Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Tiểu luận cao học môn lãnh đạo và quản lý báo chí truyền thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.42 KB, 83 trang )

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ BÁO CHÍ - TRUYỀN THƠNG
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm “lãnh đạo” và khái niệm “quản lý”
.+ Khái niệm “lãnh đạo”
STT NGUỒN TRÍCH DẪN
NỘI DUNG KHÁI NIỆM
1
Lãnh đạo: Lý thuyết và Thực Lãnh đạo là một q trình theo đó một cá nhân
hành của Northouse xuất bản ảnh hưởng đến một nhóm các cá nhân khác để
năm 2007
đạt được một mục tiêu chung
2
Theo PGS.TS Phan Kim Chiến Lãnh đạo là sự tác động hoặc gây ra sự ảnh
của trường Đại học Kinh tế Quốc hưởng đến người khác sao cho họ tự nguyện và
Dân
nhiệt tình phấn đấu để đạt được mục tiêu của tổ
chức
3
Trong cuốn Quản trị học - TS Lãnh đạo là một nghệ thuật tác động vào con
Trương Quang Dũng
người sao cho họ khơng những chỉ tn thủ các
mệnh lệnh mà cịn tự nguyện hăng hái làm việc
Khái niệm về lãnh đạo:
Lãnh đạo là một nghệ thuật tác động đến cá nhân, hoặc nhóm người sao cho họ tuân thủ các
mệnh lệnh và tự nguyện phấn đấu để đạt được mục tiêu của chung.
+ Khái niệm “quản lý”
STT NGUỒN TRÍCH DẪN
NỘI DUNG KHÁI NIỆM
1


Trong cuốn: Cơ sở khoa học quản Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng
lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà dẫn các q trình xã hội và hành vi hoạt động của
Nội 1997 của tác giả Nguyễn con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra
Minh Đạo
2
Trong cuốn: Khoa học quản lý, Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một
tập I, Trường ĐH KTQD, Hà Nội cách có kết quả và hiệu quả thơng qua q trình
2001
lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các
nguồn lực của tổ chức
3
Theo Harol Koontz, chuyên gia Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục
trong nghành quản trị đại diện tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy,
tiêu biểu của trường phái “quá phối hợp, hướng dẫn hoạt động của những người
trình quản trị trong cuốn Những khác
vấn đề cốt yếu của quản lý. NXB
khoa học - Kỹ thuật, 1993
Khái niệm về quản lý:
Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục đích đã đề ra thông qua việc tác động điều
khiển, hướng dẫn, phối hợp các nguồn lực của tổ chức.
1.1.2. Khái niệm “lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thơng”
+ Khái niệm “truyền thông”
Theo Gernald Miler viết năm 1966 (Nhà xuất bản lao động, cuốn Cơ sở lý luận báo
chí, Tác giả Nguyễn Văn Dững, xuất bản năm 2012), về cơ bản, truyền thơng quan tâm nhất
đến tình huống hành vi, trong đó nguồn thơng tin truyền nội dung đến người nhận với mục
đích tác động đến hành vi của họ.
Theo tác giả Tạ Ngọc Tấn trình bày trong cuốn Truyền thơng đại chúng (Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, năm 2001): Truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay
các nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau.
1



Ngồi ra, theo giáo trình Giáo trình Truyền thơng lý thuyết và kỹ năng cơ bản (Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, tác giả Nguyễn Văn Dững, Đỗ Thu Hằng, năm 2012). Truyền
thơng có thể được hiểu là q trình liên tục trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình cảm,... chia sẻ kỹ
năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người với nhau để gia tăng hiểu biết lẫn nhau và
hiểu biết về môi trường xung quanh, nhằm thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và
thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm hoặc của cộng đồng xã hội nói
chung, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Từ những luận điểm trên, ta có thể hiều rằng, truyền thơng là q trình trao đổi, chia
sẻ thơng tin giữa các nhóm người với nhau, nhằm phổ biến thơng tin, thơng qua đó nâng cao
khả năng hiểu biết về môi thường xung quanh, tạo ra sự thay đổi về nhận thức và hành vi của
con người.
+ Khái niệm “Báo chí”
Theo nghị định số 51/2002/NĐ - CP (đăng tải ngày 16/4/2002 của Chính phủ) trong
Chương 1, Điều 1 đã nói về thuật ngữ báo chí như sau: “Báo chí là tên gọi chung đối với các
loại hình báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử”.
Căn cứ vào Điều 3, Luật báo chí năm 2016, báo chí được giải thích rằng: báo chí là
sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình
ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công
chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Theo Đề cương chuyên đề “Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác tư tưởng,
lý luận và quản lý báo chí” của Tác giả Nguyễn Văn Dững viết năm 2012, Báo chí Báo chí là
mơt bộ phận của truyền thông đại chúng, nhưng là bộ phận chiếm vị trí trung tâm, vai trị nền
tảng và có khả năng quyết định tính chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác
động của TTĐC. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền thơng đại
chúng; và ngược lại, nói đến TTĐC - trước hết phải nói đến báo chí. Báo chí trong trường hợp
này đươc dùng, đươc hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm báo in, báo chí phát thanh, báo chí truyền
hình, báo mạng điện tử (“phát hành” trên mạng internet) và hãng thơng tấn. Báo chí theo
nghĩa hẹp, là bao gồm báo, tạp chí và bản tin thời sự. Báo chí là hiện tượng xã hội đa nghĩa,

phức tạp và có nhiều cách tiếp cận không giống nhau trong các xã hôi có thể chế chính trị
khác nhau.
Thơng qua những luận điểm trên, báo chí được hiểu là sản phẩm thơng tinvề các sự
kiện, vấn đề trong đời sống xã hội có tính định hướng, được xuất bản theo định kỳ hoặc phi
định kỳ thơng qua các loại hình báo chí.
+ Khái niệm “Báo chí - Truyền thơng”:
Theo Giáo trình Truyền thơng lý thuyết và kỹ năng cơ bản (Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, tác giả Nguyễn Văn Dững, Đỗ Thu Hằng, năm 2012) xuất phát từ bản chất của báo
chí truyền thông - là hoạt động thông tin - giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn nhất, là công
cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội
hiệu quả nhất trong mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và với các
nhóm lợi ích, với các nước trong khu vực và quốc tế”.
Theo Nhà báo Trần Hữu Quang (Nhà báo viết về nghề báo, nhà xuất bản Trẻ, năm
2009) truyền thông báo chí mang những đặc điểm như sau: do những tổ chức chuyên nghiệp
đảm trách; đưa thông tin ra công chúng một cách rộng rãi mà không phân biệt ai với ai; và nội
dung thơng điệp chủ yếu mang tính chất tường thuật chứ khơng phải ra lệnh.
Báo chí - truyền thông được hiểu sơ lược là hoạt động thông tin, mang tính chất định
hướng và quảng bá thơng qua các loại hình truyền thơng đại chúng, nhằm cung cấp, chia sẻ
thơng tin đến một nhóm đối tượng nào đó. Căn cứ tùy vào mục đích và phương thức tổ chức
hoạt động báo chí - truyền thơng sẽ được chia ra theo các loại hình khác nhau.
+ Khái niệm “Lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thơng”:

2


“Lãnh đạo, quản lý trong một cơ quan báo chí là một nhiệm vụ thú vị. Một mặt bạn
phải tuân thủ những chỉ đạo từ cấp trên, cố gắng hoàn thành những mục tiêu họ đề ra, những
dự tính của họ về sản phẩm trong đó có những sản phẩm do phòng, ban của bạn chịu trách
nhiệm. Mặt khác, cách tốt nhất để thực hiện được điều đó là bạn phải phát triển khả năng sáng
tạo cao trong nhóm của bạn, tạo cảm giác tự do, sẵn sàng sáng tạo những cách thức mới để

sản xuất tin bài, những chủ đề hấp dẫn mới và những cách làm mới mẻ để thu hút công chúng.
Việc làm này không kém phần quan trọng, nhất là trong lúc bức tranh toàn cảnh về báo chí
đang thay đổi từng ngày”. Theo cuốn Phương thức quản lý (Bộ Thông tin và truyền thông Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam, xuất bản năm 2009).
“Là một nhà lãnh đạo quản lý báo chí, dù ở bất kỳ cấp bậc nào, bạn cũng phải xử lý
những rắc rối chung. Trên hết, bạn luôn phải hành động thận trọng với tính hai mặt của báo
chí: báo chí là sản phẩm, nhưng báo chí có độc giả mục tiêu phục vụ thông tin”. Theo cuốn
Phương thức quản lý (Bộ thông tin và truyền thông - Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam,
xuất bản năm 2009).
Theo từ điển (Tác giả Hoàng Phê chủ biên, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1975)
“lãnh đạo” là đề ra chủ trương và tổ chức thực hiện, còn “quản lý” là tổ chức và điều khiển
các hoạt động theo yêu cầu nhất định. Vậy ta có thể hiểu, lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền
thơng là hoạt động thực hiện triển khai sản xuất, biên tập và kiểm sốt thơng tin, hoạt động
truyền tin, nhằm đảm bảo tính định hướng, tính chính xác của thơng tin.
1.2. Đặc điểm, vai trị của lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thông
1.2.1. Đặc điểm của lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thơng
. Tạ Quang Dũng
. Đinh Công Doanh
. Vũ Ngọc Đạt
1.2.1.1 Đặc điểm về nội dung lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thơng
*Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với báo chí-truyền thơng
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị của báo
chí-truyền thơng và đã có nhiều chủ trương, định hướng phát triển báo chí và lãnh đạo cơng
tác báo chí phù hợp với tình hình mới. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí được thể hiện ở những
nội dung cơ bản như sau:
Một là, Đảng xác định tơn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ của cơ quan báo chí-truyền
thơng. Tơn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng nhất đối với
sự tồn tại và phát triển của cơ quan báo chí. Tơn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ khơng
chỉ quy định mục đích, nội dung, phương hướng hoạt động của cơ quan báo chí mà cịn thể
hiện rõ vị trí, vai trị cùa tờ báo đối với đời sống xã hội. Theo chủ trương của Đảng và theo
quy định của Luật Báo chí, muốn thành lập một cơ quan báo chí thì cơ quan chủ quản phải

nghiên cứu xác định rõ mục đích, yêu cầu cần thành lập cơ quan báo chí. Xác định rõ tơn chỉ,
mục đích, đối tượng phục vụ, phạm vi và hình thức phát hành, tổ chức bộ máy nhân sự, kinh
phí hoạt động... của cơ quan báo được thành lập. Điều đó cho thấy, khi thành lập một cơ quan
báo chí, Đảng đã định hướng nội dung thông tin và đinh hướng hoạt động của cơ quan báo chí
thơng qua việc xác định tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ của cơ quan báo chí. Trong suốt
q trình hoạt động, tồn tại và phát triển, cơ quan báo chí phải nghiêm túc thực hiện tơn chỉ,
mục đích đã đề ra và được phê duyệt. Cơ quan chỉ đạo và cơ quan quản lý nhà nước có trách
nhiệm theo dõi, giám sát và đơn đốc, nhắc nhở cơ quan báo chí-truyền thơng đó thực hiện
theo tơn chỉ, mục đích và đối tượng đã xác định.
Hai là, Đảng định hướng chính trị cho báo chí-truyền thơng. Báo chí cách mạng nước
ta được Đảng trao cho sứ mệnh là người đi tiên phong trong việc tuyên truyền, giáo dục về
chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước; phản ánh thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đây vừa là tiêu chí quy định chức năng, nhiệm vụ, vừa là môi trường phát triển, là thước đo
3


phẩm giá và hiệu quả của nền báo chí nước nhà. Hay nói cách khác, báo chí cách mạng là
điều kiện sống cịn của báo chí, đến lượt nó báo chí lại nói tiếng nói của cách mạng và thúc
đẩy cách mạng tiến lên. Như vậy, đường lối chính trị của báo chí-truyền thơng chính là cương
lĩnh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cương lĩnh, đường lối, chủ
trương, chính sách đúng đắn, đó chính là sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chítruyền thơng. Điều đó có nghĩa là, đường lối, chủ trương, chính sách đúng tự nó đã chứa đựng
nội dung thơng tin có sức sống và cách mạng cho báo chí. Đường lối, chủ trương, chính sách
đúng cịn tạo ra một bầu khơng khí mới một tư duy mới trong Đảng và trong xã hội. Trên cơ
sở đó, báo chí-truyền thơng lại có điều kiện để đổi mới nội dung thơng tin, thay đổi phương
pháp và hình thức tun truyền để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của xã hội. Từ
đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, trong từng thời kỳ khác nhau mà Đảng định
hướng chính trị cho báo chí-truyền thơng thơng qua việc xác định nội dung tuyên truyền và
những nhiệm vụ mà báo chí phải thực hiện. Như vậy, sự định hướng chính trị của Đảng đối
với hoạt động báo chí-truyền thơng khơng những đảm bảo cho báo chí khơng đi chệch đường

