Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

TÍNH HIỆN THỰC VÀ TÍNH LÃNG MẠN TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.11 KB, 23 trang )

********

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

TÍNH HIỆN THỰC VÀ TÍNH LÃNG MẠN
TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM


MỤC LỤC
TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………...1
2. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………………….1
3. Đối tượng nghiên cứu ………………………………………………………………1
4. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………...1
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu ………………………………………..2
NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN…………………………..3
1. Cơ sở lý luận ……………………………………………………………………….3
1.1. Văn học dân gian Việt Nam………………………………………………………3
1.2. Các thể loại tự sự dân gian………………………………...……………………...3
1.3. Tính hiện thực…………………………………………………………………….4
1.4. Tính lãng mạn…………………………………………………………………….5
2. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………………………………..5
Chương II: TÍNH HIỆN THỰC TRONG MỘT SỐ THỂ LOẠI TỰ SỰ
DÂN GIAN……………………………………………………………………………6
1. Thần thoại…………………………………………………………………………...6
2. Truyền thuyết…………………………….………………………………………....9
3. Cổ tích……………………………………………………..………………………11
4. Sử thi………………………………………………….…………………………...14
Chương III: CHƯƠNG III: TÍNH LÃNG MẠN TRONG MỘT SỐ THỂ LOẠI
TRUYỆN DÂN GIAN………………………………………………………………16


1. Truyền thuyết ……………………………...……………………………………...16
2. Cổ tích……………………………………………………….…………………….16
3. Sử thi………………………………………………………………………………17
KẾT LUẬN ………………………………………………………………..………..20
Tài liệu tham khảo ……………………………………………………………….…21


TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài:
-

Các tác phẩm truyện dân gian ngày càng ít được ưa chuộng và tuyên truyền,

nhiều người chưa thực sự hiểu được cốt lõi và giá trị của chúng
-

Ngày nay tài liệu truyện dân gian được sưu tập và xuất bản rất đa dạng phong

phú, vì thế việc nghiên cứu đặc điểm, nội dung là hết sức quan trọng
-

Đề tài này giúp mọi người có cái nhìn khách quan, chính diện về tính hiện thực

và tính nghệ thuật của truyện dân gian Việt Nam
2. Mục đích nghiên cứu:
-

Mong muốn tìm hiểu sâu hơn về các thể loại truyện dân gian Việt Nam

-


Biết được nguồn gốc, ngun do và q trình hình thành để từ đó nêu cao các

giá trị, phân tích được đặc điểm nổi bật, sâu sắc của tác phẩm truyện dân gian
-

có cái nhìn tồn diện, sâu rộng về bối cảnh, thể chế, cuộc sống con người qua

các truyện dân gian
-

Tránh được những hiểu lầm khơng đáng có

3. Đối tượng nghiên cứu: các thể loại, tác phẩm truyện dân gian Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu:
-

Đọc và phân tích tính chất một số thể loại truyện dân gian

-

Tham khảo tài liệu của các tác giả lớn, tìm hiểu những ảnh hưởng tác động đến

tính lãng mạn và tính hiện thực
-

So sánh giữa các tác phẩm và giữa các thể loại truyện dân gian

-


Tổng hợp và đưa ra ý kiến cá nhân

1


5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu:
-

Nắm được giá trị hiện thực và lãng mạn trong truyện dân gian

-

Trình bày so sánh được nét chung và riêng trong các tác phẩm truyện dân gian

Việt Nam.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Văn học dân gian Việt Nam:
Văn học dân gian Việt Nam là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản
phẩm của quá trình sáng tác tập thể thể hiện nhận thức, tư tưởng, tình cảm của nhân
dân lao động về tự nhiên, xã hội nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt
khác nhau trong đời sống cộng đồng.
1.2. Các thể loại tự sự dân gian:



Thần thoại: là loại hình tự sự dân gian thường kể về các vị thần, xuất hiện ở

thời cơng xã ngun thủy nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, thể hiện khát vọng
chinh phục tự nhiên của con người.
Ví dụ: Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thần Trụ trời, Thần Sét, Thần mưa, Nàng Bân,
Mười hai bà mụ, Cuộc tu bổ lại các giống vật,…


Truyền thuyết: là tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử

(hoặc có liên quan đến lịch sử) phần lớn theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện
sự ngưỡng mộ và tơn vinh của nhân dân đối với những người có cơng với đất nước,
dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng. Bên cạnh đó cũng có những truyền
thuyết vừa đề cao, vừa phê phán nhân vật lịch sử.
Ví dụ: Bánh chưng bánh dày, Thánh Gióng, Phù Đổng Thiên Vương, An Dương
Vương (Chuyện Rùa Vàng), Sơn Tinh Thủy Tinh, Sự tích Ngũ Hành Sơn, Yết Kiêu,
Quận He, Sự tích Hồ Gươm,…


