Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Lý luận về lợi nhuận, lợi nhuận thương nghiệp của KTCT mác lênin và ý nghĩa thực tiễn trong phát triển thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.45 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................2
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN VÀ LỢI NHUẬN THƯƠNG
NGHIỆP CỦA KTCT MÁC - LÊNIN........................................................3
I. LỢI NHUẬN...............................................................................................3
1.1. Chi phí sản xuất.......................................................................................3
1.2. Bản chất lợi nhuận...................................................................................3
1.3. Tỷ suất lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng...........................................5
1.4. Lợi nhuận bình quân................................................................................6
II. LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆP............................................................7
2.1. Nguồn gốc lợi nhuận của tư bản thương nghiệp.....................................7
2.2. Bản chất lợi nhuận của thương nghiệp....................................................9
2.2.1. Lợi nhuận thương nghiệp..............................................................9
2.2.2. Sự hình thành lợi nhuận của tư bản thương nghiệp......................10
CHƯƠNG II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM....12
I. THỰC TRẠNG CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI TRƯỚC THỜI
KỲ ĐỔI MỚI ...............................................................................................12
II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI..................14
2.1. Chủ trương chính sách của đảng về đổi mới..........................................14
2.2. Thành tựu bước đầu của quá trình đổi mới doanh nghiệp thương mại ở
nước ta ..........................................................................................................16
2.3. Đổi mới hoạt động thương mại, thúc đẩy phát triển sản xuất................19
KẾT LUẬN..................................................................................................24
Tài liệu tham khảo.........................................................................................25

1


LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước phồn vinh, đời sống của mọi thành viên trong xã hội ngày
càng cải thiện. Đòi hỏi phải có một nền cơng nghiệp, nơng nghiệp phát triển,


khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển.
Vì thế, khơng phải ai khác không phải một tổ chức, một quốc gia nào
khác có thể giúp chúng ta mà tự ta phải tìm ra con đường phát triển kinh tế
phù hợp với điều kiện của nước ta của nước ta hiện nay. Những yếu tố chính
quyết định, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Đó chính là lợi
nhuận.Vậy thế nào là lợi nhuận ? lợi nhuận thương nghiệp là gì? và lợi nhuận
thương nghiệp đóng vai trị như thế nào trong hoạt động của các doanh nghiệp
thương mại nền kinh tế thị trường mà ta lại có thể xem nó là yếu tố chính yếu?
Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Q trình nghiên cứu nó
phải xuất phát từ các quan điểm của các nhà học thuyết trước C.Mac kết hợp
với quan điểm của C.Mac và thực tiễn hiện nay. Quá trình nghiên cứu sẽ giúp
giải đáp được các câu hỏi luôn đặt ra trong lý luận cũng như trong thực tiễn về
sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp, những biến đổi xã hội..để thấy được
quá trình phát triển của Việt Nam. Em nhận thấy đây là một vấn đề hết sức
quan trọng và mang tính thời sự .
Do đó, bài tiểu luận này em đề cập đến vấn đề “Lý luận về lợi nhuận,
lợi nhuận thương nghiệp của KTCT Mác - Lênin và ý nghĩa thực tiễn trong
phát triển thương mại ở Việt Nam”.
Do nguồn kiến thức của em còn nhiều hạn chế và trong phạm vi đề tài
cho phép em rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ giáo và các bạn
sinh viên để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

2


CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN VÀ LỢI NHUẬN THƯƠNG
NGHIỆP CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

I. LỢI NHUẬN
Để làm rõ bản chất của lợi nhuận, C.Mác bắt đầu phân tích làm rõ chi

phí sản xuất
1.1. Chi phí sản xuất
Mục đích của nhà tư bản là thu hồi được giá trị tư bản đã ứng ra từ giá
trị hàng hóa đã bán được. Khái niệm chi phí sản xuất xuất hiện trong mối quan
hệ đó.
Chi phí sản xuất TBCN là phần giá trị của hàng hóa, bù lại giá cả của
những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã được sư
dụng để sản xuất ra hàng hóa ấy.
Ký hiệu: k; k = c + v
Khi suất hiện phạm trù chi phí hàng hóa thì giá trị hàng hóa G = (c + v
+ m) sẽ biểu hiện thành G = k + m.
Chi phí sản xuất có vai trị quan trọng: bù đắp tư bản về giá trị và hiện
vật, đảm bảo điều kiện cho tại sản xuất trong kinh tế thị trường; tạo cơ sở cho
cạnh tranh, là căn cứ quan trọng cho cạnh tranh về giá cả bán hàng giữa các
nhà tư bản.
1.2. Bản chất lợi nhuận
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản
xuất có một khoảng chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa (bán ngang

