinh tế và chính trị cịn đóng vai trị can thiệp điều tiết, khắc phục
những mặt trái do đổi mới kinh tế đưa đến.
Về văn hóa, xã hội
Đảng ta coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối
với sự phát triển của đất nước. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Cùng với sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, Đảng ta chủ trương
giải quyết tốt các vấn đề xã hội coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản
chất ưu việt của chế độ ta.
Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế
với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục


3. Sự vận dụng quan điểm toàn diện của tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn
hiện nay
Với phương châm: “Đoàn kết - dân chủ - kỷ cương - sáng tạo ”, Đại hội
XI Đảng bộ tỉnh (nhiệm kỳ 2020-2025) xác định các nhiệm vụ trọng tâm nhằm
tăng cường xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; phát huy các giá trị văn hóa và sức mạnh đại đồn kết tồn dân; khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; bảo đảm quốc phòng an ninh; xây dựng
tỉnh Đồng Nai phát triển toàn diện.
Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh đã xác định mục tiêu tổng quát của
Đồng Nai là: Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh đại đồn kết tồn dân, ý chí và khát vọng phát triển; đẩy mạnh ứng
dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tích cực, chủ động tham gia cuộc
Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư; khai thác và sử dụng hiệu quả mọi nguồn
lực; phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế; nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh;
phát triển kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; giữ vững ổn định
chính trị-xã hội, bảo đảm vững chắc quốc phịng-an ninh; xây dựng Đồng Nai
phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội; là trung tâm công nghiệp và dịch vụ cảng
hàng không, cảng nước sâu, cửa ngõ giao thương quốc tế; một trong những cực
tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước vào
năm 2025 và thuộc nhóm đầu các tỉnh phát triển.
Đồng thời, Đảng bộ tỉnh đã xác định các lĩnh vực đột phá trong 5 năm
tới là, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của
đảng viên và trách nhiệm của người đứng đầu ở các cấp ủy, chính quyền, các cơ
quan ban, ngành, đồn thể chính trị-xã hội các cấp.
Tỉnh huy động các nguồn lực tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu
hạ tầng đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là hạ tầng giao thông đô thị, nông thôn và
giao thông kết nối với vùng.
Đồng Nai tập trung phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường tiêu thụ sản


phẩm; công nghiệp chế biến sâu nông sản và các dịch vụ nông nghiệp để nâng
cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; phát triển thương mại, dịch vụ tổng
hợp hiện đại mà tỉnh có lợi thế, trọng tâm là dịch vụ du lịch, dịch vụ logistics.
4. Sự vận dụng quan điểm toàn diện của huyện Xuân Lộc công tác phát
triển nông nghiệp bền vững
Huyện Xuân Lộc nằm ở phía Đơng Nam tỉnh Đồng Nai, huyện được
thành lập vào ngày 01/07/1991. Huyện Xuân Lộc gồm 15 đơn vị hành chính,