Truyện cổ tích: là tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư

cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần
nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.
Ví dụ: Qụa và cơng, Vụ kiện châu chấu, Thằng Cuội cung trăng, Đá Vọng Phu, Trầu
cau, Cây khế, Tấm Cám, Sọ Dừa, Nàng tiên ốc, Trương Chi, Cái cân thủy ngân,…
3





Truyện ngụ ngôn: là tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, thơng

qua ẩn dụ (phần lớn là hình tượng lồi vật) để kể về những việc liên quan đến con
người, từ đó nêu lên triết lí nhân sinh hoặc những bài học kinh nghiệm về cuộc sống.
Ví dụ: Chuyện bó đũa, Ếch ngồi đáy giếng, Thầy bói xem voi, Người bán mũ và đàn
khỉ, Tấc đất tấc vàng…


Sử thi: là những tác phẩm tự sự dân gian có quy mơ lớn, sử dụng ngơn ngữ có

vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hồnh tráng, hào hùng để kể về một
hay nhiều biến cố lớn lao diễn ra trong đời sống cộng đồng của nhân dân thời cổ đại.
Nhân vật của sử thi mang cốt cách của cộng đồng, tượng trưng cho sức mạnh, niềm
tin của cộng đồng.
Ví dụ: Đẻ đất đẻ nước (Mường), sử thi Đăm San, sử thi khan – khan Êđê, Ẳm ệt
lng (Thái)…
1.3. Tính hiện thực:
Hiện thực hướng tới cung cấp cho công chúng nghệ thuật những bức tranh chân
thực, sống động, quen thuộc về cuộc sống, về môi trường xã hội xung quanh. Phản
ánh hiện thực có nghĩa là tìm ra giá trị nhận thức, đạo đức, thẩm mĩ của đời sống, bóc
trần những mặt tiêu cực, phơi bày những dối trá để đưa con người từng bước phát
triển trong tiến trình xã hội. Hiện thực trong văn chương là hiện thực của tư tưởng,
hiện thực của tinh thần. Chủ nghĩa hiện thực yêu cầu mô tả cuộc sống một cách lịch
sử - cụ thể, địi hỏi tính khách quan trong phản ánh, phải chân thực trong xây dựng chi
tiết nghệ thuật. Ở nước ta vai trò của chủ nghĩa hiện thực rất được đề cao do phù hợp
với sự giải phóng con người lao động, tiến đến xóa bỏ phân chia giai cấp. Những sáng
tác hiện thực chủ nghĩa thường mang giá trị hiện thực do đã mô tả cuộc sống xã hội
một cách chân thực, phơi bày những thực trạng xã hội đen tối. Bên cạnh đó, văn học
hiện thực cũng thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc khi lên tiếng bảo vệ những tầng
lớp bị áp bức, bóc lột. “Tính hiện thực là thuộc tính của tác phẩm văn chương bởi bất

kì nghệ sĩ nào cũng xuất thân từ một môi trường tự nhiên và xã hội nhất định, bất cứ
4


một tác phẩm nào cũng thoát thai từ một bối cảnh lịch sử - xã hội cụ thể. Do vậy, dù
vô thức hay tự giác, tác phẩm văn học vẫn là hình ảnh của cuộc sống.” (Nguyễn Thị
Hồng Hạnh, 2012: 143)
1.4. Tính lãng mạn:
Tính chất lãng mạn là một thuộc tính thẩm mĩ biểu hiện chủ yếu ở chỗ vươn lên trên
thực tại. Trong văn học, lãng mạn là một khuynh hướng được khởi nguồn từ sự khẳng
định cái tôi cá nhân, cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng.
Nó trở thành khuynh hướng văn học, trào lưu văn học, phương thức sáng tác. Việc
kiến tạo hình tượng nghệ thuật, nhân vật trung tâm ở văn học lãng mạn cịn mang tính
lý tưởng hóa đến mức hồn thiện, trịn trịa. Lãng mạn đề cao cái tơi cá nhân với
những tình cảm chủ quan của con người, xoa dịu những tổn thương và làm nhẹ tính
khắc nghiệt của cuộc sống bằng cách tìm đường đến sự tưởng tượng hư ảo, giải phóng
văn học khỏi bất cứ xiềng xích khn khổ cứng nhắc. Các ngun lí cơ bản của chủ
nghĩa lãng mạn bao gồm: đề cao mộng tưởng (con người muốn vươn lên thoát khỏi
cuộc sống làm họ tù túng chán ghét, tìm đến sự thỏa mãn “cái tôi” bị tổn thương của
con người), đề cao tình cảm (tình yêu của con người trên mọi phương diện cuộc sống,
được phản ánh sinh động nội tâm và chạm đến tâm hồn con người), đề cao sự tự do
(thoát li khỏi mọi ràng buộc để thỏa sức sáng tạo, biến hóa, thể hiện tư duy phát triển
của lồi người).
2. Cơ sở thực tiễn:
Qua quá trình lịch sử lâu dài và nhiều biến động, các tác phẩm tự sự dân gian cũng
thay đổi phần nào đó (do tính truyền miệng, tính dị bản…) nhưng bên trong mỗi lời
kể đều có yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Nhờ hai giá trị hiện thực và lãng mạn
này, nội dung truyện dân gian vẫn bảo tồn được thơng điệp truyền tải khá đầy đủ và
không bị quá sai lệch.