3


giá), nhà tư bản không những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà cịn thu được
số chênh lệch bằng giá trị thặng dư. Số chênh lệch này C.Mác gọi là lợi nhuận.
Ký hiệu lợi nhuận là p.
Khi đó giá trị hàng hóa được viết là: G = k+p Từ đó p = G - k.
Từ cách tính toán trên thực tế như vậy, người ta chỉ quan tâm tới khoản
chênh lệch giữa giá trị hàng hóa bán được với chi phí phải bỏ ra mà khơng
quan tâm đến nguồn gốc sâu xa của khoản chênh lệch đó chính là giá trị thặng
dư chuyển hóa thành. Thậm chí, với nhà tư bản, lợi nhuận còn được quan

niệm là do tư bản ứng trước sinh ra.
C.Mác khái quát: giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của tồn bộ
tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận. Điều đó có nghĩa,
lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt
nền kinh tế thị trường.
Nhà tư bản cá biệt chỉ cần bán hàng hóa với giá cả cao hơn chi phí sản
xuất là đã có lợi nhuận. Trong trường hợp bán đúng bằng chi phí sản xuất là
khơng có lợi nhuận. Bán hàng hóa thấp hơn giá trị và cao hơn chi phí sản xuất
cũng có thể đã có lợn nhuận. trong trường hợp này, lợi nhuận nhỏ hơn giá trị
thặng dư.
Lợi nhuận là giá trị thặng dư quan niệm là kết quả của toàn bộ tư bản
ứng trước (chênh lệch giữa giá bán và chi phí sản xuất).
Giá bán hàng hóa lên xuống xoay xung quanh giá trị dẫn đến lợi nhuận
lên xuống xoay xung quanh giá trị thặng dư.
Khi giá cả hàng hoá = giá trị hàng hóa, thì P = M
Khi giá cả hàng hố > giá trị hàng hóa, thì P > M
4


Khi giá cả hàng hoá < giá trị hàng hoá, thì P < M
Lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt nền
kinh tế thị trường. Lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ, động lực của hoạt
động sản xuất, kinh doanh trong nền nền kinh tế thị trường.
1.3. Tỷ suất lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của
tư bản ứng trước.
Tỷ suất lợi nhuận được ký hiệu là p’ và được tính theo cơng thức:
P’= p/(c + v) * 100%
Tỷ suất lợi nhuận phản ánh mức doanh lợi đầu tư tư bản. Tỷ suất lợi
nhuận thường được tính hàng năm, từ đây hình thành khái niệm tỷ suất lợi

nhuận hàng năm. Mặc dù lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với kinh doanh
tư bản chủ nghĩa, vì sự hiện diện của nó thể hiện hiệu quả kinh tế, tuy nhiên so
với lợi nhuận thì tỷ suất lợi nhuận phản ánh đầy đủ hơn mức độ hiệu quả kinh
doanh. Chính vì vậy, tỷ suất lợi nhuận với tư cách là số đo tương đối của lợi
nhuận, đã trở thành động cơ quan trọng nhất của hoạt động cạnh tranh tư bản
chủ nghĩa.
Như vậy, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận là những phạm trù thể hiện lợi ích
kinh tế của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đó các
nhà tư bản muốn làm giàu và làm giàu nhanh cần phải tìm ra cách thức để có
được tỷ suất lợi nhuận cao nhất.
* Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận
Quan sát từ cơng thức tính tỷ suất lợi nhuận có thể thấy, những nhân tố
nào ảnh hưởng tới giá trị của tư số hoặc mẫu số, hoặc cả tư số cả mẫu số của
5


phân thức cũng sẽ ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận. C.Mác nêu ra các nhân tố
sau:
Thứ nhất, tỷ suất giá trị thặng dư. Sự gia tăng của tỷ suất giá trị thặng
dư sẽ có tác động trực tiếp làm tăng tỷ suất lợi nhuận.
Thứ hai, cấu tạo hữu cơ tư bản. Cấu tạo hữu cơ c/v tác động tới chi phí
sản xuất, do đó tác động tới lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
Thứ ba, tốc độ chu chuyển của tư bản. Nếu tốc độ chu chuyển của tư
bản càng lớn thì tỷ lệ giá trị thặng du hàng năm tăng lên, do đó, tỷ suất lợi
nhuận tăng.
Thứ tư, tiết kiệm tư bản bất biến.Trong điều kiện tư bản khả biến không
đổi, nếu giá trị thặng dư giữ nguyên, tiết kiệm tư bản bất biến làm tăng tỷ suất
lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận hàng năm là thước đo cụ thể, phản ánh đầy đủ hơn
mức độ hiệu quả kinh doanh, vì vậy đã trở thành động cơ quan trọng nhất của

hoạt động cạnh tranh tư bản chủ nghĩa.
1.4. Lợi nhuận bình quân
Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sự phát triển của cạnh
tranh tất yếu dẫn tới hình thành lợi nhuận bình quân là mức lợi nhuận có tác
động điều tiết đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản.
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận thu được theo tỷ suất lợi nhuận bình
qn.
Cơng thức:
Những điều kiện hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình
quân, giá cả sản xuất bao gồm tư bản tự do di chuyển và sức lao động tự do di
6


chuyển. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân đã
trở thành căn cứ cho các doanh nghiệp lựa chọn ngành nghề, phương án kinh
doanh sao cho có hiệu quả nhất.
II. LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆP
2.1. Nguồn gốc lợi nhuận của tư bản thương nghiệp
Với cách tiếp cận thứ nhất, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp hình
thành thơng qua q trình chuyển hóa giá trị mà trong đó, tư bản thương
nghiệp đóng vai trị cầu nối để thực hiện nhiệm vụ phân phối và lưu thơng
hàng hóa của tư bản cơng nghiệp tới thị trường và tới người tiêu dùng nói
chung trong tồn xã hội. Với cách tiếp cận này, lợi nhuận của tư bản thương
nghiệp đóng vai trị khách quan trong q trình tạo ra lợi nhuận tư bản vì nó
chỉ đơn thuần là một cầu nối có chức năng chuyển hóa giá trị theo cơng thức
lưu thơng hàng hóa T - H - T'. Nói cách khác, lợi nhuận của tư bản thương
nghiệp tồn tại với tư cách khách quan trong mối quan hệ giữa các chủ thể bao
gồm: tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp và thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Bởi lẽ theo cách tiếp cận này, hai chủ thể chính của q trình nêu trên là
tư bản cơng nghiệp và thị trường người tiêu dùng, còn lợi nhuận của tư bản