lối chính trị của Đảng mà cịn tạo điều kiện cho báo chí góp phần tích cực vào việc động viên
quần chúng nhân dân thực hiện đường lối chính trị của Đảng một cách sáng tạo, có hiệu quả.
Ba là, Đảng cung cấp thơng tin chính xác, đầy đủ và kịp thời về đường lối, chính sách và tình
hình thực tiễn cho báo chí. Để báo chí thực hiện tốt chức năng là công cụ của công tác tư tưởng,
Đảng phải tổ chức thơng tin kịp thời cho báo chí về các hoạt động diễn ra trong quá trình hiện
thực hóa đường lối, chính sách của mình trong xã hội. Cung cấp thơng tin kịp thời chính xác
cho báo chí đã được Đảng khẳng định trong các văn bản như: Chỉ thị số 63-CT/TW của Ban
Bí thư, ngày 25-7-1990, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, xuất
bản nêu rõ: Cung cấp thơng tin cần thiết cho cán bộ báo chí, xuất bản, nhất là cán bộ phụ
trách. Chỉ thị số 08-CT/TW, ngày 31-3-1992, về tăng cường sự lãnh đạo, quản lý nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả cơng tác báo chí, xuất bản cũng chỉ rõ: Tạo điều kiện cho các cơ
quan báo chí, xuất bản làm tốt nhiệm vụ bằng cách tăng cường cung cấp thông tin. Chỉ thị số
22-CT/TW, ngày 17-10-1997, về cơng tác báo chí, xuất bản chỉ ra rằng: Thường xuyên phổ
biến chủ trương, chỉ đạo định hướng, cung cấp thông tin, thường kỳ kiểm điểm rút kinh
nghiệm, biểu dương ưu điểm, xử lý kịp thời các vi phạm luật pháp và định hướng tuyên
truyền. Như vậy, để giúp cho báo chí-truyền thơng có thơng tin chính xác, đưa tin đúng sự thật,
khơng ai khác chính các cấp ủy đảng có thẩm quyền trực tiếp cung cấp thơng tin cho báo chí.
Qua đó, khơng chi giúp cho báo chí khẳng định được vị trí, vai trị và uy tín của tờ báo trong
cơng chúng mà nó cịn giúp cho các cấp ủy đảng không ngừng nâng cao được hiệu quả lãnh
đạo của mình đối với xã hội.
* Nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí-truyền thơng
Vấn đề quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí không phải bây giờ mới được đặt
ra mà ngay sau khi Nhà nước Việt Nam ra dời, công tác quản lý bằng pháp luật đối với báo
chí đã được coi trọng. Đặc biệt trong sắc lệnh 282 ngày 14/12/1956 do Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký đã quy định chế độ hoạt động của báo chí, có những điều quan trọng như: bảo đảm quyền
tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí; quy định rõ về những điều báo chí khơng được
thơng tin; quy định thủ tục cấp giấy phép, điều kiện hoạt động của báo chí và lưu chuyển, quy
định hình thức kỷ luật nếu báo chí vi phạm. Từ đó đến nay, cùng với sự phát triển của cách
mạng Việt Nam và sự biến động phức tạp của tình hình thế giới, hệ thống văn bản pháp luật
về báo chí cũng được ban hành, hồn thiện dần qua một số lần sửa đổi.

Ngày 20/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số
133 quy định chi tiết về thi hành Luật báo chí năm 1989 và cụ thể hóa những quan điểm trong
các Chỉ thị mới của Ban Bí thư Trung ương Đảng - Bộ Văn hố - Thơng tin đã ban hành
Thông tư số 95 ngày 5/12/1992 và Thông tư số 65 hướng dẫn chi tiết về thi hành luật báo chí.
Trong thời kỳ bùng nổ thơng tin, với sự phát triển của khoa học công nghệ đã được ứng dụng
vào truyền bá thông tin, do ảnh hưởng của hệ thống thơng tin tồn cầu Internet, Chính phủ đã
4


ra nghị định số 21 ngày 5/7/1997 ban hành quy chế tạm thời về quản lý, thiết lập sử dụng
mạng internet ở Việt Nam. Sau đó Bộ văn hố thơng tin, Bộ Nội vụ, Tổng Cục bưu điện đã ra
Thông tư liên tịch số 08 ngày 14/7/1997 hướng dẫn việc cấp giấy phép kết nối, cung cấp và sử
dụng internet. Hệ thống báo chí điện tử ở Việt Nam cũng đã ra đó.
Trước tình hình trong nước và quốc tế có những thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức
tạp, luật báo chí do Quốc hội thơng qua năm 1989 có một số điểm khơng cịn phù hợp, chưa
đáp ứng được nhiệm vụ của báo chí trong giai đoạn mới, nên ngày 12/6/1999 tại kỳ họp thứ 5
Quốc hội khóa X đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật báo chí. Luật báo chí ra
đời được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện đã tạo ra hành lang pháp lý tạo điều kiện cho báo chí
Việt Nam phát triển hịa nhập với báo chí khu vực và thế giới. Năm 2016, Quốc hội thơng qua
Luật Báo chí sửa đổi, có hiệu lực từ tháng 1-2017.
+Hiện nay, nội dung quản lý nhà nước về báo chí được quy định tại Điều 6 Luật Báo
chí 2016 như sau:
-Xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí.
-Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ,
chính sách về báo chí.
-Tổ chức thơng tin cho báo chí; quản lý thơng tin của báo chí.
-Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ
người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí.
-Tổ chức quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí.
-Cấp, thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động báo chí và thẻ nhà báo.

-Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam liên
quan đến nước ngồi và hoạt động của báo chí nước ngồi tại Việt Nam.
-Kiểm tra báo chí lưu chiểu; quản lý hệ thống lưu chiểu báo chí quốc gia.
-Chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong
hoạt động báo chí.
-Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí.
* Ở Điều 7, trong Luật Báo chí sửa đổi 2016 quy định cụ thể cơ quan quản lý nhà nước về
báo chí
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.
-Bộ Thơng tin và Truyền thơng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước
về báo chí.
-Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối
hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
-Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản
lý nhà nước về báo chí tại địa phương.
1.2.1.2 Đặc điểm về phương thức lãnh đạo và quản lý
* Phương thức lãnh đạo của Đảng
Là hệ thống phương pháp, hình thức, biện pháp mà đảng chính trị sử dụng để tác động
vào các tổ chức thuộc hệ thống chính trị và các lực lượng xã hội nhằm đạt được những yêu
cầu, mục tiêu và nội dung lãnh đạo do đảng đó đề ra.
“Phương thức lãnh đạo của Đảng” chính thức được sử dụng lần đầu tiên trong văn
kiện Nghị quyết Hội nghị T.Ư 5 (8-1948) về công tác dân vận và công tác mặt trận thống
nhất. Đến Hội nghị T.Ư 6 (khóa VI) 3.1989, Trung ương sử dụng thuật ngữ “phương thức lãnh
đạo” với nội dung đầy đủ hơn, đó là: Những nguyên tắc, yêu cầu chung, đồng thời có những
hình thức thể hiện cụ thể phù hợp từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng ngành…
Vì vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực báo chí - truyền thơng được
thể hiện:
- Đảng lãnh đạo báo chí-truyền thơng thơng qua việc đề ra chủ trương, đường lối cho
hoạt động báo chí - truyền thơng.
5



- Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng tại các cơ quan báo chí - truyền thơng.
- Đảng lãnh đạo tồn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ đối với hệ thống báo
chí của Đảng.
+ Nghị quyết của Đảng đề cập về lĩnh vực báo chí - truyền thơng:
- Tại các Đại hội của Đảng, Nghị quyết đại hội đều đề cập đến vấn đề lãnh đạo cơng
tác báo chí - truyền thơng.
- Nghị quyết T.Ư 5 (khóa X) về cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước u cầu đổi
mới, có đề cập “Đối với báo chí, cần nhấn mạnh, báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước,
của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng, sự quản lí của Nhà nước và hoạt động trong khn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư
tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí.”
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Chú trọng nâng cao tính tư tưởng,
phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương
tiện thơng tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại
hoá, xa rời tơn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng,
xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và
có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới. Rà sốt, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí,
xuất bản trong cả nước theo hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mơ
hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất - kỹ thuật theo hướng hiện đại…”
+ Các Văn bản, chỉ thị của Đảng:
- Chỉ thị số 63 CT/TW, ngày 25/7/1990, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
cơng tác báo chí, xuất bản.
- Chỉ thị số 08 CT/TW, ngày 31/3/1992, về tăng cường sự lãnh đạo, quản lý nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác báo chí, xuất bản.
- Chỉ thị số 22 CT/TW, ngày 17/10/1997, về cơng tác báo chí, xuất bản.
* Phương thức quản lý của Nhà nước:
Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc định hướng chính trị, bằng và thông qua nhà nước,
thông qua công tác tổ chức - cán bộ, thông qua giám sát, kiểm tra hoạt động thường xuyên

trong thực tiễn. Quản lý nhà nước về báo chí cịn bằng sức mạnh của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Nhà nước quản lý bằng việc ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật: Hiến
pháp, Luật, Pháp lệnh….
- Tổ chức bộ máy, phân cấp, phân quyền trong quản lý.
- Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong bộ máy tổ chức quản lí. Vấn đề chất
lượng đội ngũ và cơ chế đánh giá, quy trình bổ nhiệm.
Phương thức quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực báo chí - truyền thơng là hệ thống
chính sách, pháp luật tác động đến cơ quan báo chí - truyền thơng.
Quản lý nhà nước về báo chí - truyền thơng là địi hỏi tất yếu khách quan, là nguyên
tắc và phương thức bắt buộc để huy động tối đa năng lực tác động của báo chí - truyền thơng
vào mục đích phát triển đất nước, hạn chế đến mức thấp nhất những hiệu ứng ngoài mong đợi.
Quản lý nhà nước về báo chí - truyền thơng là làm cho sức mạnh của báo chí được
phát huy cao nhất, để báo chí tập trung nguồn lực và mọi cố gắng vào phục vụ mục đích phát
triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tạo mọi điều kiện cho báo chí phát triển và phục
vụ sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn
của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lí của Nhà nước và hoạt động
trong khn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính
chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí. Báo chí của ta là cơ quan của Đảng, Nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, triệt để của Đảng và
quản lý của Nhà nước.
6


Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) nêu rõ: “Báo chí là tiếng nói của Đảng,
Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động trong khn khổ pháp luật; bảo đảm
tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng”.
Triển khai thực hiện Nghị quyết TƯ 5, từ năm 2006 đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

Trung ương, các bộ, ban, ngành luôn tăng tường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí,
đã ban hành nhiều văn bản: chỉ thị, thông báo, quyết định, thông tư, kế hoạch phù hợp với
thực tiễn của bối cảnh chính trị trong nước và quốc tế. Trên nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo
chặt chẽ của Đảng, sự quản lý sát sao của Nhà nước với công tác báo chí, các văn bản chỉ đạo
đã bám sát các chủ trương: phát triển đi đôi với quản lý tốt; tăng cường vai trò của cấp ủy
Đảng, tăng cường vai trò của cơ quan tham mưu cấp ủy, vai trò của chính quyền các cấp, nhất
là các cơ quan quản lý, cơ quan chủ quản, nhằm lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý chặt chẽ, kịp
thời cơng tác báo chí; xử lý nghiêm minh các sai phạm; rà soát sửa đổi, bổ sung những quy
định của pháp luật về báo chí, bảo đảm khơng có báo chí tư nhân, làm tốt công tác tư tưởng
và giữ vững trận địa tư tưởng trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước ln có những
diễn biến mới, phức tạp.
Trước những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, phương thức lãnh đạo, quản lý đối với báo chítruyền thơng cần có sự đổi mới nhằm tăng cường sự lãnh đạo của đảng, quản lý của Nhà nước
đối với công tác này. Các cơ quan báo chí - truyền thơng cần qn triệt sâu sắc quan điểm,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để hoạt động đúng định hướng, phát
huy vai trị của mình.
1.2.1.3. So sánh sự giống và khác nhau giữa lãnh đạo, quản lý báo chí - truyền
thơng đối với các lĩnh vực khác
* Giống nhau
Đều dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước thông qua việc ban hành chủ
trương, đường lối, chính sách và pháp luật. Đều tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới,
gây ảnh hưởng và dẫn dắt hành vi của cá nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của
tổ chức.
Người lãnh đạo dù là chính thức (lãnh đạo, quản lý) hay khơng chính thức (tự nhiên)
đều là người đưa ra những quyết định, vạch ra những mục tiêu, hoạch định những chương
trình thực hiện, v.v… để tổ chức thực hiện.
Người lãnh đạo dù ở ngành, nghề nào cũng đều phải có khả năng “lãnh đạo” theo đúng
nghĩa chứ không chỉ là khả năng quản lý và điều hành; giữ vai trò hướng dẫn, lựa chọn mục
tiêu, xác định tầm nhìn, dẫn dắt và tạo động lực cho cơ quan, doanh nghiệp phát triển trên cơ
sở tuân thủ luật pháp của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
*Khác nhau