5


CHƯƠNG II: TÍNH HIỆN THỰC TRONG MỘT SỐ THỂ LOẠI TỰ SỰ
DÂN GIAN
1. Thần thoại:
“Thần thoại là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh
hùng thần linh, các nhân vật sáng tạo văn hóa thần linh, phản ánh quan niệm của con
người cổ về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội con người.” (Nguyễn Hùng Vĩ, 2004:
25).
Về sự ra đời của thần thoại, theo Nguyễn Đổng Chi: “Thần thoại chỉ có thể xuất hiện
vào lúc mà trình độ nhận thức của con người đã sáng sủa, óc trừu tượng và suy đốn
đã nảy nở, sinh hoạt tình cảm đã khá dồi dào. Nhờ đó họ đã biết sắp xếp cho có hệ
thống những ý nghĩ và tình cảm của mình để xây dựng thành những câu chuyện. Thần
thoại cũng chỉ có thể xuất hiện vào lúc mà tiếng nói của con người đã phát triển. Ngữ
vựng tuy còn nghèo nàn, ngữ pháp còn đơn giản nhưng đã đủ cho xã hội dùng vào
phô diễn sự việc.” (Nguyễn Đổng Chi, 1956: 25)
Thần thoại là toàn bộ những hoạt động nhận thức của con người trong hình thái xã hội
cơng xã ngun thủy, khi đó con người đặt ra các câu hỏi “tại sao?”, “như thế nào?”
về các sự vật, hiện tượng xung quanh. Thần thoại phản ánh một cách phức tạp, vừa
hiện thực vừa huyễn hoặc để con người nhận thức thực tại khách quan. Thần thoại nảy
sinh khi tư duy con người phát triển, có những hình thành về trí tưởng tượng nhờ thu
nhận những kinh nghiệm và nhu cầu thực tiễn trong lao động. Vào giai đoạn đầu trình
độ sản xuất vô cùng kém, con người cảm thấy sợ hãi trước thế giới tự nhiên đầy bí ẩn
và đe dọa, vì vậy họ sùng bái các lực lượng tự nhiên và thần bí hóa nó trong các câu
chuyện thần thoại. Nhưng theo thời gian, con người cũng có những bước tiến tới như
tập hợp thành một cộng đồng, giao tiếp bằng ngơn ngữ, trí tuệ con người ngày càng
được mở mang và họ bắt đầu nhận thức về thiên nhiên (chu kì mặt trời, mặt trăng; sự
6



luân chuyển các mùa; về vật nuôi và cây trồng…). Đến một lúc, con người có khát
khao to lớn là chinh phục tự nhiên, họ chọn những vị thần thể hiện ý chí, khát vọng
cũng như tiêu biểu cho sự phát triển phồn thịnh. Bên cạnh đó có những anh hùng là
hiện thân cho sức mạnh cộng đồng.
Con người trong q trình tồn tại và phát triển ln phải đương đầu với những khó
khăn từ hiện tượng thiên nhiên (mưa, gió, sấm, chớp, mặt đất, bầu trời, sự hoang vu
nguyên thủy…) hay những mối đe dọa từ thế giới động vật, con người dần dần tự tách
ra để trở thành một sinh vật đặc biệt. Nhưng khi ấy tư duy cịn hạn hẹp, con người
chưa thể lí giải một cách logic và khoa học được thế giới xung quanh mình, vì thế
phải nhờ đến lực lượng siêu nhiên là các vị thần - sản phẩm của đầu óc con người
tưởng tượng ra. Chính vì thế, có thể coi thần thoại là sợi dây liên kết tư duy con người
với hiện thực.
Tác giả Nguyễn Hùng Vĩ trong cuốn “Văn học dân gian Việt Nam” khẳng định:
“Chức năng cơ bản của thần thoại là chức năng nhận thức. Dù cho những tri thức
của người nguyên thủy phần nhiều là sai lầm thì điều đó cũng khơng phủ nhận chức
năng này của thần thoại. Thần thoại ra đời bởi nhu cầu nhận thức thực tiễn khách
quan nảy sinh trong lao động xã hội của người nguyên thủy.” (Nguyễn Hùng Vĩ,
2004: 31). Thần thoại đã góp một phần lớn vào việc giải thích sự vật, hiện tượng
trong đời sống. Có thể cơng nhận thần thoại là một kho tàng tri thức và kinh nghiệm
quý giá phản ánh đúng thực tế khách quan.
Thần thoại Việt Nam cũng có những hình dung nhất định về vũ trụ, con người và
những cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên – scù xây dựng đất
nước, đoàn kết dân tộc, bất khuất kiên cường trong đấu tranh bảo về cộng đồng, bảo
vệ lãnh thổ.” (Chu Xuân Diên, 2003: 80-81). Như vậy thần thoại giúp con người nhìn
nhận lại lịch sử phát triển của mình, tiếp tục đóng góp, tu sửa, làm mới và phong phú
hơn những tri thức, kinh nghiệm cho hợp thời đại. Thêm nữa, trên nền tảng thần thoại,
con người có thể thỏa sức sáng tạo nghệ thuật, vẽ nên những giá trị tinh thần ngày
một hoàn thiện hơn.
Nói tóm lại, thần thoại phản ánh cảm giác, sự nhận thức và hiểu biết về thế giới xung

