MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
A.
B.
Chương 1
1.
2.
3.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………...
MỞ ĐẦU……………………………………………..
NỘI DUNG…………………………………………..
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO………
Quan niệm……………………………………………
Đặc điểm tơn giáo ở Việt Nam……………………...
Tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay……………..
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
4
5
6 - 30
6 - 14
6 - 11
11 - 13
13 - 14
Chương 2
VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
14 - 21
CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO HIỆN NAM…………...
GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH
Chương 3
CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC
22 - 30
C
CỦA TÔN GIÁO VIỆT NAM……………………...
KẾT LUẬN..................................................................
31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, XI, XII, XIII Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Ban Chấp hành Trung ương (1998), Chỉ thị 37/CT-TW ngày 2 - 71998, về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng Văn hóa - Trung ương (2002), Vấn đề tơn giáo và
chính sách tơn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Phạm Văn Chúc (2016), Đặc điểm ý thức tôn giáo, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, số 7 (104)/2016.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm,
Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy,
Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. V.I.Lênin, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
8. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
9. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
10. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995.
11. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
12. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
13. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
14. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
15. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
3
MỞ ĐẦU
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà
nước ta đã nhận đinh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong
tơn giáo có những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa. Vấn đề đạo đức tơn
giáo đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các giáo lý tôn
giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc
xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Theo thống kê, hiện nay trên cả nước có 13 tơn giáo với 36 tổ chức
tơn giáo và 1 pháp môn tu hành được Nhà nước công nhận, với gần 24 triệu
tín đồ - chiếm khoảng 27% dân số cả nước, có 83.000 chức sắc, 250.000
chức việc, 46 cơ sở đào tạo chức sắc tơn giáo, 25 nghìn cơ sở thờ tự (trong
đó Phật giáo có khoảng 11 triệu tín đồ, Cơng giáo gần 7 triệu tín đồ, Cao
đài khoảng 2,4 triệu tín đồ, Tin lành hơn 1 triệu tín đồ,…).
Đảng cộng sản Việt Nam ln ln xác định vấn đề tín ngưỡng, tơn
giáo và cơng tác tơn giáo là vấn đề chính trị quan trọng, quan hệ đến sự
phát triển của đất nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của
các tầng lớp nhân dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với
sự nghiệp cách mạng. Là sự vận dụng trung thành và phát triển sáng tạo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tơn giáo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong
những giai đoạn lịch sử nhất định.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
không ngừng đổi mới nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tơn giáo, tín ngưỡng. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương, chính
sách, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng của đồng
4
bào có đạo và nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
này. Vì vậy, tơi chọn chủ đề Tiểu luận: “Quan điểm và chính sách tôn giáo
của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”.
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1. Quan niệm
Chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan
trọng nhất của chủ nghĩa C.Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một
trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học
thuyết này. Nó thể hiện thơng qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn giáo.
Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tơn giáo có nguồn gốc
siêu nhiên, thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động
của mỗi cá nhân con người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực
lượng siêu nhiên, thần thánh thì các nhà duy vật, vơ thần đã có quan điểm
hồn tồn đối lập.
L.Phoiơbắc - nhà triết học duy vật người Đức, trong “Bản chất đạo Cơ
đốc”, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh sáng tạo ra con người mà
con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình; rằng: “Thượng
đế siêu hình khơng phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là tồn bộ những
đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức
tưởng tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực
thể độc lập” [3, tr. 41]. Tuy nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực
sự của tơn giáo và ở khía cạnh này, ơng vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy
tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phê phán tôn giáo
nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực
đã làm nảy sinh tôn giáo. Thậm chí, ơng cịn cho rằng người ta vẫn rất cần
5
một thứ tơn giáo khác thay thế, đó là “tơn giáo tình u” để xố bỏ đi
những áp bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật
trước đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập
trường duy vật lịch sử để lý giải vấn đề bản chất của tôn giáo. Ph.Ăngghen,
khi nghiên cứu đạo Cơ Đốc sơ kỳ cũng đã thừa nhận nó như là sự phản ánh
khát vọng của những người nô lệ và trong bản thân nó có những điểm
tương đồng với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Trong lịch sử đạo
Cơ Đốc sơ kỳ có những điểm giống đáng lưu ý với phong trào công nhân
hiện đại, đạo Cơ Đốc nảy sinh như là một phong trào của những người bị
áp bức; lúc đầu nó là tơn giáo của những người nô lệ và nô lệ đã được tha,
của người nghèo và người vô quyền, của các dân tộc bị La Mã chinh phục
hoặc đuổi đi tản mát. Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã hội cơng nhân đều
tun truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và
nghèo khổ” [13, tr. 663].
Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội
quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong
đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tơn
giáo là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những
hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh
của tôn giáo đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn
ngược”, “hoang đường” thế giới khách quan. Trên lập trường duy vật vô
thần triệt để, chủ nghĩa Mác - Lênin dù có thừa nhận những giá trị tích cực
nhất định của tơn giáo, song vẫn phê phán nó, vì xét cho cùng, tơn giáo vẫn
hướng con người vào một thế giới ảo tưởng, an ủi họ quên nỗi đau khổ ở
cuộc sống hiện thực và hứa hẹn sự đền bù cho họ ở một thế giới siêu nhiên.