trong đó có một thị trấn Gia Ray và 14 xã với tổng số 91 khu, ấp. Xuân Lộc có
thuận lợi là cửa ngõ của miền Đơng Nam bộ và thành phố Hồ Chí Minh nằm dọc
trên quốc lộ 1A, dài 47 km; có đường sắt Bắc - Nam đi qua dài 33 km với 3 ga
nhỏ; 3 đường Tỉnh lộ 763, 765, 766. Trung tâm huyện đóng tại ngã ba Ông Đồn
là đầu mối của các tuyến giao thơng quan trọng trong khu vực, tạo cho Xn Lộc
có ưu thế và phát triển kinh tế hướng ngoại với các thế mạnh về nông nghiệp,
dịch vụ, công nghiệp, đồng thời đóng vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế
của tỉnh Đồng Nai và mở rộng mối giao lưu giữa Đồng Nai với các tỉnh duyên
Hải Nam Trung bộ và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Những năm gần đây, huyện Xuân Lộc đang hướng đến phát triển nông
nghiệp bền vững bằng những mơ hình kinh tế hiệu quả. Trong đó, xây dựng chuỗi
liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản được xem là nhiệm vụ hàng đầu.
Với vai trò định hướng, hỗ trợ và tạo sự liên kết giữa nông dân với doanh
nghiệp cung cấp và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, thời gian qua, các cấp ủy,
lãnh đạo huyện Xuân Lộc rất quan tâm đến việc vận dụng các chính sách ưu đãi
của Nhà nước đối với sản xuất, tiếp sức cho nông dân phát triển theo mơ hình
chuỗi liên kết.
Là huyện có thế mạnh về phát triển hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác, câu lạc
bộ năng suất cao trong sản xuất nông nghiệp bao gồm cả chăn nuôi và trồng trọt,
huyện Xuân Lộc trở thành nơi có nguồn cung cấp nơng sản lớn cho thị trường
trong nước và xuất khẩu. Một số mặt hàng nông sản như: sầu riêng, chơm chơm,
xồi, bưởi và các loại gia súc, gia cầm…được sản xuất theo hướng an toàn, đạt
chuẩn Vietgap.
Để sản phẩm của nơng dân có đầu ra ổn định, cùng với những chính sách
hỗ trợ của tỉnh nhằm khuyến khích phát triển hợp tác liên kết sản xuất, gắn với
tiêu thụ nông sản xây dựng cánh đồng lớn, Xuân Lộc đã tổ chức hướng dẫn, hỗ
trợ các HTX tham gia xây dựng chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm
theo hướng cánh đồng lớn.



Tham gia chuỗi liên kết, nơng dân có cơ hội chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm và tiếp cận nhanh những ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới, thực hiện quy
trình sản xuất theo hướng an tồn, nâng cao chất lượng và giá trị kinh tế cho sản
phẩm nông nghiệp, đồng thời được Nhà nước hỗ trợ tổ chức và tham gia các hội
chợ xúc tiến thương mại để quảng bá sản phẩm và tìm kiếm đối tác hợp tác kinh
doanh.
Theo Phó chủ tịch UBND huyện Xuân Lộc Nguyễn Văn Linh, đến nay
trên địa bàn huyện đã có 11 dự án chuỗi liên kết hình thành, trong đó có 6 dự án
chuỗi liên kết đã được UBND tỉnh phê duyệt do HTX làm chủ đầu tư. Để nơng
dân tìm đầu ra cho sản phẩm và gặp gỡ các đối tác trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, huyện đã phối hợp với các cơ quan: Liên minh HTX tỉnh, Trung tâm xúc
tiến thương mại (Sở Công thương), Sở Khoa học - công nghệ tham gia các hội
chợ xúc tiến thương mại, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm của mình.
Các dự án chuỗi liên kết hoạt động hiệu quả, quy trình sản xuất và đầu ra
cho sản phẩm của nông dân được bảo đảm, một số sản phẩm được bán rộng rãi
thị trường trong nước và đứng được trên thị trường ngoài nước như: Trung Quốc,
Đài Loan, Ấn Độ…
Một số dự án chuỗi liên kết hoạt động hiệu quả của huyện như: dự án
chuỗi liên kết bắp, lúa của HTX thương mại dịch vụ nông nghiệp Xuân Tiến; dự
án chuỗi liên kết sầu riêng của HTX thương mại dịch vụ nông nghiệp Xuân Định;
dự án chuỗi liên kết xồi của HTX nơng nghiệp dịch vụ thương mại và du lịch
Suối Lớn... Hầu hết các chuỗi liên kết đều có sản phẩm nơng nghiệp chất lượng
cao, thu hút sự đầu tư hợp tác của các doanh nghiệp trong và ngồi nước, trong đó
có Cơng ty TNHH thương mại dịch vụ sản xuất và chăn nuôi Thanh Đức là doanh
nghiệp điển hình ứng dụng cơng nghệ cao trong sản xuất trứng gà tiêu thụ trong
nước và xuất khẩu.
5. Liên hệ bản thân
Sau khi nghiên cứu quan điểm toàn diện – Nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của môn Triết học Mác – Lê Nin. Bản thân nhận xét về một người nào đó thì
khơng thể có cái nhìn phiến diện ở vẻ bên ngoài. Cần chú ý đến các yếu tố khác