thương nghiệp chỉ đơn thuần có được từ việc thực hiện chức năng trung gian.
Với cách tiếp cận thứ hai, là khi chúng ta nhìn nhận dịch vụ thương
nghiệp đồng thời là một loại hàng hóa. Lúc này tự bản thân tư bản thương
nghiệp đã trở thành một chủ thể độc lập và tự nó tạo ra giá trị cũng như giá trị
sư dụng của riêng mình. Do đó trong tình huống này, lợi nhuận của tư bản
thương nghiệp lại có được chính từ q trình lưu thơng hàng hóa dịch vụ
thương nghiệp xét trong nội tại hình thái vận động của riêng nó. Với cách tiếp
cận này, tư bản thương nghiệp đã tham gia một cách trực tiếp vào quá trình tạo
ra giá trị từ sản phẩm hàng hóa ban đầu của tư bản cơng nghiệp. Nói một cách
7


khác, từ hàng hóa ban đầu mà tư bản thương nghiệp ứng tiên ra mua về, họ đã
vơ tình sản xuất ra một loại hàng hóa vơ hình khác từ chính q trình này, là
hàng hóa dịch vụ thương nghiệp.
Theo cách hình dung này, việc phân phối và lưu thơng hàng hóa được
hiểu theo một nghĩa khác, chính là sự chuyển giao lần thứ hai từ loại hàng hóa
ban đầu giờ đây đã trở thành một loại “hàng hóa kép” trước khi đến với thị
trường và người tiêu dùng.
HÀNG HOÁ
SẢN PHẨM

HÀNG HỐ SẢN
PHẨM + HÀNG HỐ
DỊCH VỤ

THỊ TRƯỜNG
TIÊU DÙNG

Hình 2.1. Sơ đồ mơ tả q trình chuyển giao “hàng hóa kép"

Với những lập luận và phương hướng phát triển nội dung như đã trình
bày, tổng hợp lại chúng ta có được khái quát về nguồn gốc lợi nhuận của tư
bản thương nghiệp theo cách hiểu như sau: Lợi nhuận của tư bản thương
nghiệp được hình thành thơng qua q trình tư bản thương nghiệp thực hiện
chức năng phân phối và lưu thơng hàng hóa. Dù tư bản thương nghiệp chỉ
đơn thuần thực hiện vai trò cầu nổi trung gian (tương ứng khách quan), hay
tự bản thân nó tạo ra một loại hàng hóa đặc biệt (tương ứng chủ quan) để
mang trao đổi trong quá trình mua và bán thì cuối cùng, tư bản thương
nghiệp cũng đã trực tiếp tạo ra giá trị hàng hóa từ q trình này.
Bên cạnh đó, qua q trình phân tích nêu trên, một lần nữa khẳng định
sự phù hợp và bảo vệ cũng như củng cố cho những lý luận trong các học
thuyết về giá trị của Mác. Lúc này tư bản thương nghiệp và loại hình dịch vụ
thương nghiệp khi thực hiện chức năng phân phối trung gian và được xem xét
dưới góc độ của một hình thái sản phẩm, đã đáp ứng đúng theo các thuộc tính
cơ bản cũng như thể hiện mối quan hệ vừa thống nhất vừa mẫu thuẫn giữa hai
8


thuộc tính cơ bản của hàng hóa. Đây là thương nghiệp thực hiện chức năng
phân phối và lưu thông hàng hóa. Dù tư bản thương nghiệp chỉ đơn thuần thực
hiện vai trò cầu nối trung gian (tương ứng khách quan), hay tự bản thân nó tạo
ra một loại hàng hóa đặc biệt (tương ứng chủ quan) để mang trao đổi trong
quá trình mua và bán thì cuối cùng, tư bản thương nghiệp cũng đã trực tiếp tạo
ra giá trị hàng hóa từ q trình này.
Đây là tiền đề tạo điều kiện cho việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu và khái
quát hóa hơn nữa về bản chất lợi nhuận của tư bản thương nghiệp. Bởi lẽ
chúng ta chỉ có thể có được sự nhìn nhận thực chất về bản chất lợi nhuận của
tư bản thương nghiệp, khi đã có sự liên kết chặt chẽ và vận dụng hợp lý các
nền tảng lý luận cơ sở trong việc xác định đúng nguyên nhân cũng như đặc
điểm, hình thái tồn tại của loại hình này.