quanh con người ở xã hội nguyên thủy nên nó phần hiện thực, đóng một vai trị thiết
thực trong đời sống người nguyên thủy. “Thần thoại với tư cách là hình thức văn hóa
tinh thần đầu tiên của lồi người là tự nhiên và chính những hình thức xã hội đã được
tái tạo lại bằng hình tượng nghệ thuật vơ ý thức bởi trí tưởng tượng dân gian.”
(C.Mác).
2. Truyền thuyết:
Định nghĩa về truyền thuyết trong bài báo cáo của Kiều Thu Hoạch: “Truyền thuyết là
một thể tài truyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian. Nội dung cốt
truyện kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích các phong vật địa
phương theo quan điểm của nhân dân. Biện pháp nghệ thuật phổ biến là khoa trương,
phóng đại đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo thần kỳ như cổ tích và thần
thoại.” (Kiều Thu Hoạch, 1971).
9


Tính chân thực của truyền thuyết được nghiên cứu bởi rất nhiều nhà khảo cổ học, dân
tộc học, cổ sử học… Họ có những chứng minh được rằng các Vua Hùng và nhà nước
Văn Lang là có thật, địa bàn phân bố các truyền thuyết thời Hùng Vương gần như
tương xứng với các di chỉ khảo cổ học. Có thể nói truyền thuyết ln song hành cùng
lịch sử dân tộc, bổ sung và thuyết minh cho nhau. Truyền thuyết cũng đề cập đến
những tín ngưỡng dân gian và phong tục lễ hội mà theo đó vẫn cịn những vết tích và
lời đồn đại. Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh vừa phản ánh hiện thực lũ lụt, vừa gắn với
các sự kiện lịch sử thời Hùng Vương, phản ánh lịch sử đấu trong nhiều mặt (thiên
nhiên, xã hội). Sơn Tinh được hình tượng hóa và thần thánh hóa như một hiện tượng
tự nhiên găn với tục thờ núi (bái vật giáo), cũng là sự tổng hợp và hình tượng hóa
thành ý chí, khát vọng đấu tranh chống lụt của người Việt cổ.

Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ là một ví dụ của sự phản ánh q trình phát
triển dân số và phân bố dân cư trên nước Văn Lang cổ đại. Trong đó, rất nhiều truyền
thống tốt đẹp được khẳng định bền vững như tình nghĩa cha con khi Lạc Long Quân

dặn các con nhớ lấy lời gọi “Bố ơi!” mỗi khi gặp khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống
đồng thời đánh giá cao vai trò và trách nhiệm người cha trong gia đình phụ hệ.
Để chứng minh tính hiện thực trong truyền thuyết, có thể kể đến truyện về chiếc nỏ
thần Liên Châu giúp An Dương Vương đánh đuổi quân Triệu Đà, liệu đó có phải sự
10


phản ánh trình độ tiến bộ kỹ thuật quân sự thời bấy giờ, hay mũi tên đồng mà An
Dương Vương chế tạo ra cũng được tìm thấy tại Cổ Loa.

Truyền thuyết cũng thường được gợi lại qua các di tích vật chất (sơng, suối, đồi,…),
di tích văn hóa (đền thờ, tháp, chùa, tượng,…) và lễ hội (hội Dóng, hội Láng, hội
Chùa Thầy). Bối cảnh lịch sử được truyền thuyết phác họa: tơ thuế nặng nề, nạn đói
hồnh hành, nhân dân cùng cực đói khổ, vì thế việc hình tượng các anh hùng được
xây dựng là một nguồn động lực vô cùng lớn.
3. Cổ tích:
“Nội dung phản ánh của truyện cổ tích chủ yếu là cuộc đấu tranh xã hội, đấu tranh
chống cường quyền của những con người bị áp bức. “Nếu như nhiệm vụ và mục đích
chủ yếu của thần thoại là giải thích thiên nhiên vũ trị, và giải thích sự kiến lập của vũ
trụ với các quy luật biến hóa của nó thì truyện cổ tích chủ yếu phản ánh các quan hệ
của con người, miêu tả cuộc sống gia đình với những mâu thuẫn, xung đột trong
phạm vi gia đình nhưng là để nhằm phản ánh xã hội thời kỳ đầu phân chia giai cấp.
Do vậy truyện cổ tích khơng giống thần thoại ở chỗ nó khơng phải là những truyện
11


mang tính tồn nhân loại mà là những truyện của từng số phận cá nhân, truyện của
phạm vi gia đình. Mở đầu nhiều truyện cổ thích thường theo cơng thức “Ngày xửa,
ngày xưa…” hay “Ngày xưa có một gia đình …” hay “Ngày xưa ở một làng nọ, có
một người nông dân…” (Nguyễn Thị Huế, Giáo sư Đinh Gia Khánh và những nhận