như bản chất con người, các mối quan hệ của người này với người khác, cách cư
xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Chỉ khi hiểu hết về người đó bản
thân mới có thể đưa ra các nhận xét, đánh giá.
Bản thân tham gia Cấp ủy của cơ quan. Khi tham gia công tác quy hoạch
nhân sự cho cấp ủy, chính quyền cơ quan cần đánh giá, phân tích tồn diện
những ưu nhược điểm của cán bộ, đảng viên ở tất cả các phương diện: Về tư


tưởng chính trị; Về phẩm chất đạo đức, lối sống; Về thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao; Về ý thức tổ chức kỷ luật; Kết quả phát huy những ưu điểm trước
đó, khắc phục và sửa chữa các khuyết điểm, yếu kém; Hạn chế, khuyết điểm,
nguyên nhân; Phương hướng và biện pháp khắc phục, sửa chữa yếu kém, khuyết
điểm trong thời gian tới. Đáng giá cán bộ, Đảng viên phải thật sự dân chủ, tồn
diện, cơng tâm, khách quan.
Cơ quan công tác thực hiện dạy nghề cho lao động nông thôn, giáo dục
thường xuyên. Hiện nay cơ quan thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong tình hình
dịch COVID-19 đang được kiểm soát. Bản thân tham mưu với Ban Giám đốc
Trung tâm các vấn đề chuyên môn, các hoạt động như: Tổ chức có hiệu quả việc
dạy học trực tuyến, dạy học trên truyền hình; Quan tâm cơng tác thực hiện, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên, các kỹ năng cần thiết để tiến hành dạy học trực tuyến,
hệ thống bài giảng chuẩn hóa, tạo mơi trường tương tác, tăng tính năng thích ứng
và trải nghiệm đối với người học, tăng cường khả năng tự học cho học viên. Lấy
người học là trọng tâm, bồi dưỡng kiến thức cho giáo viên quan trọng, tuân thủ
các nguyên tắc phòng dịch là ưu tiên hàng đầu.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Để xây dựng thành công CNXH, đảm bảo mục tiêu dân giàu nước mạnh
xã hội cơng bằng, dân chủ và văn minh, địi hỏi chúng ta phải có chủ trương đổi
mới tồn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội, phải kết hợp đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị. Coi kinh tế là trọng tâm, chính trị là quan trọng. Ngồi ra phải
xác định được các lĩnh vực then chốt, trọng yếu của đất nước.

Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay phải vận dụng quan điểm tồn diện vào các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như trong
công tác tham mưu cho Đảng, cho Nhà nước xây dựng và triển khai thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng. Những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm; các
khâu trọng yếu, then chốt, đột phá …mà Đảng, Địa phương đã đưa ra trong các
văn kiện, quyết định chỉ đạo, điều hành hoạt động nhà nước, xã hội đều đã vận
dụng một cách sâu sắc, đầy đủ quan điểm toàn diện được rút ra từ lý luận triết học
Mác – Lê Nin hàm chứa tính tồn diện, khoa học xác định được trọng điểm của
từng vấn đề, vai trò của các vấn đề trong thực tiễn khách quan, từ đó những nhà
lãnh đạo, quản lý sẽ có những quyết định chính xác, mang lại hiệu quả cao.


Quan điểm tồn diện góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để
thực hiện được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong
hoạt động của mình.
Nghiên cứu về quan điểm toàn diện sẽ chỉ ra những mặt, những mối liên
hệ cơ bản với nhau. Khi vận dụng một cách sâu sắc, đầy đủ quan điểm toàn diện,
chúng ta sẽ xác định các nội dung, trọng tâm, trọng điểm, cũng như việc coi trọng
giải quyết nó trong thực tiễn sẽ mang tính quyết định cho sự thắng lợi trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của Địa phương và bản thân của mọi người chúng
ta./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Triết học Mác –
LêNin (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb.Lý luận chính trị,
H.2021.
2. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật tập I, tập II.




×