Đã là lãnh đạo dù bất kì ngành nghề nào ngoài yêu cầu chung về năng lực, tuân thủ
pháp luật… đều có những điểm khác nhau về bản chất so với báo chí: Ví dụ như Lãnh đạo
ngân hàng chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, hiểu biết
luật pháp nhà nước về quản lý và thực hiện chính sách về tiền tệ; lãnh đạo trong lĩnh vực giáo
dục chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của nhà trường, ngoài các tiêu chí giỏi về chun mơn
nghiệp vụ, có kĩ năng sư phạm, người hiệu trưởng cịn phải có đạo đức, hết lịng vì sự nghiệp
“trồng người”; hay như lãnh đạo trong lĩnh vực y tế không chỉ là là người chịu trách nhiệm về
quản lý nhà nước hoạt động của đơn vị, cịn phải có hiểu biết có hiểu biết về y học, chữa bệnh,
am hiểu luật liên quan lĩnh vực y tế; người lãnh đạo trong ngành công nghệ thông tin phải am
hiểu về công nghệ, bắt nhịp tri thức mới, hiểu biết về nền khoa học - công nghệ hiện đại, cũng
như thao tác về kỹ thuật vi tính, viễn thơng...
Tuy nhiên, người lãnh đạo trong báo chí truyền thơng lại hồn tồn khác do đặc thù
bản chất của nghề báo là hoạt động của truyền thông đại chúng, là hoạt động chính trị - xã hội,
là hoạt động kinh tế - dịch vụ xã hội.
7


Nhà báo là vũ khí cơng cụ quyền lực của giai cấp lãnh đạo, có lúc phải đón đầu đi
trước đúc kết kinh nghiệm. Người quản lý đạo đức nhà báo, đã là người quản lý nhà báo trước
hết phải là nhà báo chân chính, hội tụ yếu tố của người nhà báo gương mẫu, dũng cảm tiên
phong đồng thời có kĩ năng có am hiểu xã hội 1 cách tồn diện, nhất là trong thời kì hội nhập,
báo chí đã và đang trở thành sức mạnh công cụ, phục vụ đường lối chính trị của Đảng, Nhà
nước.
Người lãnh đạo báo chí phải có đạo đức để quản lý tốt đơn vị mình từ đó trở thành
khn mẫu kiểm sốt loại trừ những loại hình lạm dụng của báo chí, những mạng xã hội
khơng lành mạnh góp phần định hướng tạo dựng cơ chế kiểm sốt cho báo chí. Trong cuộc
đấu tranh chính trị, tư tưởng hiện nay, báo chí là cơng cụ thể hiện quyền lực chính trị, đồng
thời là cơng cụ thể hiện văn hóa chính trị của quyền lực chính trị. Lĩnh vực chính trị chi phối
mọi mặt của đời sống xã hội; mặt khác cần chống chính trị hóa mọi vấn đề của đời sống.
Người lãnh đạo báo chí phải tạo cơ chế tạo động lực báo chí phát triển, quản lý báo chí

cũng giống như quản trị doanh nghiệp, sản phẩm báo chí là sản phẩm của hàng hóa; dịch vụ
báo chí là dịch vụ xã hội và tiêu thụ sản phẩm này phải chịu quy luật cung - cầu. Tuy nhiên
ngoài đáp ứng nhu cầu này, báo chí cịn là sản phẩm hàng hóa đặc biệt được coi là cơng cụ
chính trị
Như vậy, sự khác biệt lớn nhất của báo chí đối với các ngành nghề khác đến từ chính
bản chất của nghề nghiệp. Báo chí - truyền thơng là vũ khí tư tưởng sắc bén của Ðảng và Nhà
nước, là cầu nối giữa Ðảng, Nhà nước với nhân dân, là phương tiện quan trọng tuyên truyền
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị, là diễn đàn để nhân dân tham
gia quản lý xã hội, giám sát quyền lực, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh… Vì vậy nếu báo chí đi sai hướng có thể dẫn tới hậu quả khơn lường, thậm
chí mất cả chế độ.
1.2.2. Vai trị của lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thơng
1.2.2.1. Vai trò của lãnh đạo quản lý BCTT đối với nền chính trị
Trong thời đại hội nhập quốc tế và tồn cầu hóa hiện nay địi hịi hoạt động báo chí
phải có những thay đổi mang tính bước ngoặt trong tổ chức và hoạt động nếu muốn tồn tại và
phát triển. Nó cũng đặt ra yêu cầu đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng
đối với báo chí. Trong phạm vi bài nghiên cứu, tác giả đi sâu phân tích vị trí, vai trị, phương
thức lãnh đạo của Đảng - nhân tố hàng đầu, quyết định đến q trình phát triển của nền báo
chí cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước cũng như thời kỳ đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ đất nước, Ðảng ta ln coi trọng vai trị to lớn của báo chí - truyền thơng.
Xã hội càng phát triển thì báo chí càng có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong đời
sống hằng ngày của mỗi quốc gia, dân tộc. Đó vừa là niềm vinh dự lớn, vừa đặt ra những yêu
cầu và trách nhiệm nặng nề đối với những người làm báo.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay trong hành trình bơn ba đi tìm đường cứu nước, nhất
là chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng để lãnh đạo cách mạng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh đã xuất bản Báo Thanh Niên , ngày 21/6/1925.
Người cho rằng, muốn làm cách mạng, trước hết phải truyền bá tư tưởng cách mạng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin; phải vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng cách mạng.
Báo chí cách mạng là cơng cụ cực kỳ quan trọng để làm nhiệm vụ đó; báo chí cách mạng cịn
là vũ khí sắc bén thúc đẩy xã hội không ngừng tiến lên.

90 năm qua, nền Báo chí cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
lãnh đạo, đã ln đồng hành cùng những chặng đường đấu tranh kiên cường của Đảng ta,
nhân dân ta, vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội. Trong các cuộc kháng chiến anh dũng
chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, báo chí nước ta đã trở thành một binh chủng quan trọng trên
mặt trận tư tưởng; nhiều tác phẩm báo chí đã thực sự là "lời hịch cách mạng", "tiếng gọi non
8


sông" thúc giục đồng bào cả nước cùng ra trận.
Từ trong máu lửa chiến tranh, hàng trăm nhà báo - chiến sĩ của chúng ta đã anh dũng
hy sinh, góp phần tô thắm thêm trang sử vẻ vang của báo chí cách mạng, của dân tộc Việt
Nam Anh hùng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, gần 30 năm qua, báo chí đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, có đóng góp to lớn vào sự nghiệp chung của cả dân tộc. Những người làm báo tiếp tục
là đội quân chủ lực trong việc định hướng dư luận xã hội, tuyên truyền, cổ vũ, động viên toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo.
Các nhà báo luôn bám sát thực tiễn sinh động, xơng pha nơi đầu sóng, ngọn gió, thơng
tin kịp thời, phân tích sâu sắc những diễn biến hằng ngày trên các lĩnh vực, ở khắp mọi miền
của Tổ quốc; phản ánh, tuyên truyền, nhân lên các điển hình tiên tiến; chủ động đấu tranh
chống các biểu hiện tiêu cực, trì trệ, tham nhũng, lãng phí; đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng
liêng của Tổ quốc; tham gia phản bác các luận điệu thù địch, xuyên tạc; bảo vệ quan điểm,
đường lối của Đảng.
Báo chí cịn tích cực tham gia giám sát, phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Báo chí góp cơng lớn trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa Việt Nam đến với
bạn bè thế giới; đóng góp tích cực vào việc quảng bá, giới thiệu đất nước, con người, văn hóa
Việt Nam với bạn bè quốc tế, đồng thời là cầu nối quan trọng giúp bạn đọc trong nước hiểu
biết nhiều hơn về tình hình khu vực và thế giới.
Tóm lại, báo chí đã đóng góp quan trọng vào cơng cuộc đổi mới đất nước; đồng thời

chính trong q trình đổi mới đất nước mà báo chí và đội ngũ những người làm báo nước ta
không ngừng phát triển và trưởng thành về mọi mặt.
Có thể nói, chưa bao giờ chúng ta có nhiều loại hình báo chí với đội ngũ những người
cầm bút hùng hậu như hiện nay. Theo báo cáo của Bộ Thơng tin và Truyền thơng, cả nước
hiện có 849 cơ quan báo in, 67 đài phát thanh - truyền hình, 98 báo, tạp chí điện tử, một hãng
Thơng tấn quốc gia. Nếu năm 2009 mới có 31.000 người làm việc trong lĩnh vực báo chí thì
đến nay lực lượng ấy đã là 35 nghìn người, trong đó có gần 18 nghìn là nhà báo chuyên
nghiệp; tỉ lệ người làm báo có trình độ đại học và trên đại học là 95,9%.
Nhìn lại chặng đường 90 năm qua, chúng ta hồn tồn có quyền tự hào về những đóng
góp to lớn và sự phát triển, trưởng thành của Báo chí cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi
mới, tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát
triển nhanh và bền vững đất nước.
Đây là sự nghiệp vô cùng to lớn; bên cạnh thời cơ, thuận lợi là cơ bản, khó khăn,
thách thức cũng khơng nhỏ, địi hỏi tồn xã hội phải có sự đồng tâm nhất trí cao, quyết tâm nỗ
lực lớn, có niềm tin vững chắc và ý chí, nghị lực phi thường.
Báo chí phải làm sao để góp phần tạo nên sự đồng tâm và sức mạnh tổng hợp to lớn
cho cách mạng. Mỗi nhà báo, cơ quan báo chí cần phát huy truyền thống vẻ vang do các thế
hệ những người làm báo bồi đắp suốt 90 năm qua, xây dựng bản lĩnh chính trị , nêu cao trách
nhiệm xã hội , nghĩa vụ công dân và đạo đức nghề nghiệp để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm
vụ chính trị của mình, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và lòng mong đợi của nhân dân.
Báo chí - truyền thơng là vũ khí tư tưởng sắc bén của Ðảng và Nhà nước, là cầu nối
giữa Ðảng, Nhà nước với nhân dân, là phương tiện quan trọng tuyên truyền phát triển kinh tế
- xã hội, xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị, là diễn đàn để nhân dân tham gia quản lý xã
hội, giám sát quyền lực, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng to lớn và đa dạng của nhân dân về thông tin, Ðảng
ta chủ trương phát triển mạnh mẽ đi đơi với quản lý tốt hệ thống báo chí - truyền thông. Ðảng
9



lãnh đạo trong việc đề ra các chủ trương, chiến lược phát triển, nội dung thông tin, công tác
cán bộ, cơ chế tài chính và tạo mơi trường thuận lợi cho sự phát triển của báo chí - truyền
thơng.
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, trong những năm qua, hệ thống báo chí - truyền thơng đã
góp phần to lớn vào việc tổ chức thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng, pháp luật của Nhà
nước Việt Nam, thật sự đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
con người, khoa học, kỹ thuật, bảo vệ Tổ quốc. Ðặc biệt, báo chí - truyền thơng trở thành vũ
khí quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, tệ nạn xã
hội. Hơn 70% số các vụ việc tham nhũng, lãng phí được phát hiện, xử lý là do báo chí truyền thơng phát hiện. Thơng qua phản ánh dư luận xã hội, phân tích, đánh giá nguyên nhân
và các bài học từ các vụ việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, báo chí - truyền thơng đã góp
phần răn đe, cảnh báo, ngăn chặn một phần tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giáo dục
cán bộ, đảng viên sống trong sáng, gương mẫu thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bên cạnh những ưu điểm, thành tựu to lớn và căn bản đó, hệ thống báo chí - truyền
thơng Việt Nam khơng tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm. Nhìn tổng thể, quy hoạch phát
triển hệ thống báo chí - truyền thơng chưa thật sự khoa học, cho nên cịn những bộ phận chưa
hợp lý, chồng chéo nhiệm vụ, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Có lúc, có nơi, sự chỉ đạo của
cấp ủy đảng, sự quản lý của cơ quan nhà nước chưa theo kịp tốc độ phát triển và tình hình
thực tế của báo chí - truyền thơng. Một số cơ quan báo chí sa đà khi thơng tin các mặt tiêu cực
của đời sống xã hội, chưa chú ý đúng mức việc phát hiện, cổ vũ, nhân rộng những nhân tố
mới, điển hình tiên tiến, những mặt tích cực của xã hội; hoặc có biểu hiện thương mại hóa, xa
rời tơn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng tư tưởng và dư luận xã hội, lấy tích
cực đẩy lùi tiêu cực, chăm lo xây dựng con người. Trong thực tiễn, vẫn còn một số đối tượng
bất mãn hoặc thù địch chống phá chế độ, chống phá đất nước từ bên trong và bên ngoài tung
thông tin sai trái, xấu độc lên mạng xã hội, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm
của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những thơng tin này là những tác nhân gây
nhiễu về tư tưởng, văn hóa, ảnh hưởng xấu đến sự đồng thuận trong nhân dân.
Từ thực tiễn cơng tác lãnh đạo báo chí - truyền thơng ở Việt Nam có thể rút ra một số
bài học:

Bài học thứ nhất có tính ngun tắc bất di, bất dịch là phải luôn luôn giữ vững sự lãnh
đạo của Ðảng đối với báo chí - truyền thông, thực hiện đồng bộ cả bốn khâu: định hướng phát
triển; định hướng nội dung; công tác cán bộ; công tác kiểm tra, kiểm sốt, trong đó khâu cán
bộ giữ vai trò quyết định.
Bài học thứ hai, các cấp ủy Ðảng cần nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò to lớn
ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của báo chí - truyền thơng đối với xã hội, đối với việc tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
Bài học thứ ba, Ðảng cần thường xuyên chăm lo phát triển hệ thống báo chí - truyền
thơng một cách khoa học, hợp lý, đồng bộ cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ðặc biệt là quan tâm đến công tác tổ chức, cán bộ, công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh
vực báo chí - truyền thông. Hệ thống tổ chức các cơ quan báo chí - truyền thơng phải được
xây dựng khoa học, hợp lý, từng bước hoàn thiện về cơ chế vận hành; tạo điều kiện cho hoạt
động của báo chí đồng thời kịp thời phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản
lý đối với những người khơng đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chun mơn, những người có
biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
* Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với báo chí - truyền thơng trong tình
hình mới
Thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Xu
thế truyền thông đa phương tiện, truyền thông hội tụ phát triển thơng tin đa dịch vụ, thơng tin
có tính tương tác, cá nhân hóa thơng tin… tiếp tục làm thay đổi sâu sắc lối sống và các mối
10


quan hệ xã hội, thúc đẩy sự đổi mới mạnh mẽ phương thức chỉ đạo, quản lý, phương thức hoạt
động, tổ chức sản xuất, trao đổi, xử lý thông tin của các cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực báo chí - truyền thơng.
Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng gay gắt hơn với các thách thức an ninh
truyền thống, an ninh phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng. An tồn, an ninh thơng tin
mạng ngày càng trở thành vấn đề quan trọng, nóng bỏng, bức xúc đối với mọi quốc gia, dân
tộc, đối với từng gia đình, từng cá nhân con người.

Những năm tới là thời kỳ Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển mới, phải thực
hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, triển khai thực hiện nhiều hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn so với giai
đoạn trước. Tình hình kinh tế - xã hội đã có nhiều cải thiện tích cực, nhưng cũng đang đứng
trước khơng ít khó khăn, thách thức về nhiều mặt. Nhu cầu tiếp cận thông tin của nhân dân
ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú hơn. Những nhiệm vụ đặt ra cho sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới là rất to lớn.
Bên cạnh đó, sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin, của mạng xã hội và của
phương tiện truyền thông khác trên internet cũng mang tới cả những hệ lụy, mặt trái, mặt
phức tạp; các thế lực thù địch, phản động chống phá Ðảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
Trong tình hình, điều kiện ấy, việc đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản
lý của Nhà nước đối với báo chí - truyền thơng là một u cầu khách quan, cấp thiết, có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng.
Thứ nhất, tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các cấp ủy đảng trong việc
lãnh đạo, quản lý, phát triển hệ thống báo chí - truyền thơng, nhằm phát huy tốt nhất vai trị
của báo chí - truyền thơng trong thông tin, tuyên truyền, thực hiện các nhiệm vụ công tác tư
tưởng, tạo sự thống nhất trong Ðảng, đồng thuận của xã hội; coi trọng việc cổ vũ, thúc đẩy
nhân tố mới, điển hình tiên tiến, hạn chế những tác động tiêu cực, bất lợi. Tích cực, chủ động
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả thơng tin,
quan điểm sai trái, thù địch. Không ngừng nâng cao chất lượng tư tưởng, văn hóa, tính chiến
đấu, tính nhân văn, tính hấp dẫn, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, các nguồn lực cần thiết
cho hệ thống báo chí - truyền thông.
Thứ hai, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xây dựng Ðảng, đề cao trách nhiệm
cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trong các cơ quan báo chí - truyền thơng. Làm tốt
cơng tác định hướng thơng tin, cung cấp kịp thời thơng tin cho báo chí những vấn đề, sự kiện
quan trọng, phức tạp, nhạy cảm. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển hệ thống
báo chí - truyền thơng đại chúng, tránh trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, gây
lãng phí nguồn lực.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định của Ðảng và các văn bản quy phạm

pháp luật về lĩnh vực báo chí - truyền thơng, làm rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước, cơ quan chủ quản và từng cơ
quan báo chí - truyền thơng, các chủ thể truyền thơng xã hội trên môi trường internet. Tiếp tục
tăng cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông,
Hội Nhà báo Việt Nam và các ban, bộ, ngành của Ðảng và Nhà nước trong công tác chỉ đạo,
quản lý hoạt động báo chí - truyền thơng. Tiếp tục xây dựng, hồn thiện các quy định đạo đức
nghề nghiệp và giáo dục các chủ thể trong hoạt động báo chí - truyền thơng tự giác thực hiện.
Thứ tư, thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng phẩm
chất chính trị, năng lực chun mơn, đạo đức nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ và những hiểu
biết về quan hệ quốc tế cho đội ngũ người làm báo. Coi trọng công tác rà sốt, đánh giá đội
ngũ cán bộ quản lý báo chí; thực hiện nghiêm các quy định, quy trình về bổ nhiệm, miễn
nhiệm, thi đua, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí. Có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ có năng lực, đủ phẩm chất cho hệ thống báo chí.
11


Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, nguồn lực và cơ chế để các cơ quan báo chí chủ lực
phát triển, trở thành những trung tâm báo chí đa phương tiện mạnh, đủ năng lực chiếm lĩnh
mặt trận thông tin, làm tốt công tác định hướng tư tưởng và dư luận xã hội.
Thứ năm, tăng cường công tác thông tin đối ngoại, làm tốt công tác quảng bá hình ảnh
đất nước, các giá trị văn hóa đặc trưng của đất nước và con người Việt Nam đến với nhân dân
và bạn bè trên thế giới. Làm tốt công tác hướng dẫn nhân dân trong việc tiếp thu những giá trị
văn hóa tích cực, tiến bộ của nhân loại; cảnh giác, phê phán, đấu tranh với các biểu hiện du
nhập sản phẩm văn hóa tiêu cực, trái với những thuần phong, mỹ tục của dân tộc, trái với các
giá trị nhân văn, tiến bộ của nhân loại.
Thứ sáu, tiếp tục hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để quản lý mạng xã hội,
các phương tiện truyền thông phi chính thống, phương tiện truyền thơng nước ngồi trên
Internet hoạt động tại Việt Nam. Kiên quyết xử lý các trang mạng xã hội truyền bá thông tin
xấu độc, phản động, xâm hại đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

Sự lãnh đạo của Ðảng đối với báo chí - truyền thơng trong thời gian tới không chỉ là
điều kiện, là động lực quan trọng để làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước, mà cịn bảo đảm quyền sáng tạo
của báo chí - truyền thơng, giúp báo chí - truyền thơng hồn thành trách nhiệm nặng nề, sứ
mệnh cao cả của mình đối với đất nước, nhân dân.
1.2.2.2. Vai trò của lãnh đạo quản lý BCTT đối với cơ quan chủ quản báo chí truyền thơng
1. Chấn chỉnh, khắc phục tình trạng xa rời tơn chỉ, mục đích, thơng tin giật gân, câu
khách. Các cơ quan chủ quản kiểm tra, xử lý nghiêm, kể cả việc có thể rút giấy phép hoạt
động đối với những cơ quan báo chí truyền thơng, sản phẩm báo chí truyền thông, nhất là các
ấn phẩm phụ, số chuyên đề, chương trình giải trí, trang thơng tin điện tử khơng thực hiện
nghiêm túc tơn chỉ, mục đích, hạ thấp chất lượng văn hóa của báo chí truyền thơng, chạy theo
lợi ích kinh tế một cách phi văn hóa, vơ trách nhiệm với xã hội...
2. Cơ quan chủ quản nâng cao trách nhiệm trong công tác chỉ đạo, quản lý đối với các
cơ quan báo chí truyền thơng thuộc quyền để cơ quan báo chí truyền thơng hoạt động đúng
tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ.
3. Cơ quan chủ quản tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan báo chí
truyền thơng, sản phẩm báo chí truyền thông để xây dựng đề án đổi mới, sắp xếp lại cơ quan
báo chí truyền thơng, sản phẩm báo chí truyền thơng của cơ quan, đơn vị, ngành mình theo
hướng tinh gọn, thiết thực, hiệu quả. Kiên quyết xử lý, thu gọn các báo, tạp chí, ấn phẩm phụ,
chương trình giải trí, trang thơng tin điện tử xét thấy khơng cần thiết, hoạt động khơng đúng
tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, hoặc sai phạm kéo dài.
4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thường xuyên của ban cán sự đảng, đảng
đoàn, lãnh đạo cơ quan chủ quản đối với hoạt động của cơ quan báo chí thuộc quyền. Coi
trọng việc xây dựng tổ chức đảng trong cơ quan báo chí vững mạnh mọi mặt, đề cao vai trò,
trách nhiệm đảng viên của người làm báo, nhất là những người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý
trong cơ quan báo chí; đồng thời nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, định hướng
hoạt động theo đúng tơn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, và chức năng, nhiệm vụ của
người làm báo.
5. Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chỉ đạo, theo dõi hoạt động của cơ
quan báo chí truyền thơng, chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình đối với các sai phạm của cơ quan báo chí truyền thơng trực thuộc, người đứng
đầu cơ quan chủ quản cần phân công cán bộ lãnh đạo am hiểu Luật Báo chí và các quy định
pháp lý về cơ quan báo chí và nghề làm báo trực tiếp phụ trách cơng tác báo chí để chỉ đạo,
quản lý tồn diện mọi hoạt động và thơng tin trên báo chí thuộc quyền. Đồng thời bổ nhiệm
những người có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chun môn, nghiệp vụ và am hiểu
12


báo chí để giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý trong cơ quan báo chí thuộc quyền. Kiên quyết
khơng bổ nhiệm, luân chuyển các cá nhân chưa được đào tạo chun mơn, nghiệp vụ báo chí;
chưa thật sự làm báo và qua công tác lãnh đạo, quản lý báo chí tham gia lãnh đạo cơ quan báo
chí. Khi cơ quan báo chí thuộc quyền có sai phạm, lãnh đạo cơ quan chủ quản phải chủ động
phát hiện và nhận trách nhiệm, đồng thời kịp thời, kiên quyết xử lý sai phạm theo đúng quy
định của pháp luật.
6. Xây dựng quy chế chỉ đạo, quản lý cơ quan báo chí truyền thơng phù hợp với đặc
điểm, tính chất của cơ quan, tổ chức; quy định chế độ kiểm tra hoạt động của cơ quan báo chí
truyền thơng và thường xun tiến hành kiểm tra, giám sát các hoạt động báo chí một cách
chặt chẽ và linh hoạt; định kỳ báo cáo về hoạt động của cơ quan báo chí với Ban Tuyên giáo
T.Ư, Bộ Thông tin và Truyền thông. Công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên của cơ quan
chủ quản góp phần giúp cơ quan báo chí truyền thơng phịng tránh tình trạng xa rời tơn chỉ,
mục đích, đối tượng phục vụ.
7. Quan tâm tạo điều kiện đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ quản
lý báo chí, nâng cao trách nhiệm chính trị nghề nghiệp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cơ
quan báo chí và các phóng viên, biên tập viên; quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ
thuật, tạo điều kiện giúp cho cơ quan báo chí truyền thơng ổn định về nhân sự, tài chính,
thơng tin đúng tơn chỉ, mục đích, đóng góp chung vào sự phát triển của cơ quan, đơn vị,
ngành và của địa phương.
8. Trong công tác chỉ đạo, định hướng báo chí truyền thơng, nhất là với các vụ việc, sự
kiện lớn, quan trọng, phức tạp, nhạy cảm, cơ quan chủ quản cần chủ động phối hợp chặt chẽ
với cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí truyền thơng. Lãnh đạo cơ quan