Trong khi đó, để khắc phục những khổ đau ở cuộc sống trần thế, con người
cần phải có phương tiện hiện thực, có nghị lực, dũng cảm sáng tạo vượt qua
6
trong xã hội hiện thực. Ăngghen đã chỉ ra điểm khác nhau căn bản giữa đạo
Cơ Đốc và chủ nghĩa xã hội, đó là: “Đạo Cơ Đốc tìm sự giải thoát ấy trong
cuộc sống trên trời, ở thế giới bên kia sau khi chết, cịn chủ nghĩa xã hội thì
tìm nó ở thế giới bên này, ở việc tổ chức lại xã hội” [15, tr. 663].
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sự phản kháng của tơn giáo về cơ bản
vẫn mang tính tiêu cực, thụ động, nó khuyên con người chấp nhận hiện
thực để mỗi người tự hồn thiện mình, tách khỏi mọi mối quan hệ của xã
hội hiện thực.
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang
đường”, “hư ảo” của tôn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tơn giáo và
đặt niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy
vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại
của tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách quan và nguồn gốc quan trọng
nhất của tơn giáo chính là điều kiện kinh tế - xã hội.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen
viết: “Trong những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên
nhiên là những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình
phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên
nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn
tạp... Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại cịn
có cả những lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với
con người, một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với
họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân
những lực lượng tự nhiên vậy” [14, tr. 562].
Tiếp tục quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, VI.Lênin bổ sung, phát
triển, hoàn thiện thêm và chỉ ra vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội,
về cơ bản, là tác động tiêu cực. Tôn giáo dạy cho con người chịu đựng
những đau khổ để chờ đợi những điều tốt đẹp ảo tưởng, khơng có thực:
“Những điều thiêng liêng của đạo chính thống quý báu là ở chỗ nó dạy
7
người ta chịu đựng đau khổ “không một tiếng kêu ca”! Thực tế, điều thiêng
liêng đó có lợi cho giai cấp thống trị biết chừng nào!…tôn giáo dạy người
ta chịu đựng “không một tiếng kêu ca”cái địa ngục trần gian để chờ đợi
một thiên đường nào đấy” [11, tr. 331].
V.I.Lênin cho rằng, một mặt tôn giáo đem lại cho con người sự an ủi mơ
hồ, răn dạy họ nhẫn nhục trong cuộc sống thực để hy vọng được đền bù ở cõi
sống khác, mặt khác tôn giáo là sự biện hộ cho các thế lực bóc lột và khuyên
những người bị bóc lột hãy cam chịu cuộc sống hiện tại. Người viết: “Đối với
những ai suốt đời vẫn lao động và sống trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ
phải sống theo tinh thần cam chịu và nhẫn nhục trong cuộc sống dưới trần
gian, bằng cách làm cho họ hy vọng sẽ được đền đáp khi lên thiên đường. Còn
đối với những kẻ sống bằng lao động của người khác, tôn giáo dạy họ hãy làm
điều thiện ở thế gian, biện hộ một cách rẻ tiền cho toàn bộ cuộc đời bóc lột
của chúng, và bán rẻ cho chúng những tấm thẻ để lên thiên đường của những
người hạnh phúc” [12, tr. 170].
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, khi tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng
cụ chính trị thì nó trở thành “thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của
tư bản mất phẩm cách con người và quên mất hết những điều họ đòi hỏi để
được sống một cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người” [12, tr. 170].
Tôn giáo được V.I.Lênin xem xét gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga và
châu Âu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chính vì vậy, V.I.Lênin nói đến
vai trị tiêu cực của tơn giáo và giáo hội cũng trong một tình huống rất cụ
thể: tơn giáo và giáo hội tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng cụ để
bảo vệ chế độ bóc lột, đầu độc quần chúng bị áp bức. Lúc này, mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã trở nên gay gắt và trong xã hội
đó, “Tơn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn
và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải
8
lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng cô
độc” [12, tr. 169].
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có nguồn
gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó - một hiện thực cần có
tơn giáo và có điều kiện để tơn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong tác phẩm
“Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen - Lời nói đầu”, C.Mác đã viết:
“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa
là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài
của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng như
nó là tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện
của nhân dân” [13, tr. 570].
Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức
năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như
là “vầng hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp
một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô
cùng to lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực.