định về đặc trưng các thể loại tự sự dân gian, )
“Sự giới thiệu nguồn gốc xuất thân và cuộc đời đau khổ của nhân vật lí tưởng như
trên biểu hiện khuynh hướng dân chủ và giá trị hiện thực của truyện cổ tích thần kì.
Nhân dân nhận thức sâu sắc địa vị, số phận của mình, đã lên tiếng chống lại những
bất công xã hội, bảo vệ truyền thống dân chủ thị tộc.” (Nguyễn Thị Huế, 2003: 210)
Cổ tích ra đời từ thời cổ đại có mầm mống manh nha từ thể loại thần thoại đi qua
truyền thuyết và nở rộ trong thời kỳ hình thành và phát triển của xã hội phong kiến,
thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy cùng với sự xuất hiện mơ hình gia đình
riêng rẽ và sự phân chia giai cấp đầu tiên trong xã hội. Truyện đã đi vào phản ánh và
lý giải những vấn đề mới nảy sinh nhưng đã có tính phổ biến, nhất là những xung đột
gay gắt giữa người và người trong gia đình và ngồi xã hội trên cơ sở một trình độ
nhận thức tiến bộ hơn so với các thời đại trước.
Ở loại truyện cổ tích về lồi vật, sự hình dung và nhận biết các con vật trong thực tế
cũng được phác họa nhân cách hóa, được ca ngợi là giống vật thông minh. Như câu
chuyện giữa “Khỉ và Hổ”, Khỉ vào vai một con vật thấp bé yếu ớt hơn nhưng lại vơ
cùng mưu trí và nhanh nhẹn.
Quan niệm vạn vật hữu linh và tín ngưỡng vật tổ cũng được thể hiện trong truyện cổ
tích thần kì vào thời thị tộc, bộ lạc. Điển hình như truyện Sọ Dừa, Lấy chồng Dê, Lấy
vợ Cóc, hay sự hồi sinh trong vỏ bọc cây cỏ của Tấm Cám, nộp mạng người cho
chằng tinh truyện Thạch Sanh…
Mặt khác, một số câu chuyện phản ánh hiện thực những xung đột trong gia đình, giữa
anh chị em, vợ chồng, mẹ ghẻ - con chồng… trong thời kì xã hội phân biệt giai cấp.
12


Lúc này số phận của nhân vật khơng cịn theo ước mơ, mộng tưởng chung, mà kết
thúc có thể khơng cịn đẹp đẽ và có hậu. Như truyện Người thiếu phụ Nam Xương,
người vợ bị chồng ngờ vực, chì chiết và nỗi oan ức không chung thủy đẩy cô đến con
đường tự vẫn; Sự tích chim hít cơ có kết cục bi thương khi hai cơ cháu nghèo khổ chết
vì đói. Bi kịch gia đình trong truyện cổ tích chính là tấm gương phản chiếu xã hội khi

chuyển từ chế độ mẫu quyền sang phụ quyền, từ chế độ quần hôn và hôn nhân thị tốc
sang chế độ hôn nhân đối ngẫu vầ hơn nhân ngoại tộc. Sự tích Trầu Cau với tình cảnh
trớ trêu khơng được đồn tụ của anh em – vợ chồng ngoài nhắc nhớ tục ăn trầu cịn
phản ánh thời kì cơng xã cho phép anh em lấy cùng một vợ, là tàn dư của chế độ quần
hơn thời thị tộc mẫu hệ. Sự tích đá vọng phu lí giải hình dáng hịn núi đá như người
mẹ bồng con ngóng trơng chồng:
“Bồng con người tựa trên non
Trăng thu vằng vặc, dạ son chờ chồng”
(Khánh Hòa)