chủ quản trực tiếp phụ trách công tác báo chí truyền thơng có trách nhiệm phải tham gia đầy
đủ các cuộc giao ban định kỳ giữa Ban Tuyên giáo T.Ư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội
Nhà báo Việt Nam để kịp thời chỉ đạo, định hướng thông tin trên báo chí truyền thơng; có
biện pháp giải quyết các khó khăn, vướng mắc, chấn chỉnh kịp thời những hạn chế, khuyết
điểm của cơ quan báo chí truyền thơng; đồng thời, biểu dương, khen thưởng những cơ quan
báo chí thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền.
9. Cơ quan chủ quản đóng vai trị quan trọng trong việc chỉ đạo xây dựng và hoàn
thiện cơ chế quản lý ở các cơ quan báo chí truyền thơng thuộc quyền, trong đó có việc xây
dựng bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp báo chí truyền thơng của cơ quan báo chí truyền thơng.
Cơ quan chủ quản phối hợp Hội Nhà báo quan tâm đến cơ chế quản lý, cổ vũ thúc đẩy đạo
đức báo chí truyền thơng trong q trình xây dựng cơ quan báo chí truyền thơng và tác nghiệp
báo chí truyền thơng.
10. Cùng với cơ quan quản lý nhà nước về báo chí truyền thơng, các cơ quan chủ quản
cần thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo định hướng của Đảng và quy định
của pháp luật nhằm góp phần quan trọng của mình vào việc phấn đấu xây dựng một nền báo
chí truyền thơng Việt Nam chuyên nghiệp và hiện đại, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đáp ứng nhu cầu thông tin của các tầng lớp nhân dân.
1.2.2.3. Vai trò của lãnh đạo quản lý BCTT đối với cơ quan BCTT
Theo báo cáo của Bộ Thơng tin và truyền thơng, tính đến tháng 6/ 2017, cả nước có
832 cơ quan báo, tạp chí in, trong đó có 193 báo (Trung ương 86 và địa phương 107), 639 tạp
chí (Trung ương 525, địa phương 114); có 125 cơ quan báo điện tử đã cấp phép; có 67 đài
páht thanh, truyền hình trung ương và địa phương. Hiện nay, cả nước có trên 18000 nhà báo
được cấp thẻ và khoảng trên 5000 phóng viên đang làm việc tại cơ quan báo chí nhưng chưa
đủ điều kiện cấp tẻh nhà báo. Số người làm việc trong lĩnh vực nhà báo khoảng trên 35000
người.
Chính vì vậy, vai trị lãnh đạo, quản lý báo chí truyền thơng tại các cơ quan báo chí
truyền thơng ngày càng được đề cao.

13



- Nắm chắc nội dung cơ bản của chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước để định hướng thông tin đối với cơ quan báo chí truyền thơng.
- Vai trị, trách nhiệm của lãnh đạo cơ quan báo chí trong việc chấp hành kỉ luật về
thông tin, những vấn đề yêu cầu nhiệm vụ đối với các cơ quan báo chí trong giai đoạn hiện
nay.
- Cơ quan báo chí truyền thơng phải có trách nhiệm tuyên truyền, tham mưu, đóng góp
ý kiến đối với các nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước.
- Phát hiện, cổ vũ những nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đồng thời tham gia tích cực
vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liệu để xây dựng, phát triển đất nước
giàu mạnh hơn trong tương lai.
1.2.2.4. Vai trò của lãnh đạo quản lý BCTT đối với nhà báo
Là ngưởi đứng đầu, chịu trách nhiệm về toàn diện về mọi mặt hoạt động của cơ quan
báo chí đặc biệt trong việc tổ chức vận hành để tờ báo và các chương trình được sản xuất đều
đặn đảm bảo chất lượng. Người đứng đầu định hướng nội dung, hình thức theo tơn chỉ mục
đích đã qui định.
Người lãnh đạo phải nhạy bén, có khả năng phát hiện và dự đoán chiều hướng phát
triển của các sự kiện, vấn đề thời sự nổi bật trong đời sống chính trị - xã hội.
Ngồi việc lãnh đạo có nghiệp vụ báo chí, cịn cần có kiến thức về pháp luật về quản
lý nhà nước, quản trị kinh doanh. Bên cạnh đó lãnh đạo quản lý cịn cần khả năng quản lý,
điều hành nhân lực; có tinh thần trách nhiệm cao; có bản lĩnh chính trị vững vàng; sẵn sàng
tiếp thu cái mới, các đúng; có óc sáng kiến; dám xơng pha vào những vấn đề bức xúc, gay
cấn, nóng hổi mà dư luận xã hội đang quan tâm.
Người lãnh đạo quản lý báo chí phải là người có nghệ thuật biết lắng nghe. Đây là
điều vô cùng quan trọng, là phẩm chất đặc trưng để phân biệt “tư chất của sếp”.
Người lãnh đạo phải biết chấp nhận những ý kiến khách nhau và cả những ý kiến trái
ngược với chính mình. Tờ báo là sản phẩm của tập thể. Một tổng Biên tập dù giỏi đến mấy,
cũng chỉ xuất phát từ một góc nhìn. Muốn nhận được câu trả lời hay, phải biết đặt những câu
hỏi hay.
Một nhà lãnh đạo khơn ngoan, có kinh nghiệm thường để các phóng viên khác trả lời

trước khi mình chính thức nêu ra quan điểm.
1.2.2.5. Vai trị của lãnh đạo quản lý báo chí - truyền thơng đối với quần chúng xã
hội
Vai trị của lãnh đạo quản lý báo chí - truyền thơng đối với quần chúng xã hội
Về chính trị:
- Lãnh đạo quản lý báo chí - truyền thơng có vai trị định hướng tư tưởng chính trị
vững vàng cho quần chúng nhân dân để ủng hộ chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Tạo lập dư luận tốt cho quần chúng nhân dân thông qua việc xây dựng các diễn đàn
giao lưu, trao đổi trên tinh thần xây dựng xã hội.
- Phát hiện, cổ vũ các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, thành tựu đạt được trong công
cuộc đổi mới của đất nước.
- Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
chống thơng tin, quan điểm sai trái, chống âm mưu “Diễn biến hịa bình” của các thế lực phản
động, thù địch.
Về kinh tế:
- Lãnh đạo quản lý báo chí phải là cầu nối giữa khơng chỉ giữa các doanh nghiệp mà
cịn cả giữa doanh nghiệp và công chúng qua việc tạo lập các diễn đàn giữa các bên và thu
nhận các ý kiến phản hồi của cơng chúng giúp các doanh nghiệp có thể cải thiện, khắc phục
các hạn chế còn tồn tại.
- Thúc đẩy kinh tế phát triển thông qua hoạt động quảng bá những thương hiệu có chất
lượng và lên án những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả hoặc kém chất lượng.
14


Về văn hóa:
- Lãnh đạo quản lý báo chí cần chú trọng làm giàu, làm đẹp cho văn hóa dân tộc, nhất
là ngơn ngữ. Báo chí vừa là nơi giữ gìn và sáng tạo ra nhiều từ mới, thuật ngữ mới cả trong
cách viết và cách thể hiện, trong việc chuẩn ngơn ngữ nói và viết.
- Lãnh đạo quản lý báo chí - truyền thơng có vai trị cung cấp tri thức cho công chúng
xã hội thông qua việc đưa các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, âm nhạc và các tri thức

về văn hóa nhân loại đến với cơng chúng.
- Lãnh đạo quản lý báo chí cần phải duy trì, bảo tồn những nét văn hóa cổ truyền hiện
đang dần mai một.
1.3. Cơ sở chính trị - pháp lý đối với lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thơng
1.3.1. Cơ sở chính trị của lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thơng
+ Báo chí - truyền thơng là cơng cụ, phương tiện chính trị
- Hoạt động báo chí - truyền thơng là hoạt động chính trị - xã hội
Khơng trực tiếp tham gia vào cơng tác chính trị ở các cơ quan quản lý nhà nước,
nhưng với chức năng truyền tải thông tin, định hướng tư tưởng theo sự chỉ đạo của Đảng và
nhà nước đến quần chúng nhân dân, hoạt động báo chí - truyền thơng được coi là hoạt động
chính trị - xã hội. Báo chí - truyền thơng với vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân đã góp phần vào cơng tác khai sáng, truyền tải tư tưởng chính trị đến nhân dân một cách
kịp thời. Đó vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ của các cơ quan báo chí. Nguyên tắc này tồn
tại ở mọi nền báo chí, cả báo chí phương Tây và phương Đơng, báo chí tư sản và vơ sản, phục
vụ cho giai cấp thống trị, đảng phái của mình nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Cùng với
các công cụ quản lý khác, báo chí góp phần tham gia đấu tranh chống lại các quan điểm sai
trái của các thế lực thù địch, chống tham nhũng, tiêu cực trong xã hội.
Báo chí ra đời một phần do bổn phận nghĩa vụ xã hội của nó đối với cộng đồng, do
địi hỏi khách quan từ cuộc sống. Nói cách khác, báo chí hình thành và phát triển trên cơ sở
các điều kiện, nhu cầu thông tin tự thân và điều kiện kinh tế xã hội, kỹ thuật, khoa học công
nghệ, quan hệ thực tiễn. Báo chí là cơng cụ, phương tiện, cơ quan ngôn luận của chế độ, giai
cấp, tổ chức chính trị - xã hội. Báo chí phản ánh tất cả các lĩnh vực của xã hội, và người làm
báo cũng tiếp xúc, va chạm, cọ xát với tất cả các lĩnh vực của xã hội trong sự phản ánh đa
dạng của nó.
- Báo chí - truyền thơng phải là cơng cụ, phương tiện của thể chế chính trị và các nhà
hoạt động chính trị - xã hội
Báo chí từ lâu là công cụ, phương tiện của Đảng, là vũ khí sắc bén trên mặt trận đấu
tranh tư tưởng. Mỗi nhà báo được coi là chiến sĩ cách mạng trên mặt thơng tin tun truyền.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong 30 năm đổi mới vừa qua, Đảng,
Nhà nước ta đã quán triệt và cụ thể hóa những luận điểm có tính ngun tắc đó bằng những

nghị quyết, chỉ thị và các luật về báo chí, khẳng định rõ: “Báo chí ở nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan
ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân”.
Kể từ khi ra đời, báo chí hỗ trợ đắc lực Đảng, Nhà nước trong công tác lãnh đạo, quản
lý đất nước, luôn là công cụ, phương tiện hỗ trợ đắc lực cho các nhiệm vụ cách mạng của
Đảng. Báo chí đã phản ánh kịp thời diễn biến mọi mặt của đời sống xã hội; phản ánh tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; phát hiện và cổ vũ các nhân tố mới, điển
hình tiên tiến và những thành tựu của công cuộc đổi mới; phản ánh những ý kiến đóng góp
tâm huyết của các nhà khoa học, các giới đồng bào. Kịp thời phê phán, đấu tranh với các hiện
tượng tiêu cực, những thói hư tật xấu trong xã hội; phê phán, bác bỏ những thông tin, quan
điểm sai trái, âm mưu “diễn biến hồ bình” của các thế lực phản động, thù địch, góp phần vào
việc củng cố lịng tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới. Báo chí đã có những đóng góp
quan trọng trong cơng tác thơng tin về chủ quyền biển, đảo; thông tin tuyên truyền đối ngoại;
15


thông tin về những thành tựu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; về các giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc ra thế giới, thúc đẩy hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới .
- Sử dụng báo chí - truyền thơng để truyền bá ý thức hệ tư tưởng chính trị tiến bộ
Chức năng tư tưởng là chức năng xuyên suốt, thể hiện tính mục đích của báo chí. Với
chức năng này, báo chí là cơng cụ, phương tiện quan trọng dùng để truyền bá hệ tư tưởng. Ở
nước ta, báo chí đã trở thành cơng cụ sắc bén, quan trọng tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá
trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Hầu như tất cả các dự thảo luật quan trọng,
những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước, của các bộ, ngành... đều được cơng
khai thơng tin trên báo chí.