Vì, trong cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực
trước các hiện tượng áp bức, bất cơng của xã hội thì họ chỉ còn biết “thở
dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy,
họ không thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm
đến một “trái tim” trong tưởng tượng nơi tơn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng
bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt
qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác khơng chỉ
muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tơn giáo, mà cịn nhấn
mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau
được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc
giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào cịn đau đớn, thì chừng đó cịn
có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy
9
vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho
dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo mặc dù là sự
phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong
xã hội nhưng nó khơng phải khơng có những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ
là những “bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng
xích. Nhưng nếu khơng có những “bơng hoa giả” ấy thì cuộc sống của con
người chỉ cịn lại “xiềng xích” mà thơi. Và nếu khơng có thứ “thuốc giảm
đau” ấy thì con người sẽ phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với
đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác khi quan niệm về tôn giáo chính là ở chỗ đó. Trong
khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản thân tôn giáo thì C.Mác lại
khơng phê phán tơn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tơn
giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong xã hội đã đẩy con
người phải tìm đến với tơn giáo và ru ngủ mình trong tơn giáo. C.Mác đã nhận
thấy rất rõ quan hệ nhân - quả trong vấn đề này. Vì tơn giáo là một hiện tượng
tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xố bỏ tơn
giáo, khơng có cách nào khác là phải xoá bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh.
Theo C.Mác, vấn đề khơng phải là “vứt những bơng hoa giả” đi mà là xố bỏ
bản thân cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bơng hoa giả đó để con
người có thể “giơ tay hái những bơng hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được
hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định
rằng, muốn xố bỏ tơn giáo và giải phóng con người khỏi sự nơ dịch của tơn
giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người khỏi những thế lực của
trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất cơng, nâng cao trình độ nhận thức cho người
dân và xây dựng một xã hội mới khơng cịn tình trạng người bóc lột người, đó
là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
10
Một là, Việt Nam là nước có nhiều tín ngưỡng, tơn giáo. Hiện nay, ở
nước ta có sáu tơn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận về tổ chức là: Phật
giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hồ Hảo với khoảng 20 triệu
tín đồ. Ngồi ra cịn hàng chục triệu người khác vẫn giữ tín ngướng dân
gian, truyền thống và cả tín ngưỡng ngun thuỷ.
Tín ngưỡng, tơn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tơn
giáo. Nhiều tín đồ tơn giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia
nhập đạo phần nhiều do lan truyền tâm lý, hoặc do vận động, lơi kéo; ý
thức tơn giáo ở phần lớn tín đồ khơng thật sâu sắc.
Hai là, các tơn giáo, tín ngưỡng dung hợp, đan xen và hồ
đồng, khơng có kỳ thị, tranh chấp và xung đột tơn giáo. Các tín ngưỡng
truyền thống và tàn dư tôn giáo nguyên thuỷ in dấu ấn khá sâu đậm vào đời
sống tinh thần của người Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử, đó là cái
nền tâm linh để dễ dàng đón nhận sự du nhập của các tơn giáo khác. Sự
khoan dung, lịng độ lượng, nhân ái của dân tộc Việt Nam, cùng với
yêu cầu phải đoàn kết toàn dân để bảo vệ nền độc lập, thống nhất lãnh thổ,
nên người Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo khác nhau một cách tự nhiên,
miễn là nó khơng trái với lợi ích dân tộc – quốc gia và truyền thống văn
hố, tín ngưỡng cổ truyền.
Sự phân bố tơn giáo ở nước ta có đặc điểm nổi bật là giáo dân của các
tôn giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng quy mô nhỏ, các
cộng đồng tơn giáo khác nhau có thể sống xen kẽ nhau. ở nhiều nơi, trong
một làng, xã cũng có các nhóm tín đồ của các tơn giáo khác nhau sống đan
xen, hồ hợp nhau, hoặc xen kẽ với những người khơng theo tơn giáo nào.
Ba là, Các tơn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam đều
du nhập từ bên ngồi, ít nhiều đều có sự biến đổi và mang dấu ấn
Việt Nam.
11
Các tơn giáo từ bên ngồi vào Việt Nam vừa theo cách du nhập tự
nhiên qua giao lưu kinh tế, văn hố như: Phật giáo, Hồi giáo; vừa có sự áp
đặt song hành với quá trình xâm lược của các đế quốc trong lịch sử như
Công giáo, Tin lành… Quá trình giao du, gặp gỡ các tơn giáo
vừa thâm nhập, bổ sung, vừa cải biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tơn giáo đều
có sự biến đổi phù hợp với đặc điểm địa lý, lịch sử và văn hoá Việt Nam.
Bốn là, Sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tôn giáo với tín
ngưỡng truyền thống và tình cảm, phong tục tập quán và nhân dân.
Tín ngưỡng truyền thống dân gian mà nổi bật nhất là phong tục thờ
cúng tổ tiên, đã dung hợp với các tơn giáo, góp phần tạo nên đặc điểm tình
cảm, tâm hồn, tính cách người Việt Nam. Tuy vậy, sự pha trộn phức tạp
giữa ý thức tơn giáo với tín ngưỡng cổ truyền và tình cảm, phong tục tập
quán đã ăn sâu vào đời sống tinh thần người Việt Nam, làm cho một bộ
phận không nhỏ quần chúng lao động rất dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý
thức tơn giáo mới.
3. Tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay
Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng đối với số lượng tín đồ
và tác động chính trị – xã hội khơng giống nhau, đồng bào các tơn giáo đã
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hàng chục vạn
thanh niên có đạo đã tham gia chiến đấu và nhiều người đã anh dũng hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhiều tín đồ và giáo sĩ đã nhận thức đúng chính sách, luật pháp của
Nhà nước, làm tốt cả “việc đạo” và “việc đời”. Tình hình kinh tế, an ninh
chính trị và trật tự xã hội ở nhiều vùng tôn giáo khá ổn định. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận đồng bào có tín ngưỡng tơn
giáo cịn băn khoăn, lo lắng cả phần đạo và phần đời.