2.2. Bản chất lợi nhuận của thương nghiệp
2.2.1. Lợi nhuận thương nghiệp
Khái niệm: lợi nhuận của tư bản thương nghiệp là một phần giá trị
thặng dư, mà nhà tư bản công nghiệp phải “nhượng lại” cho tư bản thương
nghiệp do tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho tư bản công nghiệp.
Theo học thuyết của Mác, giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất,
không hề được tạo ra trong lưu thông. Khi một sản phẩm được hình thành, bên
trong sản phẩm ngồi kết tinh từ giá trị của tư liệu sản xuất di chuyển vào, cịn
có phần giá trị trừu tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình lao động.
Phần giá trị này lớn hơn sức lao động và bằng giá trị sức lao động cộng với giá
trị thặng dư. Như vậy, giá trị thặng dư đã được hình thành ngay từ trong sản
xuất và nằm trong giá trị sản phẩm khi tư bản cơng nghiệp hồn tất một chu
trình tạo ra sản phẩm. Tư bản công nghiệp đúng ra sẽ là chủ thể được hưởng
trọn vẹn toàn bộ lượng giá trị thặng dư này, trong điều kiện các nhà tư bản
9


công nghiệp sẽ đồng thời chịu trách nhiệm cung ứng cũng như phân phối sản
phẩm ra thị trường. Điều này sẽ gây ra một khó khăn cho các nhà tư bản công
nghiệp nếu phải thực hiện đồng thời một chức năng hồn tồn khơng với lĩnh
vực chính đó là sản xuất sản phẩm. Công việc phân phối và cung liên quan
ứng sản phẩm ra thị trường đòi hỏi sự tập trung chuyên môn riêng, sự đầu tư
nguồn vốn cũng như nhân lực thích hợp vì nhiệm vụ chính của cơng việc này
tập trung xoay quanh vẫn để chuyển hóa giá trị hàng hóa sang tư bản. Trong
khi đó, chức năng chính của tư bản cơng nghiệp lại chủ yếu tập trung xoay
quanh vẫn đề chuyên hóa giá trị tư bản thành giá trị sư dụng kết tinh vào trong
sản phẩm.
Chính từ yêu cầu thực tế nêu trên, trong điều kiện nền sản xuất tư bản
chuyển đổi mạnh mẽ sang một giai đoạn phát triển cao với trình độ tổ chức
sản xuất và chun mơn hóa sâu rộng, tư bản thương nghiệp đã khẳng định

chắc chắn vị trí của mình khi đảm nhiệm vai trò trung gian phân phối trong
khâu cung ứng và lưu thơng hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tư bản
thương nghiệp đã giúp cho lưu thơng hàng hóa thuận lợi, thị trường mở rộng,
tốc độ chu chuyển của tư bản tăng lên và do đó thúc đẩy sự phát triển của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2.2.2. Sự hình thành lợi nhuận của tư bản thương nghiệp
Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp trong lưu thơng, về cơ bản, lợi
nhuận thương nghiệp có được từ quá trình thực hiện nhiệm vụ tạo giá trị và
giá trị thặng dư của tư bản thương nghiệp. Trên thực tế, lợi nhuận này là chênh
lệch giữa giá mua và giá bán. Nhà tư bản thương nghiệp được ưu đãi mua
hàng hóa từ nhà tư bản cơng nghiệp với giá bán thấp hơn giá trị, vì vậy khi họ
bán lại hàng hóa đúng với giá trị thực sẽ thu được một phần lợi nhuận chênh
lệch so với số vốn bỏ ra ban đầu.
10


Nếu xét lợi nhuận của tư bản thương nghiệp dưới góc độ bản chất khách
quan của chủ thể khi tham gia vào q trình chuyển hóa và tạo ra giá trị, thì
phần lợi nhuận này cũng chính là phần giá trị thặng dư kết tinh trong sản
phẩm, có được từ khâu sản xuất ra sản phẩm thông qua việc chiếm đoạt giá trị
dơi ra ngồi giá trị sức lao động do người cơng nhân tạo ra trong q trình sản
xuất.
Trong công thức vận động của tư bản thương nghiệp: T-H-T’
Theo công thức này, ban đầu tư bản thương nghiệp phải ứng ra một số
vốn tư bản là T để mua về hàng hóa H. Với cách hiểu về lợi nhuận thương
nghiệp như đã nêu ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng trong số vốn tư bản
mà tư bản thương nghiệp ứng ra cho tư bản công nghiệp để mua trước hàng
hóa H đã bao gồm một phân giá trị thặng dư mà nhà tư bản công nghiệp mong
muốn nhận được. Phân giá trị thặng dư còn lại nằm trong sản phẩm hàng hóa,
tư bản thương nghiệp sẽ thu về phần giá trị thặng dư này cùng với số vốn tư

bản đầu tư ban đầu bằng việc bán lại hàng hóa với đúng giá trị khi lưu thơng
trên thị trường.
Goi giá trị chưa bao gồm giá trị thặng dư của sản nhẩm là T1.
Gọi giá trị thặng dư mà tư bản công nghiệp mong muốn thu về là T2.
Gọi giá trị thặng dư mà tư bản thương nghiệp được hưởng chênh lệch
thơng qua giá mua hàng hóa là T3.
Lúc này, giá trị thực của sản phẩm là : T' = T1 + T2 +T3

11


CHƯƠNG II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ
đạo. Chính vì vậy, kinh tế Nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương
mại nói riêng “giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng
tiến bộ khoa học kĩ thuật, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả
kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật”. Tuy vậy, với nhiều loại hình
doanh nghiệp, nhiều hình thức sở hữu đan xen thì doanh nghiệp thương
mại phải làm gì và làm như thế nào để giữ vị trí then chốt trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề cực kì
quan trọng và phức tạp.
Từ năm 1955, sau khi dành được độc lập ở miền Bắc, Đảng và nhà
nước ta đã lãnh đạo nhân nhân xây dựng kinh tế quốc doanh, kinh tế tập
thể trên một nưa đất nước đã bị chiến tranh tàn phá. Các xí nghiệp của
thực dân Pháp để lại ở hai khu vực kinh tế lớn nhất miền Bắc là thủ đô
Hà nội và thành phố Hải phịng khơng có q 10 xí nghiệp, trong đó