13


4. Sử thi:
Các tác phẩm sử thi thường là những câu chuyện ca ngợi nhân vật anh hùng như tộc
trưởng, già làng, có cơng chỉ dẫn, tổ chức bn làng để có được cuộc sống ấm êm,
đầy đủ, họ cũng có thể là người cầm đầu đội quân hùng mạnh chiến đấu với giặc cướp
mang lại sự yên vui cho bản làng, hoặc đấu tranh chống lại những tập tục lỗi thời ràng
buộc bước tiến xã hội. Tất cả nội dung đó đầy chất hiện thực, phản ánh xã hội lịch sử
“thời đại anh hùng”.
Cảnh vật Tây Nguyên cũng nhờ đó mà được phác họa với núi rừng bao la hùng vĩ
(khác với núi chắn trước mắt người, gây tức tối ở một số nơi khác), với bước voi đi,
với thác dựng ngang trời, với hồ nước mênh mông trên đỉnh núi cao, đặc sắc hơn nữa
là các sinh hoạt đặc sắc như cồng chiêng, đâm trâu, bỏ mả. Cái hiện thực sống trên
đây có thể gọi là các đặc trưng văn hóa - văn hóa sinh thái và văn hóa nhân văn, cũng
góp phần làm nên nội dung thống nhất mà đặc thù của sử thi Tây Nguyên so với các
sử thi khác.
Vấn đề không chỉ ở số lượng, mà hơn nữa sử thi vùng Tây Nguyên có những đặc
điểm chung mang tính Tây Nguyên. Trước hết là nội dung đề tài. Có 3 chủ đề lớn: lấy
vợ, làm lụng và đánh giặc. Đây là sự phản ánh một hiện tượng lịch sử có thật khơng

xa lắm tức thế kỷ XIX về trước, đồng thời phản ánh nguyện vọng của lịch sử thúc đẩy
từ tình trạng chiến tranh liên miên đến sự ổn định, đến hịa bình, giàu có. Việc làm
lụng và lấy vợ của các anh hùng sử thi cũng mang đặc điểm của kinh tế - xã hội Tây
Nguyên, như việc hái lượm, săn bắn (còn gọi là khai thác) làm nương rẫy và của thời
đại sử thi lúc mà việc cướp vợ là một hiện tượng phổ biến. Tiêu biểu là sử thi - mo
"Đẻ đất đẻ nước". "Đẻ đất đẻ nước" về cơ bản không có chiến tranh, hay nói đúng
hơn khơng có chiến tranh vì mục đích tập trung quyền lực, tập trung kinh tế, lao động,
tạo nên một thế lực bao trùm, có vị trí thống lĩnh nhờ đó mà thống nhất cả một vùng.
14


Đề tài của "Đẻ đất đẻ nước" được các nhà khoa học Trung quốc gọi là đề tài sáng tạo
thế giới và sử thi kiểu như "Đẻ đất đẻ nước", của ta có thể gọi là sử thi sáng thế.

33 câu chuyện (rằng) trong Đẻ đất đẻ nước thể hiện hành trình đi từ thế giới hoang dã
sang thế giới văn minh của người Mường cổ. Đó là một hành trình vơ cùng gian nan
song cũng là hành trình của nghị lực và sáng tạo. Thú vị thay, đó cũng chính là hành
trình của lồi người nói chung đi từ buổi bình minh của lịch sử sang xã hội văn minh
hiện đại. Đẻ đất đẻ nước thuộc trong số những bộ thần thoại - sử thi hiếm hoi của
nhân loại thể hiện quá trình con người chinh phục tự nhiên - vũ trụ để trở thành chủ
nhân xứng đáng nhất của hành tinh này.
Đồng thời, có thể thấy sử thi cũng phản ánh khá độc đáo và sâu sắc sự vận động
chuyển biến lớn của xã hội, đi từ công xã mẫu hệ, dần dần phát triển lên thành dân tộc
trong gia đình dân tộc Việt Nam.

15


CHƯƠNG III: TÍNH LÃNG MẠN TRONG MỘT SỐ THỂ LOẠI TRUYỆN
DÂN GIAN

1. Truyền thuyết:
Nói về đặc trưng của truyền thuyết, được xây dựng trên nền tảng lịch sử và được tô
màu bởi các yếu tố thơ mộng, hoang đường, truyền thuyết dân gian ln tốt lên chất
thi vị, đẹp đẽ hóa nhân vật chính trong truyện.
Phó giáo sư Đỗ Bình Trị: “Truyền thuyết là những truyện có dính líu đến lịch sử mà
lại có sự kỳ diệu – là lịch sử hoang đường – hoặc là những truyện tưởng tượng ít
nhiều gắn với sự thực lịch sử”.
2. Cổ tích:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa”
(Lâm Thị Mỹ Dạ – Truyện cổ nước mình)
Một trong những thể loại tự sự dân gian phổ biến rộng rãi nhất là truyện cổ tích.
Truyện cổ tích là một phạm trù rất rộng và phức tạp, bao gồm các câu chuyện tưởng
tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi, nhân vật dũng sĩ,
người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dạng
xấu xí, người thơng minh, người ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về các con
vật nói năng và hoạt động như con người. Bằng những hình tượng nghệ thuật sinh
động, truyện cổ tích đã trình bày những vấn đề mới nảy sinh của của xã hội có giai
cấp và thể hiện rõ quan điểm của nhân dân về công lý xã hội, về đạo đức, nhân sinh.
Thông qua quy luật thẩm mỹ, đây cũng là những tia hồi quang soi rõ vẻ đẹp và sức
sống của tâm hồn, tình cảm, trí tuệ dân gian Việt Nam. Đánh giá về truyện cổ tích, có
nhận định cho rằng: "Nội dung chính của chuyện cổ tích là nói về ước mơ của người
bình dân vì vậy chuyện cổ tích thường mang màu sắc lãng mạnh khơng lãng mạn thì
khơng có chuyện cổ tích". Truyện cổ tích đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của trí tuệ và tâm
16