12
Những năm gần đây, sinh hoạt tơn giáo có phần phát triển, nhà thờ,
đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài
liệu, đào tạo các chức sắc… Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia
tăng. Những hoạt động lễ hội gần gũi với tôn giáo nhiều, mang nhiều màu
sắc khác nhau, cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng
trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của một số đông quần chúng. Từ
khi đổi mới và dân chủ hố tự do tín ngưỡng càng có điều kiện thể hiện,
đáp ứng nguyện vọng của một bộ phận nhân dân. Mặt khác cũng nói lên
điều khơng bình thường vì trong đó khơng chỉ có sự sinh hoạt tơn
giáo thuần t, mà cịn biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để phục vụ
cho mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.
Chương 2
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
HIỆN NAY
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng Cộng
sản Việt Nam (CSVN) đã từng bước đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo
và công tác tôn giáo. Bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lí luận của Đảng
CSVN về vấn đề tôn giáo được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24
của Bộ Chính trị, ngày 16/10/1990 về tăng cường cơng tác tơn giáo trong
tình hình mới.
Về nhận thức lí luận, Nghị quyết 24 nêu lên “3 luận đề” cơ bản về vấn
đề tơn giáo, tín ngưỡng: Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân; hai là, tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài và
ba là, đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới. Để có được những tư tưởng đổi mới có tính “đột phá” nêu trên,
Đảng CSVN tìm tịi, trăn trở trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
13
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo vào tình hình tơn giáo ở
Việt Nam. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo hiện nay, trước hết cần phải
nhận thức rõ một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay, những điều kiện tồn tại của tơn giáo vẫn cịn; vì vậy, sự tồn tại của nó
vẫn là một tất yếu khách quan. Những điều kiện đó là: trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, của khoa học - kỹ thuật còn thấp nên khả năng cải
tạo thế giới chưa cao; trình độ nhận thức cịn hạn chế nên chưa cho phép
giải thích đầy đủ, khoa học những hiện tượng tự nhiên, xã hội; trình độ phát
triển kinh tế cịn thấp nên đời sống của người dân cịn gặp nhiều khó khăn;
thời kỳ q độ với những quan hệ sản xuất cũ và mới đan xen nhau nên
chưa thể xoá bỏ những hiện tượng bóc lột, bất bình đẳng trong xã hội…
Thêm vào đó, chiến tranh, đặc biệt là thiên tai, vẫn xảy ra khiến cho con
người cảm thấy khơng n tâm và vì vậy, một bộ phận người dân vẫn sẽ có
nhu cầu tín ngưỡng tơn giáo như một tất yếu. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta cần
có thái độ như thế nào đối với tôn giáo.
Thứ hai, cần phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo không phải là mọi tôn giáo và những sinh hoạt tơn giáo
hay tất cả những tín đồ tơn giáo nói chung, mà chỉ là những bộ phận người lợi
dụng tơn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng, gây rối
trật tự trị an, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.
Thứ ba, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo, khơng
thể dùng mệnh lệnh hành chính hay tuyên truyền giáo dục đơn thuần mà
phải chú trọng đến việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xố bỏ dần
phương thức sản xuất tiểu nơng lạc hậu, cải thiện, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho người dân, kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao
trình độ nhận thức, trình độ văn hố để người dân tự nhận thức được vai trò
thực sự của tôn giáo trong đời sống hiện thực của họ và chính họ, chứ
khơng phải ai khác, tự quyết định theo hay khơng theo một tơn giáo nào đó.
14
Những năm gần đây, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã có những thay đổi
quan trọng trong nhận thức về tôn giáo và giải quyết vấn đề tơn giáo, đưa
ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp.
Với tinh thần mạnh dạn đổi mới, khắc phục những hạn chế, sai lầm
trong nhận thức trước đây, Đảng ta, lần đầu tiên trong Nghị quyết 24NQ/TW của Bộ Chính ngày 16-10-1990 đã khẳng định: Tơn giáo là vấn đề
cịn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân. Đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây
dựng xã hội mới… Có thể coi đây là bước đột phá, khởi đầu trong việc đổi
mới nhận thức về vấn đề tôn giáo của Đảng ta, bởi luận điểm này là cơ sở
lý luận quan trọng để hạn chế các biểu hiện sai sầm trong nhận thức và ứng
xử với tơn giáo, làm cho chính sách của Nhà nước về tôn giáo ngày càng
đúng đắn và được đơng đảo đồng bào có đạo đồng tình, ủng hộ.
Đó là sự trở lại với quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã bổ sung thêm những nghiên cứu về
vai trị của tơn giáo mà trước đây các nhà kinh điển Mác - Lênin chưa có
điều kiện đi sâu tìm hiểu.
Qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX , X và XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam, tinh thần đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo vẫn liên tục được phát
triển và hồn thiện thêm.