máy móc, thiết bị đã bị chuyển phần lớn, chỉ có mấy nhà máy phục vụ
12


cho nhu cầu dân sinh như: Nhà máy điện Yên Phụ Hà Nội, Nhà máy
điện Sơng Cấm - Hải Phịng, nhà máy nước Yên Phụ - Hà nội; nhà máy
nước An Dương - Hải phòng.
Với sự nỗ lực của Đảng và nhân dân ta cùng sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, chúng ta đã xây dựng hàng loạt các xí
nghiệp quốc doanh lơn nhỏ, cùng với cải cách dân chủ, chúng ta đã hợp
doanh với các nhà tư sản dân tộc để xây dựng các xí nghiệp cơng tư hợp
doanh. Điều đó đã tạo cho doanh nghiệp thương mại có khả năng phát
triển kinh tế nói chung trong thời kì một nưa đất nước bị chiến tranh và
một nưa đất nước đang ở trong thời kì khơi phục sau chiến tranh. Tuy
nhiên, trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ đã tàn phá
nhiều nhà máy lớn của ta như: nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy
gang thép Thái nguyên, nhà máy cơ khí Cẩm phả, …, đến năm1975, đất
nước được giải phóng hồn tồn, chúng ta tiếp quản được khu cơng
nghiệp Biên hồ và các xí nghiệp khác của miền Nam.
Như vậy, các doanh nghiệp thương mại đầu tiên được hình thành
từ việc quốc hữu hố các xí nghiệp tư bản tư nhân hoặc tiếp quản các
doanh nghiệp của chính quyền cũ để lại. Sau hơn 10 năm kể từ ngày
thông nhất đất nước 1975, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì theo cơ chế
quản lý cũ - cơ chế tập chung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp thương
mại là cơ quan chủ yếu trong việc sản xuất và phân phối hàng hố dưới
sự bảo trợ của nhà nước, vì lực lượng kinh tế quốc doanh là xương sống
của nền kinh tế.
Như vậy, doanh nghiệp thương mại thời kì trước đổi mới có vị trí
quan trọng trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Nó được coi là
“xương sống” của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc duy trì cơ chế kế hoạch

13


hóa tập trung đã làm cho nền kinh tế nước ta rơi vào trì trệ và khủng
hoảng, mà doanh nghiệp thương mại thời kì này cũng khơng nằm ngồi
tình trạng chung đó. Điều này đã gây lên những tổn thất to l ớn đối với
nền kinh tế nước ta.

II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
Thực hiện nhất quán quan điểm kết hợp hài hồ các lợi ích kinh tế trong
phát triển kinh tế. Vấn đề cơ bản nhất là phân phối thu nhập, phân phối lợi ích
kinh tế trong xã hội sao cho cơng bằng chính điều này tạo ra động lực mới cho
sự phát triển. Do vậy nhà nước phải có chính sách và biện pháp điều chỉnh thu
nhập để giảm bớt chênh lệch giữa người giàu và người nghèo trong, hạn chế
bất công trong xã hội. Đổi mới cơ chế phân phối lợi nhuận, tuỳ theo từng
ngành, lĩnh vực nhằm giải quyết bất bình đẳng trong việc thu phân chia lợi
nhuận.
Bên cạnh đó nhà nước cần kiểm kê kiểm soát nguồn vốn của các doanh
nghiệp thương mại bắt đầu từ khâu cấp giấy phép kinh doanh đến khâu tiêu
thụ sản phẩm. Khai thác tối ưu các tiềm năng kinh tế ở các địa phương tạo
động lực cho sự phát triển nâng cao vai trò của lợi nhuận. Lợi nhuận thương
nghiệp vốn đã có vai trị vơ cùng quan trọng để nâng cao vai trò của lợi nhuận
nhà nước cần phải có biện pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của lợi nhuận.
Nên giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để cho các doanh nghiệp có thêm nhiều
cơ hội kinh doanh, cơ hội mở rộng sản xuất.
Lợi nhuận nâng cao thu nhập. Khi doanh nghiệp thu được lợi nhuận như
vậy doanh nghiệp không chỉ đảm bảo chỗ đứng trên thương trường mà còn tạo
14



ra công ăn việc làm cho người lao động, thu được lợi nhuận sẽ làm cho thu
nhập tăng lên làm tăng khả năng tiêu dùng, làm tổng thu nhập của xã hội tăng
lên.
2.1. Chủ trương chính sách của Đảng về đổi mới
Trước đây, khi nước ta muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội,
muốn dùng kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp để thực hiện chủ
nghĩa xã hội thì nó lại làm cho nền kinh tế bị sa sút, kiệt quệ, do ta chưa
nắm được sự khác nhau giữa các quy luật trong chiến tranh và trong hồ
bình, đặc biệt là quy luật phát triển của một nước nghèo lền một nước
giàu để huy động lực lượng toàn dân cùng làm. Chính thực tế đó đã đặt
ra cho Đảng và Nhà nước ta yêu cầu cấp thiết đổi mới để thốt khỏi tình
trạng khủng hoảng của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp thương
mại nói riêng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) là
nhằm mục đích ấy. Đó là đại hội mở đầu cho quá trình đổi mới trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đảng chủ trương vận dụng cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước thay cho cơ chế kinh tế cũ đã lạc
hậu, chủ trương tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú
trọng ba chương trình kinh tế lớn (lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu) làm cho thành phần kinh tế - xã hội chủ nghĩa
giữ vai trị chi phối. Có thể nói, việc đổi mới là một quyết định sáng
suốt và hợp lý của Đảng ta trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì
nếu như trước đây ta dùng kế hoạch hoá tập trung để xây dựng chủ
nghĩa xã hội đã không thành công, thì nay dùng cơ chế của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa để xây dựng xã hội chủ nghĩa là
việc bình thường. Hai mơ hình này chỉ là phương tiện để chúng ta có thể
15


đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh” mà thôi. Việc sư dụng phương tiện kinh tế thị trường sẽ phát
huy được yếu tố chủ động, tích cực cho các thành phần kinh tế, đặc biệt
là kinh tế Nhà nước, trong đó có doanh nghiệp thương mại, từ đó sẽ đưa
đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng và đi đến phát triển cả về thể và lực.
Như vậy, từ việc nhận thức đúng đắn thực trạng của nền kinh tế
trong thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Đảng và Nhà nước ta
đã kịp thời có những chủ trương, chính sách để đổi mới nền kinh tế nói
chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng (Đổi mới cơ chế quản lý,
sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp thương mại). Như trong đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (19-4-2001) đã nhận định: “Đổi
mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và các quyền kinh
doanh của doanh nghiệp, của các doanh nghiệp thương mại kinh doanh
sang hoạt động theo cơ chế công ty Trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty
Cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp
luật, xoá bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ
trương cổ phần hoá nhưng doanh nghiệp mà Nhà nước không cần năm
giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý
năng động, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho
người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần
cho các đầu tư trong nước và ngoài nước. Thực hiện giao, bán, khoán
cho thuê các doanh nghiệp nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ. Sáp
nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không
thực hiện ược các biện pháp trên”.

16


Q trình đổi mới nhờ những chủ trương và chính sách của Đảng
là cơ sở để doanh nghiệp thương mại tiến hành cải cách một cách toàn

diện, nhằm khắc phục tình trạng yếu kém, trì trệ trong cơ chế cũ trước
đây.
2.2. Thành tựu bước đầu của quá trình đổi mới doanh nghiệp
thương mại.
Sau đại hội VI (1986), kinh tế nước ta chuyển sang thời kỳ đổi
mới toàn diện, doanh nghiệp thương mại đã được củng cố và đã đạt
được những thành tựu bước đầu, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế. về tổng thể: mặc dù số lượng doanh nghiệp thương mại giảm đáng kể
(từ 12.300 doanh nghiệp, còn trên 5655 doanh nghiệp - tính đến 5-2001)
và danh nghiệp dân doanh tăng từ chỗ có vài nghìn đến 60.000 đơn vị,
số lượng cơng nhân điều chỉnh mạnh, q trình đổi mới vừa thay đổi cơ
chế quản lý, vừa tổ chức sắp xếp lại nhiều đợt trong điều kiện chuyển
đổi kinh tế, nhưng doanh nghiệp thương mại vẫnghiên cứuó tốc độ tăng
trưởng cao và giữ vị trí đáng kể, đóng góp vào ngân sách và xuất khẩu,
cụ thể:
Tỷ trọng doanh nghiệp thương mại trong tổng sản phẩm quốc nội
GDP tăng từ 35,6% (1991) lên đến 40,7% (1998).
Tỷlệ nộp ngân sáh trên vốn nhà nước tăng tương ứng từ 14,7%đến
27,89%.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước năm 1993 là: 6,8% và
năm1998 là: 12,31%.
Năm 1999, các doanh nghiệp thương mại làm ra 40,2% GDP, hơn
50% giá trị xuất khẩu, đóng góp 39,25% tổng nộp ngân sách nhà nước.
17


Nhờ những thành tựu chung đó, doanh nghiệp thương mại đã góp
phần đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế (GDP năm 2000
gấp hai lần năm 1990).
Cụ thể:

Cơ chế tài chính đã có sự thay đổi đối với doanh nghiệp thương
mại, điều này có tác dụng xố bỏ bao cấp (trợ cấp trực tiếp) cho doanh
nghiệp thương mại từ ngân sách Nhà nước.
Như vậy, doanh nghiệp thương mại đã được “thương mại hoá” và
Ngân sách Nhà nước sẽ có được điều kiện tập trung cho các mục tiêu
khác trong khi vẫn duy trì được vai trị, hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp thương mại có thể được coi
là những tổ chức kinh tế hạch toán độc lập.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại về
cơ bản đã được nâng lên so với trước ở tất cả các mặt. So với các khu
vực khác, các chỉ số về hiệu suất vốn, lãi tuyệt đối, tỷ lệ nộp ngân sách
Nhà nước… tuy còn thấp nhưng so với thời kỳ trước đổi mới đã có sự
cải thiện đáng kể.
Trong đổi mới quản lý, mơ hình tổng cơng ty đã bước đầu phát
triển, đã phân định được các chức năng quản lý nhà nước của các cơ
quan Nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
thương mại, việc chủ sở hữu vốn, mức độ tự hủ của doanh nghiệp đã
được làm rõ. Ý thức được chức năng, nhiệm vụ ấy, doanh nghiệp thương
mại sẽ chủ động, tích cực hơn trong việc đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh sản xuất, hoạch định phát triển.