+ Đảng lãnh đạo báo chí - truyền thơng
+ Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo chí - truyền thơng là bất di, bất
dịch
Đặc thù thể chế chính trị ở nước ta quy định, Đảng Cộng sản là đại diện duy nhất hợp
pháp cho quyền lợi của nhân dân, do vậy, việc Đảng lãnh đạo hoạt động báo chí - truyền
thơng (một trong các hoạt động thông tin tuyên truyền cơ bản nhất) là bất di bất dịch, là điều
kiện tiên quyết trong nền báo chí cách mạng ở nước ta. Báo chí phục vụ cho cơng tác thơng
tin tun truyền, định hướng dư luận do Đảng lãnh đạo, đồng thời cũng đồng nghĩa với việc
thể hiện cao nhất, đầy đủ nhất trách nhiệm xã hội của báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Sự xa rời hoặc đi ngược lại xu hướng đó dù với danh nghĩa gì, cũng làm cản
trở tới sự phát triển, tiến bộ của đất nước, tổn hại tới lợi ích của nhân dân.
Những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí phải thường xuyên ý thức về tính Đảng
của báo chí cách mạng, giữ gìn phẩm chất nghề nghiệp và nhân cách trong sáng của người
cầm bút - người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Biểu hiện cao nhất, bản chất nhất tính Đảng
của báo chí là tính chiến đấu. Điều đó thể hiện trước hết ở đường lối chính trị của tờ báo. Hoạt
động báo chí thực chất là hoạt động chính trị, nội dung quan trọng nhất trên báo chí là nội
dung chính trị. Báo chí phải biểu thị rõ ràng sự nhiệt tình ủng hộ hay phản đối một quan điểm,
một vấn đề, một sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội nào đó khi trong xã hội cịn đấu tranh giai
cấp.
Báo chí cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục vụ cho lợi ích của cách
mạng. Đây là nguyên tắc cơ bản đảm bảo tính Đảng trong hoạt động của báo chí. Dưới sự
lãnh đạo của Ðảng, trong những năm qua, hệ thống báo chí - truyền thơng đã góp phần to lớn
vào việc tổ chức thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng, pháp luật của nhà nước, thật sự đóng
vai trị là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, khoa học, kỹ thuật,
bảo vệ Tổ quốc. Ðặc biệt, báo chí - truyền thơng trở thành vũ khí quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, tệ nạn xã hội.
Từ thực tiễn cơng tác lãnh đạo báo chí - truyền thơng ở Việt Nam có thể rút ra một số
bài học:
Bài học thứ nhất có tính ngun tắc bất di, bất dịch là phải luôn luôn giữ vững sự lãnh
đạo của Ðảng đối với báo chí - truyền thơng, thực hiện đồng bộ cả bốn khâu: định hướng phát

triển; định hướng nội dung; công tác cán bộ; công tác kiểm tra, kiểm sốt, trong đó khâu cán
bộ giữ vai trò quyết định.
Bài học thứ hai, các cấp ủy Ðảng cần nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò to lớn
ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của báo chí - truyền thơng đối với xã hội, đối với việc tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
Bài học thứ ba, Ðảng cần thường xuyên chăm lo phát triển hệ thống báo chí - truyền
thơng một cách khoa học, hợp lý, đồng bộ cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
16


Ðặc biệt là quan tâm đến công tác tổ chức, cán bộ, công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh
vực báo chí - truyền thơng. Hệ thống tổ chức các cơ quan báo chí - truyền thơng phải được
xây dựng khoa học, hợp lý, từng bước hoàn thiện về cơ chế vận hành; tạo điều kiện cho hoạt
động của báo chí đồng thời kịp thời phát hiện và đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý đối với
những người khơng đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chun mơn, những người có biểu hiện
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó
lường. Xu thế truyền thơng đa phương tiện, truyền thông hội tụ phát triển thông tin đa dịch
vụ, thông tin có tính tương tác, cá nhân hóa thơng tin… tiếp tục làm thay đổi sâu sắc lối sống
và các mối quan hệ xã hội. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định của Ðảng và
các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực báo chí - truyền thơng, làm rõ hơn thẩm quyền,
trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước, cơ
quan chủ quản và từng cơ quan báo chí - truyền thơng, các chủ thể truyền thông xã hội trên
môi trường internet. Tiếp tục tăng cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương,
Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam và các ban, bộ, ngành của Ðảng và
Nhà nước trong công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động báo chí - truyền thơng. Tiếp tục xây
dựng, hồn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp và giáo dục các chủ thể trong hoạt động
báo chí - truyền thông tự giác thực hiện.
+ Đảng lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng sự phát triển hệ thống các phương tiện truyền
thơng

Đảng ta cơng khai tun bố tính đảng trong hoạt động báo chí và yêu cầu hoạt động
báo chí phải đảm bảo tuân thủ nguyên tắc này một cách nghiêm ngặt. Tính Đảng là nguyên
tắc cơ bản hàng đầu và là nguyên tắc quan trọng nhất của báo chí nước ta. Tính đảng của báo
chí phải trở thành kỷ luật thơng tin báo chí và là bổn phận, trách nhiệm của nhà báo. Nguyên
tắc này đã được thể chế hoá bằng pháp luật, thể hiện rõ trong hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật về báo chí.
Chỉ thị 22-CT/TW mà Bộ Chính khố VIII đề ra về cơng tác lãnh đạo quản lý báo chí,
Đảng đã thể hiện rõ quan điểm và định hướng. Chỉ thị yêu cầu Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương và Bộ Văn hoá - Thông tin phối hợp nghiên cứu bổ sung và ban hành các quy định, quy
chế về việc xét duyệt, cấp phép hoạt động của báo chí, xuất bản, khai thác thông tin trên mạng
internet quốc tế và đưa sách, báo vào mạng này. Nghiên cứu để đổi mới cơ chế quản lý hệ
thống các đài phát thanh - truyền hình từ Trung ương đến địa phương, chỉ đạo và quản lý tốt
nội dung, phát huy hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo, lãng phí cơ sở vật chất kỹ
thuật.
Ngoài ra chỉ Chỉ thị 22-CT/TW cũng xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc nghiên cứu, đề nghị sửa đổi, bổ sung và ban hành các chế độ, chính sách tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động báo chí, xuất bản trong điều kiện mới. Đồng thời làm tốt công
tác thông tin đối ngoại, giúp cho cộng đồng quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngồi có thơng tin kịp thời, đúng đắn về tình hình đất nước, tranh thủ sự đồng tình của nhân
dân thế giới đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ra.
Sau nhiều năm thực hiện, những nội dung của Chỉ thị 22-CT/TW đến nay vẫn giữ
nguyên giá trị, thực sự là một văn kiện quan trọng thể hiện sự đổi mới trong tư duy của Đảng
đối với công tác lãnh đạo, quản lý báo chí. Ngồi ví dụ điển hình như chỉ thị 22-CT/TW thì sự
lãnh đạo của Đảng đối với các hoạt động BCTT được thể hiện như sau.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí được thể hiện ở những nội dung cơ bản:
Một là: Đảng xác định tơn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ của cơ quan báo chí.
Khi thành lập một cơ quan báo chí, Đảng đã định hướng nội dung thơng tin và định
hướng hoạt động của cơ quan báo chí thơnng qua việc xác định tơn chỉ, mục đích, đối tượng
phục vụ của cơ quan báo chí. Trong suốt q trình hoạt động, tồn tại và phát triển, cơ quan
báo chí phải nghiêm túc thực hiện theo tơn chỉ, mục đích đã đề ra và đã được phê duyệt.

17


Hai là: Đảng định hướng chính trị cho báo chí.
Báo chí nước ta được Đảng giao cho sứ mệnh là người đi tiên phong trong việc tuyên
truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Như vậy, đường lối chính trị của báo chí chính là cương lĩnh,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Và ngược lại cương lĩnh, đường lối, chủ
trương và chính sách đúng đắn chính là sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí. Tuỳ
từng thời kỳ khác nhau mà Đảng định hướng chính trị cho báo chí thơng qua việc xác định nội
dung tuyên truyền và những nhiệm vụ mà báo chí phải thực hiện.
Ba là: Đảng cung cấp thơng tin chính xác, đầy đủ, kịp thời về đường lối, chính sách và
tình hình thực tiễn cho báo chí.
Để giúp cho báo chí có thơng tin chính xác, đưa tin đúng sự thật, bình luận đánh giá
các sự kiện, hiện tượng một cách khách quan nhất, không ai khác mà chính các cấp uỷ đảng
có thẩm quyền trực tiếp phải cung cấp thơng tin cho báo chí. Việc cung cấp thơng tin một
cách chính xác, kịp thời, đầy đủ khơng chỉ giúp báo chí khẳng định được vị trí, vai trị và uy
tín của tờ báo đối với cơng chúng mà cịn giúp các cấp uỷ đảng khơng ngừng nâng cao hiểu
quả lãnh đạo của mình đối với xã hội. Đồng thời với kênh thông tin ngược lại từ cơng chúng
báo chí, Đảng sẽ có những quyết định chính xác hơn, phù hợp với thực tiễn khách quan của
xã hội hơn.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí:
Một là: Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra những chỉ thị, nghị quyết đối với báo chí.
Lãnh đạo bằng nghị quyết, chỉ thị là phương thức lãnh đạo quan trọng nhất của Đảng
đối với xã hội nói chung và đối với báo chí nói riêng. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về báo
chí vừa trở thành cơ sở để Nhà nước thể chế hoá các quan điểm của Đảng đối với báo chí, vừa
thực hiện quyền hạn, trách nhiệm quản lý của Nhà nước với các cơ quan báo chí thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình đối với Đảng, Nhà nước và xã hội.
Tuỳ theo mô hình và cơ cấu hoạt động của báo chí mà Đảng lựa chọn đề ra nghị quyết,
chỉ thị thích hợp theo mục đích phục vụ của cơ quan báo chí đó. Nghị quyết cần được đảm

bảo tính tồn diện, thiết thực, cụ thể vừa giúp chấn chính lại vừa sửa đổi những sai phạm (nếu
có) của các cơ quan báo chí. Có như vậy, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với báo chí sẽ cao
hơn.
Hai là: Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng trong các cơ quan báo chí.
-Thứ nhất: Cơ quan báo chí cấp bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc chính phủ như
Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam, Đài Truyền hình Việt nam...
-Thứ hai: Cơ quan báo chí ở Trung ương nhưng là đơn vị cấp vụ, đặt dưới sự lãnh đạo,
quản lý của bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính
trị xã hội.
-Thứ ba: Ban biên tập các tạp chí của viện nghiên cứu chuyên ngành, trường đại học,
học viện, quân đội và công an.
Ba là: Đảng lãnh đạo thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong cơ quan báo chí. Việc đào tạo đội ngũ phóng viên, biên tập viên có thể thực
hiện cả trong và ngoài nước. Nhưng việc bồi dưỡng cán bộ chủ chốt trong các cơ quan báo chí
trong nước cần sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng và thông qua hệ thống trường Đảng
cùng sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Như vậy, chúng ta mới có được đội ngũ cán bộ báo
chí đồng bộ, có đủ phẩm chất và năng lực hồn thành trách nhiệm của người cán bộ giữ vai
trị xung kích trên mặt trận tư tưởng của Đảng.
+ Đảng lãnh đạo thông quan ban hành các nghị quyết, chỉ thị, thông tư, hướng dẫn…
Báo chí là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tồn bộ cơng tác tư tưởng, văn hố
của Đảng; là một trong những cơng cụ sắc bén, hiệu quả để xây dựng, bồi đắp nền tảng tư
tưởng chính trị của Đảng; tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
18


đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, động viên, cổ vũ, tổ
chức nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, là
chiếc cầu hữu nghị để Việt Nam mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới.
Xuất phát từ vai trò to lớn, quan trọng của báo chí đối với đời sống xã hội, các nhà

sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định: Báo chí có tính giai cấp, tính đảng, tính nhân
dân, tính văn hóa. Đảng cách mạng phải lãnh đạo báo chí cách mạng, đó là nguyên tắc bất di
bất dịch. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “... Phải có lập trường chính
trị vững chắc, chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng
được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng". Trong bài nói chuyện
tại Đại hội lần thứ 3 Hội Nhà báo Việt Nam, Từ ngày 7 đến 8/9/1962, Hội Nhà báo Việt Nam
tổ chức Ðại hội đại biểu lần thứ ba. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và phát biểu Người đã căn
dặn: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của
họ". Trong bức điện gửi Hội Nhà báo Á-Phi, Người nhấn mạnh: "Đối với những người viết
báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng". Người còn động viên,
nhắc nhở những người làm báo: "Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp phị chính, trừ tà". Người căn dặn: "Nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ
vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng,
đứng vững trên lập trường của giai cấp vơ sản; phải nâng cao trình độ văn hố, phải đi sâu vào
nghiệp vụ của mình".
Thực hiện lời dạy của Bác, 85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí cách
mạng Việt Nam đã thể hiện rõ vai trị, trách nhiệm của mình trước vận mệnh của đất nước.
Nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng đã dùng báo chí như là vũ khí đấu tranh, công cụ tuyên
truyền, phương thức lãnh đạo cách mạng, trở thành những nhà báo xuất sắc; hàng trăm nhà
báo đã chiến đấu, hy sinh anh dũng trong tư thế của nhà báo-chiến sỹ. Có tác phẩm báo chí
được in ấn thô sơ dưới hầm sâu, trong ngục tối, trong những điều kiện hết sức khó khăn,
nhưng đã được đồng chí, đồng bào chuyền tay nhau đọc; thắp lên trong họ niềm tin mãnh liệt
về lý tưởng cách mạng, hun đúc ý chí, khích lệ hành động xả thân vì nghĩa lớn. Nhiều tác
phẩm báo chí như hồi kèn tập hợp, động viên, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xiết chặt
đội ngũ, dưới cờ Đảng quang vinh, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ngày nay, báo chí cách mạng ln đi đầu trong tun
truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cổ vũ những
thành tựu của sự nghiệp đổi mới, những tấm gương điển hình tiên tiến, loại bỏ cái xấu, cái ác;
tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống tham nhũng, tiêu cực, làm thất bại
chiến lược "Diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch...

Cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng thể hiện trên trận tuyến báo chí, dù thời chiến
hay thời bình ln gay go, phức tạp; ở giai đoạn hiện nay, tính chất đó cịn cao hơn so với
trước. Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thơng tin và xu hướng tồn
cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc, tạo ra nhiều cơ hội và cả những thách thức. Cách
thức thu nhận, trao đổi thông tin (mạng internet, các website, các blog cá nhân; sự tương tác
nhiều chiều trong thông tin); các trào lưu, khuynh hướng tư tưởng xâm nhập, tác động vào
nước ta ngày càng mạnh mẽ. Các thế lực cơ hội, phản động, thù địch tăng cường chống phá ta
trên nhiều mặt, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hố, báo chí; thực hiện âm mưu
"Diễn biến hồ bình" ngày càng thâm độc, nham hiểm hơn,...
Trước tình hình đó, để nâng cao hiệu quả lãnh đạo đối với báo chí, Đảng ta phải khơng
ngừng đổi mới tư duy, phong cách, phương thức lãnh đạo đối với công tác báo chí. Đảng lãnh
đạo báo chí bằng việc đề ra nghị quyết, chỉ thị, định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ
thống báo chí và định hướng nội dung thơng tin, tun truyền của báo chí; lãnh đạo cơng tác
tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong
cơ quan báo chí; lãnh đạo các đồn thể chính trị trong cơ quan báo chí. Nhà nước có trách
nhiệm thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí bằng pháp luật, chính sách trong
19


quản lý hoạt động báo chí. Trong q trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước, Đảng ta đã có bước chuyển quan trọng trong việc đổi mới tư duy, phong cách và
phương thức lãnh đạo đối với cơng tác báo chí.
Để lãnh đạo, quản lý hoạt động BCTT hiệu quả, chặt chẽ, Đảng đã đưa ra
nhiều văn bản, nghị quyết, chỉ thị để có những sự chỉ đạo sát sao, chấn chỉnh kịp thời hoạt
động của các cơ quan báo chí truyền thơng, nhằm mục đích hướng hoạt động BCTT đi đúng
hướng. Có thể kể đến các văn bản nghị quyết, chỉ thị như sau:
1. Nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
ra Chỉ thị 63-CT/TW, ngày 25/7/1990 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
báo chí, xuất bản. Có thể nói rằng, đây là văn kiện quan trọng đầu tiên nêu rõ nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí; đồng thời, xác định các cơng việc mà Đảng,

Nhà nước cần thực hiện để lãnh đạo, quản lý báo chí; trách nhiệm của cơ quan chủ quản;
trách nhiệm, quyền hạn của người phụ trách cơ quan báo chí và việc thành lập các tổ chức
đảng trong các cơ quan báo chí.
2. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp báo chí ngay sau thời kỳ xóa bao cấp thực hiện
định hướng thị trường XHCN, ngày 31/3/1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 08CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác
báo chí, xuất bản. Chỉ thị ra đời nhằm mục tiêu trọng tâm đó là khắc phục những hạn chế đã
bộc lộ trong suốt thời kỳ đổi mới kinh tế đất nước. Ở thời điểm đó Phần lớn cơ quan báo chí,
xuất bản đã khắc phục một bước tình trạng bao cấp tràn lan, đi vào hạch toán, cố gắng tiếp
cận bạn đọc, cải tiến hình thức và nội dung. Phương tiện in ấn được tăng cường, có tiến bộ
nhanh về kỹ thuật. Bên cạnh những ưu điểm cơ bản nói trên, cơng tác báo chí, xuất bản cịn
nhiều khuyết điểm, nhược điểm trong đó có những khuyết điểm nghiêm trọng và kéo dài đó
là:
Báo, đài cịn nặng phê phán mặt tiêu cực, chưa tuyên truyền đúng mức cho những
nhân tố mới, nhiều bài viết về nhân tố mới chưa sâu sắc, thiếu sức thuyết phục; một số sự việc
nêu lên trên báo, đài, nhất là về chống tiêu cực chưa chính xác, thiếu thận trọng, khi sai khơng
cải chính. Tính chiến đấu trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa xã hội chưa được coi trọng
đúng mức. Trong thơng tin, có lúc mất cảnh giác, để lộ bí mật. Nhiều báo, đài ở Trung ương
chưa phản ánh được cái chung cả nước; nhiều báo ở địa phương chất lượng yếu, số lượng phát
hành q ít. Việc xuất bản sách vẫn cịn lộn xộn. Nhiều cơ quan không được phép tổ chức
xuất bản chuyên nghiệp in sách bán rộng rãi. Một số ít sách có nội dung độc hại đã và đang
được lưu hành. Có tình trạng in tràn lan bài viết, tranh ảnh và cuốn sách giải trí có chất lượng
thấp hoặc kích thích những thị hiếu khơng lành mạnh. Khơng ít sách báo thường xuyên khai
thác những chuyện tình dục, moi móc đời tư, đăng quá nhiều vụ án, miêu tả tỉ mỉ những hành
động dâm ô, bạo lực, in nhiều hình ảnh thiếu thẩm mỹ, tun truyền mê tín dị đoan, xa rời
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Sử dụng thơng tin của nước ngồi thiếu chọn lọc;
sách dịch tràn lan, có cuốn khơng phù hợp với cách nghĩ, lối sống và đạo đức của dân tộc Việt
Nam.
Có những số báo, cuốn sách được xuất bản khơng đúng tơn chỉ, mục đích, khơng đúng
Luật; thậm chí có ấn phẩm lưu hành trong xã hội không ghi rõ cơ quan xuất bản, nhà in. Việc
quản lý các phương tiện in cịn lỏng lẻo. Cơng tác phát hành sách báo cịn yếu, nhất là đưa

sách báo tới vùng nơng thôn, miền núi. Hệ thống các thư viện bị sa sút.
Khuynh hướng thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận đơn thuần khá nặng nề dẫn tới
đua nhau đăng và phát những tin, bài, hình ảnh giật gân, câu khách. Cũng có một số bài báo,
quyển sách có khuynh hướng chính trị lệch lạc, phủ định quá khứ tốt đẹp, miêu tả đen tối thực
trạng, tuyên truyền cho lối sống theo chủ nghĩa thực dụng. Những khuynh hướng sai lầm đó
đã được các cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo uốn nắn, nhắc nhở, đã bị dư luận lên án nhưng
chưa sửa chữa được nhiều.

20


Sự lãnh đạo, quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng Trung ương, của nhiều cấp
ủy đảng, cấp chính quyền, cơ quan chủ quản có báo và nhà xuất bản là ngun nhân quan
trọng của tình trạng nói trên. Đồng thời cần thấy trách nhiệm trực tiếp của một số tổng biên
tập báo, đài, giám đốc nhà xuất bản, nhà in và cơ quan phát hành.
Để chấp hành nghiêm túc những quan điểm bản của Đại hội VII của Đảng về cơng tác
báo chí, xuất bản, nâng cao chất lượng và tăng cường hiệu quả xã hội to lớn của hoạt động
báo chí xuất bản. Do vậy Chỉ thị 08 của Đảng đã ra đời và là căn cứ cho các cấp ủy đảng các
cơ quan quản lý báo chí kịp thời điều chỉnh những hạn chế tăng cường và phát huy vai trị của
báo chí góp phần xây dựng đất nước thịnh vượng.
3. Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) ra Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 18/2/1995
về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng. Trong đó, Đảng yêu cầu phải: nâng cao
chất lượng, hiệu quả của báo chí; coi trọng cơng tác bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ phụ
trách báo chí, nắm vững và chủ động thực hiện đúng đắn, sáng tạo các định hướng chính trị,
tư tưởng của Đảng; đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, tiêu cực, chống âm mưu "Diễn
biến hồ bình" của các thế lực thù địch...
4. Đến Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng, lần đầu tiên Đảng đề ra chủ trương
sớm hoạch định một chiến lược quốc gia về thông tin, theo hướng: coi trọng việc nâng cao
chất lượng thơng tin đại chúng, tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin;
phát hiện và đề cao các nhân tố mới, đấu tranh phê phán các hiện tượng tiêu cực, tăng cường

công tác thông tin đối ngoại.
Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước, báo chí nước ta có những khởi sắc đáng mừng; song, cũng cịn bộc lộ
những hạn chế trước yêu cầu mới của thực tiễn. Để khắc phục tình trạng đó, ngày 17/10/1997,
Bộ Chính trị (khoá VIII) ban hành Chỉ thị số 22-CT/TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý cơng tác báo chí; trong đó, xác định các quan điểm và định hướng lớn; đồng
thời, yêu cầu các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí nhận rõ và chủ động khắc phục các yếu
kém, khuyết điểm.
5. Trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), Đảng yêu cầu: phải hiện đại hố hệ
thống thơng tin đại chúng; sắp xếp hợp lý nhằm tăng hiệu quả thông tin; xây dựng và từng
bước thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp đặc điểm nước ta và xu thế phát
triển của truyền thông thế giới; ngăn chặn, hạn chế thông tin độc hại, tiêu cực qua mạng
internet; không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ, chất lượng tư tưởng, văn hố
của hệ thống thơng tin đại chúng; khắc phục khuynh hướng "thương mại hoá" trong hoạt động
báo chí; chăm lo đặc biệt về định hướng chính trị, tư tưởng, văn hoá cũng như kỹ thuật đối
với báo chí.
6. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, khi đề cập đến cơng tác lãnh đạo báo chí, tiếp tục
khẳng định quan điểm mang tính khoa học: "phát triển đi đôi với quản lý tốt"... Nghị quyết
nêu rõ: “Báo chí, xuất bản... làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội,
giới thiệu gương người tốt việc tốt, những gương điển hình tiên tiến, phê phán các hiện tượng
tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng
nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thơng tin;... khắc phục khuynh
hướng "thương mại hố" trong hoạt động báo chí, xuất bản. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tư
tưởng, ý thức trách nhiệm, trình độ văn hoá và nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ
báo chí, xuất bản"6. Để định hướng hoạt động của báo chí, xuất bản trong thời kỳ mới, căn cứ
vào tình hình cụ thể, Đảng ta cũng ban hành một số nghị quyết, chỉ thị, thông báo quan trọng.
Nổi lên là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) "Về cơng tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước
yêu cầu mới"; trong đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà
nước, của tổ chức chính trị-xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp

của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; đảm bảo tính tư
21


tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng.Cùng với đó, Đảng khẳng
định: phải tăng cường thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật
của Nhà nước trong lĩnh vực báo chí, xuất bản
7. Kết thúc năm 2000, cả nước đã hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2000 và
kế hoạch 5 năm 1996-2000 và kết quả bước đầu một năm thực hiện Cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng tạo niềm tin cho toàn xã hội, phấn khởi bước vào Thế kỷ XXI và Thiên niên
kỷ mới được đánh dấu bằng khơng khí vui tươi, lành mạnh trong dịp Tết Nguyên đán Tân Tỵ
và các lễ hội chào đón Thế kỷ XXI trong cả nước.
Trước Đại hội IX của Đảng, trong Đảng và xã hội đã xuất hiện và lan rộng nhiều
thông tin sai lệch và phát ngơn nhiều vấn đề thuộc về bí mật nội bộ (cả chủ trương, quan điểm
và nhân sự lãnh đạo cấp cao của Đảng) làm ảnh hưởng đến tư tưởng cán bộ, đảng viên. Bộ
Chính trị đã ra Chỉ thị số 64-CT/TW về giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí mật trong
tình hình hiện nay, Cơng tác tư tưởng đã nhanh chóng, kịp thời triển khai Chỉ thị trong toàn hệ
thống và trong toàn Đảng, các đoàn thể chính trị. Nhờ đó đã ngăn chặn được các thông tin sai
lệch và phát ngôn vô tổ chức, kỷ luật.
Trong các vân kiện Đại hội IX của Đảng đánh giá cao các hoạt động tư tưởng, “đã góp
phần tích cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức
và chất lượng cuộc sống”3. Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống
chính trị được củng cố. Tuy nhiên, Đại hội cũng chỉ rõ những yếu kém của cơng tác tư tưởng:
thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Chưa thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, chưa phê phán mạnh và đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng
cơ hội, những quan điểm mơ hồ, sai trái, khuynh hướng “thương mại hoá”, lai căng, chạy theo
thị hiếu tầm thường trên báo chí, phát thanh, truyền hình, trong văn hố, văn nghệ và xuất
bản. Từ đó, Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ công tác tư tưởng: tăng cường giáo dục tư
tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tiếp tục đổi mới công
tác cán bộ, xây dựng củng cố tổ chức cơ sở đảng; kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng; quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản; làm tốt chức
năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát
hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn
nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái. Công tác tư tưởng
trong nhiệm kỳ Đại hội IX tập trung thực hiện 9 việc lớn trong chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết Đại hội gồm: tổng kết 15 năm đổi mới công tác tư tưởng (1986-2001) và đề
nghị Ban Chấp hành Trung ương (khố IX) ra Nghị quyết về cơng tác tư tưởng, lý luận; triển
khai Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về tư tưởng, lý luận; đổi mới học tập, nghiên cứu
triển khai Nghị quyết về công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng; tổng
kết thực hiện Nghị quyết Trung ương khoá VIII về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền chính trị, kinh tế - xã
hội; tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng,
truyền thống cách mạng, lịch sử dân tộc, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản; chỉ
đạo tổ chức, đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững mặt
trận an ninh chính trị, tư tưởng văn hố; đổi mới phương pháp cơng tác tư tưởng, thực sự là
công tác vận động quần chúng; củng cố, sắp xếp bộ máy cán bộ Ngành Tư tưởng, mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá.
8. Năm 2008, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quyết định số 157-QĐ/TW ngày
29 tháng 4 năm 2008 ban hành quy định về chỉ đạo, định hướng chính trị tư tưởng nhất là đối
với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội dung thơng tin của báo chí. Quyết
định này quy định rõ trách nhiệm của Các cấp ủy Đảng, lãnh đạo các cơ quan quản lý báo chí,
cơ quan báo chí trong tuyên truyền các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật
của nhà nước và các vấn đề xã hội nhằm đảm bảo sự ổn định về tư tưởng chính trị trong Đảng
và góp phần ổn định xã hội.
22


9. Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội

bộ. Nghị quyết này cũng có những nội dung liên quan đến công tác tư tưởng của cán bộ đảng
viên. Một số nguy cơ thực trạng Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức,
lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù
địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị cịn bị động, thiếu sắc bén và hiệu
quả chưa cao. Trong đó có những bất cập do việc quản lý thơng tin cịn lỏng lẻo, thiếu giải
pháp đủ mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch , phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị.
Cùng với những đổi mới mạnh mẽ trong hoạt động báo chí tuyên truyền, Đảng khẳng
định: phải tăng cường thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật
của Nhà nước trong lĩnh vực báo chí, xuất bản. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà vừa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 282, ngày 24/12/1956 quy định chế
độ hoạt động của báo chí; về những điều báo chí khơng được thông tin; thủ tục cấp giấy phép
và điều kiện hoạt động của báo chí và lưu chiểu; hình thức kỷ luật nếu báo chí vi phạm. Từ đó
đến nay, cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật về báo
chí được bổ sung và từng bước hoàn thiện. Tiêu biểu như: Luật Báo chí 1989; Luật Báo chí
1999; Đề án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999; Quyết định số
77/2007/QĐ-TTg, ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phát ngơn và
cung cấp thơng tin cho báo chí; Thơng tư số 07/2007/ TT-VHTT của Bộ Văn hố - Thơng tin
hướng dẫn cấp, đổi và thu hồi Thẻ nhà báo; Quyết định số 52/2008/QĐ-BTTTT, ngày 02-122008 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc ban hành Quy chế xác định nguồn tin trên
báo chí; Thơng tư số 13/2008/TT-BTTTT, ngày 31/12/2008 của Bộ Thơng tin và Truyền
thông hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú
trong nước của các cơ quan báo chí; Nghị định số 97/2008/NĐ-CP, ngày 28/8/2008 của Chính
phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet; Nghị
định số 28/2009/NĐ-CP, ngày 20/3/2009 quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet; Quy hoạch truyền dẫn, phát
sóng phát thanh, truyền hình đến năm 2020... mới đây nhất Luật Báo chí năm 2016 Luật số:
103/2016/QH13, ngày 05 tháng 4 năm 2016 mới được Quốc hội ban hành Như vậy, chỉ trong
một thời gian không dài, thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan làm công tác tham mưu
của Đảng và Nhà nước về báo chí đã xây dựng, ban hành một khối lượng khá lớn các văn bản

quy phạm pháp luật phục vụ cơng tác lãnh đạo, quản lý báo chí. Đây là cơ sở pháp lý hết sức
quan trọng, bảo đảm cho các cơ quan báo chí, xuất bản hoạt động theo đúng đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuân thủ đúng tôn chỉ, mục đích đã
được xác định.
Để bảo đảm cho báo chí thực sự là công cụ tin cậy của Đảng, Nhà nước, thể hiện tiếng
nói của nhân dân, địi hỏi những người làm báo phải vững vàng về lập trường, quan điểm;
trong sáng về đạo đức, lối sống; sắc bén về chuyên mơn, nghiệp vụ. Trong suốt q trình phát
triển của sự nghiệp báo chí, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến cơng tác giáo dục, bồi dưỡng về
bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ của đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên
các cơ quan báo chí. Bởi vậy, trong bất kỳ hồn cảnh nào, đội ngũ cán bộ những người làm
báo luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với sự nghiệp cách mạng; bám sát thực tiễn, không
ngừng sáng tạo ra những tác phẩm báo chí có chất lượng cao, phản ánh trung thực mọi mặt
của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, các cấp đã thường xuyên coi trọng việc xây dựng tổ chức
đảng trong cơ quan báo chí vững mạnh về mọi mặt; đề cao vai trò đảng viên của người làm
báo, nhất là đội ngũ những người giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan báo chí; giữ
đúng tơn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan báo chí và nhà báo; nâng cao chất
23


lượng tư tưởng, chính trị, văn hố, khoa học của từng cơ quan báo chí, để báo chí thực sự là
tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp và là diễn đàn
tin cậy của nhân dân.
Hoạt động của báo chí thực chất là hoạt động chính trị; nội dung quan trọng nhất trên
báo chí là nội dung chính trị; vì vậy, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước đối với hoạt động của báo chí, xuất bản trong tình hình hiện nay là một địi hỏi
khách quan, đồng thời là nguyên tắc cơ bản bảo đảm tính Đảng trong hoạt động của báo chí.
Có thơng qua sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của báo chí mới đi đúng hướng và thực hiện
đúng chức năng, trách nhiệm xã hội của mình. Mọi mưu toan "phi chính trị hóa" đối với hoạt
động báo chí, cố tình tách báo chí ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều
là ảo tưởng; dù với danh nghĩa gì, cũng làm cản trở tới hoạt động của báo chí cách mạng;

đồng thời, cũng làm cản trở tới sự phát triển, tiến bộ của đất nước, tổn hại đến lợi ích của
nhân dân.
Chỉ thị số 63-CT/TW, ngày 25/7/1990 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với cơng tác báo chí, xuất bản của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã cụ thể hóa Nghị
quyết Đại hội VI của Đảng và được coi là văn kiện quan trọng đầu tiên nêu rõ nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Chỉ thị xác định các công việc mà Đảng, Nhà
nước cần thực hiện để lãnh đạo, quản lý báo chí; trách nhiệm của cơ quan chủ quản; trách
nhiệm, quyền hạn của người phụ trách cơ quan báo chí và việc thành lập các tổ chức đảng
trong các cơ quan báo chí.
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp báo chí, ngày 31/3/1992, Ban Bí thư Trung ương
Đảng ra Chỉ thị số 08-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả cơng tác báo chí, xuất bản;
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ra Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày
18/2/1995 về một số định hướng lớn trong cơng tác tư tưởng, trong đó u cầu phải nâng cao
chất lượng, hiệu quả của báo chí; coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ phụ
trách báo chí, nắm vững và chủ động thực hiện đúng đắn, sáng tạo các định hướng chính trị,
tư tưởng của Đảng; đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, tiêu cực, chống âm mưu “diễn
biến hịa bình” của các thế lực thù địch...
Mười năm sau khi tiến hành công cuộc đổi mới, báo chí đã đạt được những thành tựu
quan trọng nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng đó, ngày 17/10/1997 Bộ
Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 22-CT/TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xác định các quan điểm và định hướng lớn tăng cường thể
chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh
vực báo chí, xuất bản. Đồng thời, yêu cầu các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí nhận rõ và
chủ động khắc phục các yếu kém, khuyết điểm.
Năm 2008, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quyết định số 157-QĐ/TW ngày 29
tháng 4 năm 2008 ban hành quy định về chỉ đạo, định hướng chính trị tư tưởng nhất là đối với
các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội dung thơng tin của báo chí. Quyết định
này quy định rõ trách nhiệm của Các cấp ủy Đảng, lãnh đạo các cơ quan quản lý báo chí, cơ
quan báo chí trong tuyên truyền các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của

nhà nước và các vấn đề xã hội nhằm đảm bảo sự ổn định về tư tưởng chính trị trong Đảng và
góp phần ổn định xã hội.
Nghị quyết TW 6 (lần 2) (khóa VIII) về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong cơng
tác xây dựng Đảng hiện nay cũng có các nội dung liên quan đến công tác tư tưởng lý luận;
Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ. Nghị quyết này cũng có những nội dung liên quan đến công tác tư tưởng của cán bộ đảng
viên.
24


Các văn bản quản lý của Nhà nước có liên quan đến Báo chí
Trong những năm qua, hệ thống văn bản pháp luật về báo chí được bổ sung và từng
bước hồn thiện, cụ thể như:
+ Luật Báo chí năm 1989;
+ Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1989;
+ Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Báo chí;
+ Quyết định số 77/ 2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quy chế phát ngơn và cung cấp thơng tin cho báo chí;
+ Thơng tư số 07/2007/TT-VHTT ngày 20/3/2007 của Bộ Văn hóa - Thơng tin hướng
dẫn cấp, đổi và thu hồi Thẻ nhà báo;
+ Quyết định số 52/2008/QĐ-BTTTT ngày 2/12/2008 của Bộ Thông tin và Truyền
thông về việc ban hành Quy chế xác định nguồn tin trên báo chí;
+ Thơng tư số 13/2008/TT-BTTTT ngày 31/12/2008 của Bộ Thông tin và Truyền
thông hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú
trong nước của các cơ quan báo chí;
+ Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8/2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet;

+ Nghị định số 28/2009/ NĐ-CP ngày 20/3/2009 của Chính phủ quy định xử phạt
hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet;
+ Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh, truyền hình đến năm 2020...
+ Luật Báo chí năm 2016, ngày 05 tháng 4 năm 2016 được Quốc hội ban hành.
1.3.2. Cơ sở pháp lý của lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thông
+ Tuân thủ Hiến pháp
Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định
các nguyên tắc thực hiện tự do báo chí: “Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định”. Không chỉ quy định về những nguyên tắc tự do báo chí, tại Khoản 2, Điều 60, Hiến
Pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Nhà nước, xã hội phát triển văn
học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các
phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”, Nhà nước thể hiện rõ ràng quan điểm và quy định của
mình trong phạm vi quản lý các vấn đề về thơng tin truyền thơng, những góc nhìn mang tới
quần chúng nhân dân. Lãnh đạo và quản lý báo chí - truyền thông phải tuân thủ tuyệt đối
những quy định về vấn đề thông tin, ngôn luận và các nội dung liên quan được thể hiện trong
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam - vừa nghiêm tắc thực hiện tự do báo
chí, đề cao tính sáng tạo trong những đề tài của mình để đem đến góc nhìn đa dạng, thơng tin
đa chiều tới cho khán giá là quần chúng nhân dân, nhưng đồng thời luôn phải theo đuổi mục
tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, xây dựng Đảng và Nhà nước ngày một vững bền.
+ Tuân thủ các luật liên quan
Trên cơ sở cụ thể hóa đầy đủ, chính xác quy định của Hiến pháp 2013, dự thảo Luật
Báo chí (sửa đổi) đã tạo hành lang pháp lý để đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận
trên báo chí của cơng dân, cơ chế thực thi bảo đảm không ai được lạm dụng quyền tự do báo
chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Những hoạt động quản lý báo chí - truyền thông cần phải chặt
chẽ tuân theo những quy định của bộ luật này bởi đối với quản lý báo chí - truyền thơng, đây
chính là kim chỉ nan cho mọi quyết định quản lý của mình. Tìm hiểu về dự thảo Luật, đã có
các quy định về việc Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo

chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trị của mình. Báo
chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ
25


×