Khi thừa nhận tín ngưỡng, tơn giáo là hiện tượng xã hội cịn tồn tại lâu
dài, Đảng ta ý thức được rằng, tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân. Tơn giáo vẫn phát huy ảnh hưởng của nó trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Trong
trường hợp này, thái độ đúng đắn nhất, biện chứng nhất là khuyến khích
phát huy các yếu tố tích cực của tôn giáo, làm cho các yếu tố này thực sự
có ý nghĩa khi tham gia vào q trình phát triển, hoàn thiện con người và xã
hội Việt Nam hiện đại. Do vậy, cũng trên tinh thần đổi mới nhận thức về
15
vấn đề tôn giáo, Đảng ta không chỉ thừa nhận những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp trong các tơn giáo mà cịn ln khuyến khích phát huy những
giá trị đó trong việc xây dựng xã hội mới. Chỉ thị 37/CT-TWcủa Bộ Chính
trị ngày 2-7-1998 về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới đã khẳng định
“Những hoạt động tơn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được đảm bảo. Những giá trị
văn hóa đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích
phát huy” [4, tr. 14].
Nhận thức đúng vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội và những
đóng góp của nó cho nền văn hóa, đạo đức của dân tộc, Đảng ta, trong
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, về việc xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã chủ trương “Khuyến khích ý
tưởng cơng bằng, bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo” [4, tr. 67]. Chủ
trương này tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm qua các kỳ Đại hội
IX, X, XI. Đại hội XI khẳng định: “Tiếp tục hồn thiện chính sách pháp
luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai
đoạn mới của đất nước; tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hố tốt đẹp
của các tơn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tơn giáo sống tốt
đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc” [6, tr. 51].
Tuy nhiên, Đảng ta cũng nhận thức rõ, bên cạnh vai trị tích cực, tơn
giáo cịn chứa đựng và tiềm ẩn trong nó nhiều mặt tiêu cực có thể gây nên
những tác động xấu đối với đời sống chính trị, xã hội, đó là vấn đề mê tín,
dị đoan được đan xen, dung dưỡng trong sinh hoạt tôn giáo và đặc biệt là
vấn đề lợi dụng tơn giáo vào mục đích chính trị... Vì vậy, bên cạnh việc
thừa nhận và khuyến khích phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tích cực
trong tơn giáo, Đảng ta cũng kiên quyết đấu tranh “tuyên truyền giáo dục
khắc phục tệ mê tín dị đoan; chống việc lợi dụng tơn giáo, tín ngưỡng thực
hiện ý đồ chính trị xấu” [4, tr. 67].
16
Hội nghị Trung ương 7 khóa IX khẳng định: “Việc theo đạo, truyền đạo
cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị
đoan, khơng được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền
đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy
định của Hiến pháp và pháp luật” [5, tr. 50 - 51]. Đại hội XI tiếp tục khẳng định
chủ trương: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và khơng
tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử
lý nghiêm với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo làm tổn hại
đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [6, tr. 81].
Tại Đại hội XII của Đảng, Đảng ta khẳng định: Tiếp tục hồn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo, phát huy những giá trị văn
hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ
chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã
được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ
động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tơn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những
hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo trái quy định của pháp luật [7, tr. 165].
Cũng tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục xác định rõ thêm những điểm
tương đồng của tơn giáo trong q trình thực hiện mục tiêu đại đoàn kết
dân tộc là: Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập,
thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác nhau khơng
trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam…,
tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ta xác định, để
đoàn kết được toàn dân tộc cần phải coi trọng phát huy những điểm tương
đồng nhằm tập hợp, đoàn kết rộng rãi tất cả đồng bào và chức sắc tơn giáo
vào khối đại đồn kết dân tộc. Quan điểm Đại hội XII của Đảng về vấn đề
17
dân tộc, tôn giáo là đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất
nước và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân.
Như vậy, kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và dựa trên đặc điểm, tình hình tơn
giáo ở Việt Nam, Đảng ta đã nhìn nhận vấn đề tơn giáo với tư duy mới và
nhờ đó đã đưa lại những cách làm mới trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
ở Việt Nam. Điều đó chứng tỏ nhận thức của Đảng ta về vấn đề tơn giáo có
sự vận động, phát triển rõ nét, đồng thời nó cũng chứng tỏ bản lĩnh và sự
trưởng thành vượt bậc của Đảng ta. Sự đổi mới nhận thức của Đảng ta về
vấn đề tơn giáo nói chung, về vai trị của tơn giáo nói riêng hồn tồn không
xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Hơn nữa, sự đổi mới nhận thức này cịn là sự
tiếp tục những cơng việc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đương thời đã từng
trăn trở, đó là cần phải bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác và củng
cố chủ nghĩa C.Mác bằng dân tộc học phương Đông.