18


Từ khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của kinh tế
Nhà nước mà nịng cốt là doanh nghiệp thương mại đóng vai trò then
chốt cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển mạnh mẽ. Sau 15
năm đổi mới (1986 - 2001) doanh nghiệp thương mại vẫn chiếm gần
40% GDP và đóng góp hơn 40% vào ngân sách quốc gia.

Trong việc thực hiện đa dạng hoá sở hữu: cổ phần hoá, tư nhân
hoá, giao khoán, giải thể, phá sản tuy tiến hành chậm nhưng sau 6 năm
thí điểm thực hiện đến năm 1998 - 1999, chúng ta đã có sự thống nhất
và triển khai mạnh cá giải pháp chuyển đổi sở hữu, dặc biệt là việc cổ
phần hoá các doanh nghiệp đã huy động được vốn từ các nhân viên
trong các cơng ty, xí nghiệp thu được những kết quả nhất định.
2.3. Đổi mới hoạt động thương mại, thúc đẩy phát triển sản xuất
*Hoạt động thương mại
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật hiện hành, hoạt động thương mại
được đề cập cụ thể ở Luật Thương mại năm 2005, Nghị định 39/2007/NĐ-CP,
và các văn bản khác liên quan đến hoạt động kinh doanh. Cụ thể như sau: Đó
là mọi hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, đồng nghĩa với hoạt động kinh
doanh. “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi“ (K2 Đ4 Luật Doanh nghiệp
2005). Hoạt động kinh doanh thực hiện trong nhiều lĩnh vực sản xuất, lưu
thơng hàng hóa và dịch vụ.
Như vậy, hoạt động thương mại bao gồm không chỉ các hoạt động mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ mà cịn là các hoạt động đầu tư cho sản xuất
dưới các hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, được điều chỉnh bằng
19


Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp 2005 Luật Kinh doanh bất động sản , Luật
Chứng khoán và các Luật chuyên ngành khác.
Theo Luật thương mại , “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác“ (K1 Đ3 Luật
thương mại). Hoạt động thương mại được định nghĩa theo Luật thương mại
chỉ tập trung vào các hoạt động kinh doanh trong 2 khâu lưu thông và dịch vụ,

không bao hàm khâu đầu tư cho sản xuất.
Hai lĩnh vực chủ yếu của hoạt động thương mại là thương mại hàng hóa
và thương mại dịch vụ.
- Mua bán hàng hố (Thương mại hàng hóa) là hoạt động thương mại,
theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho
bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán,
nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận (K8 Đ3 Luật thương
mại).
- Cung ứng dịch vụ (Thương mại dịch vụ) là hoạt động thương mại,
theo đó một bên (gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ
cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sư dụng dịch vụ (gọi là khách hàng)
có nghĩa vụ thanh tốn cho bên cung ứng dịch vụ và sư dụng dịch vụ theo thỏa
thuận (K9 Đ3 Luật thương mại).
Căn cứ theo khái niệm về “hoạt động thương mại” được quy định tại
khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, có thể xác định “hoạt động
thương mại” có những đặc điểm chính sau đây:
Một là, trong các chủ thể tham gia trong hoạt động thương mại thì có ít
nhất một trong các bên được xác định là thương nhân. Thương nhân, là khái
20


niệm dùng để chỉ những chủ thể thực hiện hoạt động thương mại gồm tổ chức
kinh tế được thành lập một cách hợp pháp, cá nhân họat động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có thực hiện việc đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật. Trong đó, tổ chức kinh tế được hiểu là những tổ chức mà
được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật, thực hiện hoạt động đầu
tư kinh doanh thu lợi nhuận, thường được thể hiện thơng các hình thái như
doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…
Hai là, mục đích của các bên khi thực hiện hoạt động thương mại đều là
nhằm mục đích lợi nhuận. Cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác,

các chủ thể thực hiện hoạt động thương mại dù dưới hình thức nào, là mua bán
hàng hoá hay cung cấp dịch vụ, thậm chí thực hiện các hoạt động xúc tiến
thương mại như tổ chức hoạt động khuyến mại, quảng cáo thì đều nhằm mục
đích tạo ra điều kiện cũng như khả năng trao đổi hàng hoá, giao lưu thương
mại, đảm bảo việc tạo ra một nguồn thu nhập, một khoản tiền lợi nhuận từ
những hoạt động này.
Ba là, hoạt động thương mại được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt
động khác nhau, nhưng được xác định chủ yếu thông qua hai nhóm hoạt động:
Mua bán hàng hố và cung ứng dịch vụ.
Bốn là, Chủ thể thực hiện hoạt động thương mại được phép thực hiện
kinh doanh tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ được phép kinh doanh theo quy
định của pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề theo quy định của
pháp luật.
Năm là, phạm vi thực hiện hoạt động thương mại không chỉ giới hạn
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà cịn được thực hiện ngồi phạm vi lãnh
thổ Việt Nam, trong phạm vi khu vực và thế giới, phù hợp với sự phát triển

21


của nền kinh tế thế giới và phù hợp với xu thế tồn cầu hố, mở cưa nền kinh
tế. Thơng qua đó khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Như vậy, hoạt động thương mại là cơ sở để phát triển nền kinh tế nội tại
cũ của quốc gia cũng như sự giao thương, củng cố vị thế quốc gia trên thương
trường quốc tế. Đồng thời, qua việc thực hiện các hoạt động thương mại còn
cho thấy vai trò của thương nhân, nhà đầu tư, cũng như các cá nhân, tổ chức
khác có trong việc đóng góp xây dựng và phát triển nền kinh tế.
*Thực trạng thương mại trong nước và giải pháp
Theo Bộ Công Thương, hàng năm thương mại trong nước tạo ra giá trị
khoảng 14-15% GDP, hỗ trợ giải quyết việc làm cho 6 - 7 triệu lao động