hồn dân gian tràn đầy tinh thần lạc quan và chủ nghĩa nhân đạo. Song điều kì diệu đặc
biệt làm nên sức hấp dẫn của truyện cổ tích là là những nội dung triết lý sấu sắc và
thẫm đẫm tình người ấy lại được thể hiện bởi những hình thức có tính nghệ thuật cao

với những hình tượng sinh động, kết cấu hài hịa có tầm khái qt lớn. Nhất là với sự
xuất hiện của yếu tố thần kỳ, những nỗi đau của cá nhân trong xã hội có giai cấp đã
không chuyển hẳn thành bi kịch mà trái lại đã trở thành những ước mơ lành mạnh, lạc
quan đầy sức sống. Và chính nét huyền hoặc kỳ thú đó đã làm nên sức hấp dẫn kỳ
diệu nhất của truyện cổ tích từ mn đời nay.
Chính những nhân vật được lý tưởng hóa là tiếng nói, đại diện cho mộng tưởng, tự do
và tình cảm tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Mơtíp truyện cổ tích thường có nhân vật
chính là những người nghèo khổ bất hạnh, dưới đáy cùng của xã hội, chịu nhiều uất
ức trái ngang lại có phẩm chất tốt đẹp và tài năng phi thường, đến cuối cùng họ đều
hưởng được cuộc sống tươi sáng và hạnh phúc. Cho nên những yếu tố thần kì là
khơng thể thiếu trong cốt truyện, đóng vai trị then chốt và đại diện cho niềm tin của
nhân dân ta. Những truyện cổ tích về quan hệ xã hội để giáo dục đạo đức con người,
ca ngợi tình cảm gia đình, tình u đơi lứa, tình bạn bền chặt.
3. Sử thi:
Văn học sử thi hướng tới cái chung, cái cao cả, số phận tồn dân, chủ nghĩa anh hùng
cách mạng. Nó thường phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách tồn
dân. Sử thi khơng phải là những số phận cá nhân mà là tiếng nói, vấn đề chung của
cộng đồng, của xã hội, của đất nước. Nhân vật trung tâm không đại diện cho con
người cá nhân, mà đại diện cho giai cấp, dân tộc, thời đại với tính cách dường như kết
tinh đầy đủ những phẩm chất cao quý của cộng đồng. Con người sống chủ yếu với
hiện tại và tương lai. Dựa vào nội dung sử thi truyền tải, xác định phong cách nghệ
thuật hào hùng, kỳ vĩ, mang đậm dấu ấn cảm quan lãng mạn của sáng tác thần thoại.

17


Tính lãng mạn thể hiện rất rõ trong việc xây dựng hình tượng các nhân vật trong tác
phẩm mang cảm hứng sử thi, dù là những con người bình dị, thuộc nhiều tầng lớp, lứa
tuổi, thành phần dân tộc đều mang trong mình những phẩm chất anh hùng, thể hiện
tầm vóc lớn lao, kết tụ sức mạnh, ý chí cũng như phẩm chất chung của cả cộng đồng.

Số phận cá nhân gắn chặt với số phận cộng đồng. Các vấn đề đời tư hầu như khơng
được đặt ra, nếu có thì cũng chỉ nhằm nhấn mạnh thêm trách nhiệm và tình cảm của
người anh hùng với cộng đồng. Với ngơn ngữ thường có tính chất trang trọng, giàu
hình ảnh, có tính biểu tượng cao và giàu giá trị gợi cảm. Kết hợp giọng điệu tác phẩm
thường mang âm hưởng hùng tráng, lay động và khích lệ mạnh mẽ tình cảm người
đọc.
Các tác phẩm mang cảm hứng sử thi luôn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng
của đất nước, vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Khi xây dựng những hình tượng,
nhân vật, thường là cảm hứng khẳng định, ngợi ca, tự hào. Cho nên cảm hứng sử thi
thường gắn với cảm hứng lãng mạn. Những nhân vật anh hùng trong sử thi được xây
dựng khơng hồn tồn mang tính cá nhân, mà đại diện, biểu trưng cho cộng đồng,
mang những ước vọng vừa lãng mạn vừa kỳ vĩ của cả cộng đồng, họ có dáng vóc, sức
mạnh phi thường, qua các cuộc chiến đấu dũng cảm, với tài năng phi thường của
mình, đưa nhân dân đến hình thành những cộng đồng mới, đông đúc, giàu mạnh, vinh
quang hơn…Có thể nói, sử thi Tây Nguyên là một bản anh hùng ca hùng tráng góp
phần làm phong phú thêm giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam với hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, đấu tranh kiên cường, bất
khuất để sinh tồn và phát triển.
Bên cạnh những nội dung mang âm hưởng hào hùng, hoành tráng, sử thi anh hùng
Tây Ngun cịn có những nội dung hài hịa êm ả mà trong đó con người lao động
được tơn vinh với sức mạnh cường tráng, phá núi dời non và có ý thức về cái đẹp
trong thiên nhiên. Hòa nhịp với bài ca lao động đầy khí thế của các chàng trai đi săn