Từ nhận thức đúng đắn về nhu cầu tơn giáo của quần chúng, về vai trị của
tơn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã thường
xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có đạo. Đảng, Nhà nước cũng
ln quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các tôn giáo phát huy giá trị
nhân văn, nhân bản của tôn giáo trong xây dựng cuộc sống; động viên đồng
bào các tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”; đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh
chống các biểu hiện vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, đấu tranh với
các hành vi lợi dụng tơn giáo, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc, chống
phá sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thực tế cho thấy, khi vai trị tích cực của tơn giáo được thừa nhận và
khuyến khích phát huy đã đem lại những hiệu quả thiết thực trong đời sống
xã hội. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới
đã được đơng đảo nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo được niềm tin, sự phấn
18
khởi lớn trong đồng bào có đạo. Khối đại đồn kết toàn dân tộc ngày càng
được tăng cường, củng cố vững chắc hơn. Đồng bào có đạo trên khắp các
vùng miền cả nước đã và đang tích cực hưởng ứng phong trào thi đua yêu
nước, sống tốt đời, đẹp đạo, hăng hái tham gia vào các phong trào phát
triển kinh tế- xã hội, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Nhiều gia
đình tín đồ tơn giáo từ nghèo đói triền miên đã vươn lên thoát nghèo. Nhiều
vùng đồng bào có đạo từ nghèo đói đã trở nên giàu có và trở thành điển
hình của cả nước. Hàng chục vạn gia đình tín đồ, hàng ngàn làng, xã, khu
dân cư của đồng bào có đạo được cơng nhận là gia đình văn hóa, làng xã
văn hóa, khu dân cư an tồn.
Những năm qua, đồng bào các tơn giáo cũng có những đóng góp rất
tích cực vào các hoạt động xã hội. Rất nhiều phịng khám chữa bệnh, cơ sở
ni dưỡng người già, trẻ em, người khuyết tật của các tôn giáo đã và đang
góp phần chia sẻ những khó khăn với Nhà nước trong công tác an sinh... là
những minh chứng rõ nhất cho thấy các tôn giáo ở Việt Nam đã và đang
phát huy vai trị tích cực của mình trong đời sống xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn cho thấy rằng ở
một vài “điểm nóng” về vấn đề Tơn giáo, trong đó có Tây Nguyên được
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định là địa bàn trọng yếu để
thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hồ bình”, kết hợp bạo loạn lật đổ
(BLLĐ) chống phá cách mạng Việt Nam. Sự chống phá, lợi dụng vấn đề
tôn giáo của các thế lực thù địch trong thời gian gần đây thường tập trung:
Triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ, lơi kéo,
kích động ly khai, tự trị, nhằm tập hợp lực lượng trong các vùng dân tộc
thiểu số. Nuôi dưỡng, chứa chấp các phần tử phản động cực đoan trong số
người dân tộc thiểu số lưu vong để thành lập các tổ chức, đảng phái phản
động rồi tung vào các tỉnh ở Tây Nguyên hoạt động chống phá chính quyền
nhân dân. Chúng lợi dụng tôn giáo để thâm nhập, tác động nhằm chia rẽ,
lôi kéo, tập hợp và âm mưu sử dụng đồng bào dân tộc thiểu số vào các hoạt
19
động cực đoan, q khích, biểu tình, bạo loạn. Thơng qua con đường viện
trợ từ thiện để tuyên truyền, kích động các phần tử phản động, lơi kéo cán
bộ, trí thức người dân tộc thiểu số gây bạo loạn lật đổ.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, lần đầu tiên
Đảng ta đề cập trực tiếp các nội dung về tôn giáo và công tác tôn giáo một
cách tồn diện, có trọng điểm với dung lượng nhiều nhất so với các kỳ đại
hội trước đó. Trong 10 văn bản trình bày ở 02 tập của văn kiện, có 04 văn
bản đề cập trực tiếp các nội dung liên quan đến tôn giáo:
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn
kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Đảng ta nhấn mạnh: “Tập trung hồn
thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tơn giáo; có những
chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực
hiện tốt đồn kết tơn giáo, đại đồn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm
mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự
phát triển của đất nước”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong phần xây dựng và phát huy
giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam, Đảng ta nêu rõ: “Phát huy
các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tơn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn
chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”2. Đối với nhiệm vụ, giải
pháp thực hiện về công tác tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “Vận động, đoàn kết,
tập hợp các tổ chức tơn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp
tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức
tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được
Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các
nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và
xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đồn kết tơn giáo và khối đại
đồn kết toàn dân tộc”.
20
Chương 3
GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƠN GIÁO VIỆT NAM
Tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Vì vậy, việc đề ra
chính sách và thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề khó
khăn, phức tạp, phải hết sức thận trọng. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng và Nhà
nước phải dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và căn cứ vào những đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam để đề ra các chủ
trương, chính sách đối với cơng tác tín ngưỡng, tơn giáo. Xác định rõ vai trị
của tơn giáo trong đời sống xã hội, thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng xã hội
còn tồn tại lâu dài, đồng thời tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Những vấn đề tôn giáo cần gắn liền với quá trình vận động cách mạng, cải biến
xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng. Đồng thời, để khắc phục những yếu
tố tiêu cực của tôn giáo, cần quan tâm đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng, coi trọng tuyên truyền, vận động giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng, phương pháp luận khoa học cho quần chúng nhân dân và các tín đồ. Nội
dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đồng bào
có đạo hay khơng có đạo đều là cơng dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ bình
đẳng như nhau trước pháp luật.