(chiếm hơn 12% tổng lao động toàn xã hội). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ xã hội của nước ta có mức tăng trưởng nhanh. Trong giai
đoạn từ 2015 đến 2017, mức tăng bình quân từ 10,5-10,9%/năm. Riêng năm
2018, tổng mức tăng 11,7% so với năm 2017 - mức tăng đột phá và cao nhất
trong 5 năm trở lại đây.
Tuy nhiên, việc tham gia các hiệp định thương mại tự do đang tạo thêm
sức ép cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Thực tế hiện nay đang đặt ra yêu cầu
đổi mới thương mại trong nước cả về hình thức tổ chức, cơ sở hạ tầng cũng
như cơ chế quản lý, điều hành của Nhà nước.
Chiến lược phát triển phát triển thương mại nội địa do Bộ Công Thương
xây dựng hướng đến mục tiêu phát triển thương mại trong nước hiện đại, tăng
trưởng nhanh và bền vững, phù hợp với trình độ phát triển từng giai đoạn, góp
phần thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
về chất lượng, an tồn vệ sinh, mơi trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, người sản xuất, phân phối và người tiêu dùng.
22


Các giải pháp Chiến lược hướng tới việc giải quyết các vấn đề về tổ
chức kênh phân phối; về loại hình, phương thức kinh doanh; về kết cấu hạ
tầng thương mại; về các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh
phù hợp với tính chất, đặc điểm của thị trường theo ngành hàng, khu vực…
Qua đó góp phần hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam tăng cường
năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường.
Cần đổi mới phương thức hoạt động của thương mại trong nước theo
hướng hiện đại và chuyên nghiệp, phù hợp với quy luật của lưu thơng hàng
hố. Ứng dụng mạnh mẽ cơng nghệ thông tin trong hoạt động thương mại, chú
trọng phát triển thương mại điện tư; gắn kết giữa thương mại điện tư với các
loại hình hoạt động thương mại truyền thống; tạo mọi điều kiện giảm chi phí
của hoạt động thương mại. Bên cạnh đó cũng cần đổi mới về quản lý nhà nước

trong lĩnh vực quản lý thương mại trong nước theo hướng tôn trọng các quy
tắc thị trường. Nhà nước chỉ can thiệp vào những địa bàn, lĩnh vực mà tư nhân
không tham gia; tập trung vào giữ trật tự thị trường, bình ổn thị trường,
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia thị trường, tạo môi trường cạnh
tranh bình đẳng.
Song song với việc đổi mới về tổ chức hoạt động, cần phát triển đa dạng
các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại, kết hợp hài hoà giữa thương mại
truyền thống với thương mại hiện đại. Nâng cao năng lực đối với nguồn nhân
lực trong ngành phân phối, bán lẻ theo hướng chuyên nghiệp, văn minh.
Đặc biệt, đẩy mạnh việc thực hiện các chiến lược, đề án triển thị trường
trong nước gắn kết với thực hiện các chiến lược liên quan đến xuất khẩu và
hội nhập nhằm giảm áp lực cho thị trường trong nước, gắn với Cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014-2020.

23


Trong bối cảnh nước ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn
cầu, Chiến lược phát triển thương mại trong nước sẽ hỗ trợ cải thiện môi
trường kinh doanh và pháp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng trong
nước.
Bên cạnh những đổi mới về quản lý nhà nước theo hướng tôn trọng các
quy tắc thị trường, Nhà nước chỉ can thiệp vào những địa bàn, lĩnh vực mà tư
nhân không tham gia, tỉnh sẽ tập trung các nguồn lực đầu tư phát triển đa dạng
các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại, kết hợp hài hòa giữa thương mại
truyền thống với thương mại hiện đại, phân phối, bán lẻ theo hướng chuyên
nghiệp, văn minh.

KẾT LUẬN

Sự lựa chon con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu lịch sư mà Đảng
và Nhà nước ta đã và đang thực hiện nó. Phấn đấu xây dựng nước ta
thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh” là cái đích cuối cùng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần
đạt tới.
Sự nghiệp đổi mới tồn diện nền kinh tế nói chung và đối mới
doanh nghiệp thương mại nói riêng cũng khơng nằm ngồi mục đích ấy.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều
24


loại hình, thành phần kinh tế và nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều
hình thức sở hữu đan xen thì doanh nghiệp thương mại phải làm gì và
làm như thế nào để giữ vững vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học
và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã
hội và chấp hành pháp luật là một vấn đề cực kỳ cấp bách và cần thiết;
nhất là trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng thì
việc doanh nghiệp thương mại cần tồn tại với số lượng bao nhiêu, phát
triển thêm ngành gì và như thế nào, cần điều chỉnh cơ chế hoạt động ra
sao là một vấn đề cần chúng ta nghiên cứu và bổ sung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng lãnh đạo kinh tế và đảng viên làm kinh tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, HN,
2002.
2. Kinh tế chính tị Mác - Lênin, tập II, Nxb ĐHQG-HN, 2003.
3. Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp thương
mại, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.


25


×