18


bán, chặt đọt mây… trên núi cao hay trong rừng là những bài ca đầy thi vị tả cảnh các
cô gái đi hái rau, bắt cá ven suối rộn tiếng cười nói hồn nhiên, trong trẻo.
“Tồn bộ những yếu tố sinh động về hình tượng, hài hịa về nhạc điệu, đối lập về kịch
tính đó đã được các nghệ sỹ dân gian chắt lọc nhào nặn, phối hợp lại, thể hiện ra

dưới một phong cách nghệ thuật độc đáo, tạo nên bản sắc cho loại hình sử thi anh
hùng. Đó là phong cách ký vĩ hóa của phương pháp lãng mạn, thơng qua các biện
pháp cường điệu, phóng đại ngoa dụ rất là phổ biến, quán xuyến trong khắp các tình
tiết của câu chuyện, trong cách xây dựng nhân vật, cũng như trong cách mô tả cảnh
vật thiên nhiên.” (Võ Quang Nhơn, 2004: 102).

19


KẾT LUẬN
Tác phẩm truyện kể dân gian dù là thể loại nào, xuất hiện vào bối cảnh xã hội thời nào
cũng ít nhiều phản ánh tính hiện thực và lãng mạn. Hai yếu tố này tồn tại đồng thời và
đan xen trong tác phẩm, hiện thực được tô vẽ bằng ngòi bút lãng mạn, nghĩa là trong
yếu tố hư ảo, thần kì hoặc qua những triết lý sống, tinh thần nhân đạo ta vẫn nhận ra
hình ảnh con người trong xã hội, thấy rất gần gũi với mình. Người ta thêm các giá trị
hiện thực vào các truyện kể không phải để giải thích hiện tượng mà để phản ánh sự
kiện, kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm của con người. Nhiều người nghĩ chủ nghĩa lãng
mạn và chủ nghĩa hiện thực là đối lập và mâu thuẫn nhau, nếu chủ nghĩa lãng mạn đề
cao mộng tưởng hơn thực tại thì chủ nghĩa hiện thực mô tả cuộc sống một cách lịch
sử - cụ thể, nhưng Nguyễn Thị Hồng Hạnh trên Tạp chí khoa học có viết: “Chúng tơi
cho rằng ngun nhân của sự phân biệt đối xử này là bởi chúng ta đã phân định quá
rạch ròi ranh giới giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực mà khơng chú ý
đứng mức tính nhịe lẫn của ranh giới ấy” (Nguyễn Thị Hồng Hạnh, 2012: 140), bà
chứng minh thực tế hai chủ nghĩa này từng có trên dưới ba mươi nam cùng tồn tại
chính vì thể có sự ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau. Cho dù quan niệm phương Đơng xem
văn học là dùng để nóichí, hoặc chủ nghĩa lãng mạn phương Tây xem văn học “biểu
hiện tình cảm, khát vọng chủ quan của con người” thì cái chí ấy, tình cảm ấy cũng đề
phản ánh đời sống xã hội. Chính vì vậy các thể loại tự sự dân gian ln có được một
phần niềm tin của con người nhờ những nhận thức trong tư duy thuở ban sơ của con
người, qua ý nghĩa, thông điệp được truyền tải lại càng chạm đến tâm hồn con người

hơn nữa. Hai tính hiện thực và lãng mạn trong văn học dân gian nói chung và truyện
kể dân gian Việt Nam nói riêng làm phong phú về hình thức, được vận dụng tối đa để
truyền tải trọn vẹn ý nghĩa tác phẩm.
Quan trọng hơn hết, hiểu được tính hiện thực và lãng mạn giúp con người cảm thụ sâu
sắc hơn ý nghĩa các truyện dân gian, thấu hiểu triết lí sống và đạo lí làm người, tiếp

20


thu tinh hoa và giá trị nghệ thuật đồng thời sáng tạo phát triển hơn nữa các tác phẩm
để làm giàu cho kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> />Kiều Thu Hoạch. Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt
Nam, 1971.
Nguyễn Thị Hồng Hạnh. Ranh giới nhòe giữa văn học lãng mạn và văn học hiện thực
- Tạp chí Khoa học, 2012.
Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên) – Hồ Quốc Hùng – Nguyễn Thị Ngọc Điệp. Văn học dân
gian những cơng trình nghiên cứu, 2003.
Lê Chí Quế (Chủ biên) – Võ Quang Nhơn – Nguyễn Hùng Vĩ. Văn học dân gian Việt
Nam, 2004.
Hoàng Tiến Tựu – Nguyễn Hữu Sơn – Phan Thị Đào – Võ Quang Trọng. Một vài vấn
đề về văn học dân gian

21



×