Tình hình thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta trong những năm
qua, về cơ bản các chính sách tơn giáo ngày càng được cụ thể hoá, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nguyện vọng của chức sắc và tín đồ. Nhờ chính sách
phát triển kinh tế phù hợp đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của
chức sắc, tín đồ được nâng lên, hoạt động của các tôn giáo sôi nổi hơn
trước; việc xây mới, sửa chũa cơ sở thờ tự đã được nhà nước quan tâm.
Chúng ta đã củng cố khối đoàn kết những người có tín ngưỡng, tơn giáo
với nhau. Chức sắc, tín đồ ngày càng tin tưởng vào chính sách của Đảng,
21
vào công cuộc đổi mới ở nước ta. Đồng thời chúng ta đã ngăn chặn, phá vỡ
được những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo vì mục đích
kinh tế, chính trị…
Trong khi thấy rõ ưu điểm, thành tựu như vậy, chúng ta cũng thấy một
số hạn chế, đó là: Các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng tôn giáo để thục
hiện âm mưu “DBHB” đối với nước ta. Chính sách tơn giáo của ta vẫn cịn
chung chung, chậm được cụ thể hố, một số cán bộ đảng viên còn hạn chế
trong việc nhận thức, đánh giá thấp tầm quan trọng của công tác tôn giáo.
Việc giải quyết vấn đề tô giáo ở nơi này hay nơi khác còn nhiều bất cập và
đã tác động tiêu cực đến việc phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn
dân. Một bộ phận khơng nhỏ chức sắc, tín đồ các tơn giáo có biểu hiện suy
thối đạo đức, lợi dụng tơn giáo để tun truyền mê tín dị đoan, kiếm tiền
bất chính. Nhiều vụ việc nổi cộm liên quan đến tín ngưỡng, tơn giáo cịn
xảy ra, và có những lúc chúng ta vẫn bị động hoặc xử lý vụ việc liên quan
đến tôn giáo thiếu tế nhị - làm mất lòng tin của chức sắc, tín đồ, là kẻ hở
cho kẻ xấu lợi dụng.
Từ những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng và nhà nước ta đối với tín ngưỡng, tơn giáo trong thời gian
qua, cho nên, việc nắm vững những quan điểm chỉ đạo cũa Đảng, chính
sách của nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo nhằm phát huy tính tích cực và tự
giác của tồn dân, trong đó có đồng bào theo đạo vào q trình đổi mới là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách ở nước ta hiện nay. Vì vậy
Đảng ta đã xác định: tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
CNXH ở nước ta. Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất qn chính sách đại
đồn kết tồn dân tộc. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác
vận động quần chúng. công tác tôn giáo là trách nhiệm của hệ thống chính
trị và việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều
phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Với nhận thức như vậy, theo tôi để
22
làm tốt công tác vận động quần chúng nhân dân nói chung và các tín đồ tơn
giáo nói riêng, chúng ta cần lưu ý và thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về cơng tác tơn giáo trong các tín đồ tơn giáo để
họ hiểu, thực hiện đúng quan điểm của chúng ta đối với tôn giáo.
Thứ hai, để công tác vận động quần chúng có kết quả, địi hỏi cán bộ
làm cơng tác vận động phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng;
được trang bị đầy đủ kiến thức về tôn giáo; có kỷ năng, gọi đúng chức sắc
và biết tơn trọng họ, gần gủi họ nhưng phải giữ vị thế của mình; phải tuyệt
đối tơn trọng những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp
luật cho phép. Đồng thời cần kiên trì thuyết phục, tránh những hành vi thô
bạo và không được gợi lại những gam màu tối, đặc biệt không được tranh
luận (đấu tranh) những lĩnh vực nhạy cảm… thường xuyên chăm lo đến đời
sống vật chất lẫn tinh thần cho họ.
Thứ ba, Để tránh bị các thế lực chính trị lợi dụng tơn giáo, chúng ta
cần chú trọng vận động quần chúng nêu cao cảnh giác trước những âm mưu
“DBHB” của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần phân biệt rõ tín đồ
tơn giáo với người lợi dụng tôn giáo, phân biệt rõ phần tử phản động lợi
dụng tôn giáo với những chức sắc, nhà tu hành và quần chúng tốt để tuyên
truyền, vận động. Khi giải quyết vấn đề tơn giáo phải thật sự khéo léo, có
chứng cứ rõ ràng, có sức thuyết phục, khơng nóng vội, chủ quan. Chính vì
vậy, các chức sắc, tín đồ có những vi phạm pháp luật rõ ràng và bị xử lý
theo pháp luật nhưng tín đồ các tơn giáo đã đồng tình với cách xử lý của
Nhà nước ta, như vụ Nguyễn Văn Lý, Thích Trí Tựu tại Huế.
Thứ tư, thường xuyên quán triệt các quan điểm, chính sách về tín
ngưỡng, tơn giáo của Đảng, nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và
những người làm công tác vận động quần chúng nhằm nâng cao nhận thức
về công tác tôn giáo. Thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội
23
dung, phương thức cơng tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù
hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu ln gắn bó với sinh hoạt tôn
giáo và tổ chức tôn giáo.
Thứ năm, củng cố, kiện tồn bộ máy tổ chức làm cơng tác tơn giáo của
Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đồn thể nhân dân; xây dựng qui chế phối
hợp phát huy sức mạnh và hiệu quả cơng tác của hệ thống chính trị. Quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo các cấp. Cán bộ làm
công tác tôn giáo vùng dân tộc thiểu số phải được bồi dưỡng, huấn luyện để
hiểu biết phong tục tập quán, tiếng nói của dân tộc nơi mình cơng tác.
Những giải pháp nêu trên, theo tơi, đó là những giải pháp cơ bản trong
cơng tác vận động quần chúng tín đồ và chức sắc các tơn giáo, nó góp phần
cùng với hệ thống các giải pháp trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị, văn hố,
quốc phịng, an ninh để từng bước xây dựng một xã hội mới ngày càng tự do,
ấm no, hạnh phúc hơn, góp phần hạn chế những tiêu cực của các tôn giáo.
* Các giải pháp thực hiện chính sách tơn giáo trong Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta
xác định: “Thực hiện tốt mục tiêu đồn kết tơn giáo, đại đoàn kết toàn dân
tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người theo quy
định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tơn giáo
vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống
văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”.
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2021 - 2025, Đảng ta đã đánh giá những thành tựu và hạn chế
liên quan đến tơn giáo. Thành tựu: “Tình hình tơn giáo ổn định; đa số chức
sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh,
24
phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự
do tôn giáo”.
5. Hạn chế: “Quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tơn giáo, tín
ngưỡng có mặt cịn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động
tín ngưỡng, tơn giáo ở một số nơi”.
6. Dự báo bối cảnh quốc tế và khu vực, Đảng ta chỉ rõ: “Chủ nghĩa
dân tộc, cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo... là những thách thức
lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia”.
7. Nhiệm vụ, giải pháp, Đảng ta nhấn mạnh: “Tạo điều kiện cho các tổ
chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ,
giải quyết các nhu cầu hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần
chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
công tác tôn giáo”.
8. Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta có nhiều nội dung bổ sung,
cập nhật, kế thừa, tiếp thu những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà lãnh
đạo, quản lý, quản trị về tơn giáo, các nhà khoa học và tín đồ, chức sắc của
các tôn giáo, cụ thể như sau:
Một là, quan điểm tiếp tục phát huy vai trị, tác động tích cực của tôn
giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó, Đảng ta nhấn
mạnh yếu tố văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ghi rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”.
Ở Việt Nam, các thuật ngữ: “nguồn lực tôn giáo”, “nguồn lực các tôn
giáo”, “các nguồn lực của các tôn giáo”… mới được đề cập mấy năm trở
lại đây. Các nhà khoa học, lãnh đạo, quản lý, chức sắc tơn giáo cũng có
quan niệm nhất định về nguồn lực tôn giáo theo các cách tiếp cận khác
25
nhau, tùy thuộc vào ưu thế, sự đóng góp của các tơn giáo nói chung, từng
tơn giáo nói riêng trong từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể khác nhau.
Các quan niệm về các nguồn lực của các tôn giáo đều thống nhất ở
những điểm sau: khẳng định vai trò của tơn giáo, coi những tác động tích
cực của các tơn giáo là một trong những nguồn lực quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đều thừa nhận các nguồn lực của các
tôn giáo ở hai phương diện: nguồn lực tinh thần và nguồn lực vật chất,
trong đó nhấn mạnh nhiều hơn ở nguồn lực tinh thần - đó là các giá trị về
văn hóa, đạo đức tôn giáo; các nguồn lực của các tôn giáo đã tham gia vào
tất cả các quá trình, lĩnh vực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó
ưu thế, đóng góp tiêu biểu ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội, từ
thiện nhân đạo.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Hiện nay, Nhà nước đã công nhận và
cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo
với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước, trên 55.000 chức
sắc, gần 150.000 chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự9. 16 tôn giáo gồm: Phật
giáo, Cơng giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật giáo Hịa Hảo, Hồi giáo, Tôn giáo
Baha’I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc Phục lâm, Phật giáo Tứ Ân Hiếu nghĩa,
Minh Sư đạo, Minh lý đạo - Tam Tông Miếu, Bà-la-môn giáo, Mặc môn, Phật
giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Bửu Sơn Kỳ Hương10. Quan điểm của Đảng về “các
nguồn lực của các tôn giáo” xác định là những nguồn lực của các tôn giáo, tổ
chức tôn giáo được Nhà nước công nhận nêu trên. Các nguồn lực của các tôn
giáo rất đa dạng: nguồn lực con người có tơn giáo; nguồn lực từ cơ sở vật chất,
nguồn vốn, khả năng vận động, huy động tài chính; những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực này được sử dụng vào việc “Đời”,
ích nước, lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát huy trong phát
triển đất nước.
Tại Đại hội lần này, Đảng ta tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh đến
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo. Phát huy những