Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

LÀM RÕ QUAN ĐIỂM VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.69 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ:
LÀM RÕ QUAN ĐIỂM VÀ VẬN DỤNG
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO CÔNG TÁC
XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
MÃ MƠN HỌC: LLCT120314_21_1_21CLC
THỰC HIỆN: Nhóm 04. Thứ 3 tiết 9,10
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. Trương Thị Mỹ Châu

1


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2021-2022 Nhóm số 24CLC (Lớp thứ 3, tiết 9,10)

Tên đề tài: LÀM RÕ QUAN ĐIỂM VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
STT

HỌ TÊN

MSSV

TỶ LỆ HOÀN
THÀNH



1

Lê Minh Nhanh

20119259

100%

2

Lê Anh Kiệt

20119241

100%

3

Lê Phước Nhựt

20119263

100%

Nhận xét giáo viên
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………..

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………..
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………..
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………..
……………………………………………………………………………………
………………

Ngày … tháng 11 năm 2021
Giáo viên chấm điểm

2


MỤC LỤ

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.............................................................................................2
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM..........................................................................................................2
1.1. Khái quát sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam................................2
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hình thành Đảng cộng sản Việt Nam
.......................................................................................................................... 6

1.2.1. Cơ sở lý luận.......................................................................................6
1.2.2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................7
1.3. Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam............8
1.3.1. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản:....................................................8
1.3.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản:..................................................9
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN
ĐẢNG HIỆN NAY.............................................................................................10
2.1. Thực trạng về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay..........10
2.2. Nguyên nhân của những tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam..........12
2.2.1. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung
vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục.........................................................12
2.2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng và hệ
thống chính trị nói chung cịn nhiều bất cập, chậm được đổi mới...............13
2.2.3. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
đảng còn những hạn chế.............................................................................15

3


2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng hiện nay................................................................................................15
2.3.1. Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ
chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả......................................................................................................15
2.3.2. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị, đặc biệt là đối với Nhà nước trong điều kiện mới..............16
2.3.3. Đẩy mạnh thực hành dân chủ trong Đảng, xây dựng văn hóa Đảng là
nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh 17
2.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan của Đảng, Nhà

nước, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.............................18
2.3.5. Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng với thanh tra................................................................................18
2.3.6. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.................19
KẾT LUẬN............................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................21

4


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Là người sáng lập, Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo dục và rèn luyện Đảng ta,
chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng cơng tác xây dựng Đảng cả về tư tưởng, lý
luận, chính trị và tổ chức. Bắt nguồn từ học thuyết của Mác về Đảng cộng sản và
trực tiếp từ học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân đã được Lê nin đưa
ra từ những năm đầu của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu có chọn lọc và
phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng cộng sản, đồng thời chuẩn bị
về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cách mạng - Đảng
Cộng sản Việt Nam. Những luận điểm của Người về Đảng cộng sản và xây dựng
Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền là một phần rất quan trọng, vì theo
Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu, để đưa
cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Thể hiện tư tưởng này, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng “trước hết phải
có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc
với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Hồ Chí Minh giải thích:
“cách mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo, Đảng phải làm cho quần
chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải dạy cho quần chúng hiểu các
quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ mục đích gì mà đấu tranh, chỉ rõ con
đường giải phóng cho quần chúng...". Vì theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của

“cả dân chúng chứ không phải của một hai người”, nhưng sức mạnh của dân chúng
chỉ trở thành vơ địch và “khơng một qn lính, súng ống nào thắng nổi” khi được
giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo. Nắm bắt được điều đó, tác giả đã chọn đề tài
“ Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam và sự vận dụng tư
tưởng ấy vào việc chỉnh đốn Đảng hiện nay của nước ta” để có cái nhìn sâu và
rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
1.1. Khái quát sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp cơng nhân. Nó là đội tiên phong,
bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng Cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân và các tầng
lớp nhân dân lao động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên
tắc tổ chức cơ bản của mình.
Như vậy, Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, không tách rời
với giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngồi, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người
đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và
kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia
hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư

tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục
V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp
Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường
cách mạng của mình.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải đáp
trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm ra con
đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng

2


có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản1; xác định những vấn đề cơ
bản của đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với
giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xãhội, giai cấp vô sản phải
nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong
trào cách mạng vô sản thế giới.
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng
sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc ViệtNam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường
đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa;
nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người
cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ
thực dân Pháp (1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc

tế Cộng sản, tháng 1l-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực
tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng
lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết
bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán
bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập
Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp cơng nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như người đi đường đang
khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Nó lơi cuốn những người yêu nước
Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu tranh
mạnh mẽ, sơi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp cơng nhân ngày càng trở thành
một lực lượng chính trị độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào

3


quần chúng và phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức
đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày l-l-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung
Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập
trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách
mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc - cán

bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam là người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức
cộng sản.
Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp
tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như
là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của
cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ
XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc
của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của
một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

4


Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước.Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh
đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.

1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hình thành Đảng cộng sản Việt Nam
1.2.1. Cơ sở lý luận
Trong q trình xây dựng học thuyết về cách mạng vơ sản, c. Mác và Ph.
Ăngghen chú ý tới việc thành lập các Đảng Cộng sản ở những nước tư bản chủ
nghĩa để lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động lật đổ chế độ tư bản chủ
nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt ra
như một vấn đề bức thiết, Lênin phát triển nhiều luận điểm của c. Mác về cách
mạng trong điều kiện các nước thuộc dịa. Luận điểm về Đảng kiểu mới của Lênin
khơng chỉ nhằm xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp vơ sản rồi giải
phóng quần chúng lao động, giải phóng con người mà cịn nhằm trước hết giải
phóng dân tộc rồi giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Lênin nhấn mạnh vai
trò của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa trong việc giải quyết quyền lợi giai cấp
gắn liền với quyền lợi dân tộc: giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ trên lập
trường cách mạng triệt để của giai cấp vô sản.
Năm 1919. V.I. Lênin sáng lập ra Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản bộ tham
mưu của giai cấp vô sản thê giới. Từ đây, cùng với lý luận của Lênin, Quốc tế Cộng

5


sản đóng vai trị quan trọng thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vơ sản.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ tìm thấy ở đây con
đường cứu nước đúng đắn, mà cịn nhận thức được sự cần thiết phải có một đảng
cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vơ sản. Cuối tháng 12-1920, Người đã tán thành Quốc tế III và là người dân
thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự phát triển
lơgích tất yếu của tư duy Nguyễn Ái Quốc từ khi ra đi tìm đường cứu nước và đến
với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin.

1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập
chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà
nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản
mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ
nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của
chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do
dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào
lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đơng Dương vì lợi ích của giai cấp tư
sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự
phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vô
nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần
cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả
nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn
hố nơ dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc
hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.

6


Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong
kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là
nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và

bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn
chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa
chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải
gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng
Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết.
Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc
ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng,
bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng
lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa,
phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi
nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào
Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình
Phùng, Hồng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa,
phong trào đấu tranh đó vơ cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn
bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng
nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một
con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc
và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.

7


1.3. Tính tất yếu và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.3.1. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản:
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào cơng nhân dẫn đến sự hình

thành chính đảng của giai cấp công nhân. V. I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực
hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian. Ở
nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa thì Đảng Cộng sản ra đời là kết quả của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công
nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của chủ
nghĩa tư bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp tư
sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
1.3.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản:
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
Trong lịch sử chưa có giai cấp nào giành được địa vị thống trị, giữ vai trị
lãnh đạo xã hội mà khơng tạo ra được trong hàng ngũ của mình một đảng chính trị,
lực lượng tiên phong để lãnh đạo tồn bộ cuộc đấu tranh. Trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản, chừng nào và chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra
chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh thì mới đảm bảo giành được thắng
lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Nếu khơng có chính đảng
lãnh đạo, giai cấp cơng nhân chỉ có thể đấu tranh tự phát, đấu tranh vì mục đích
kinh tế, chứ khơng phải là cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh vì mục đích chính trị.
Chính vì vậy, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đảm bảo cho giai cấp
cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có
trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp cơng nhân và tồn thể dân

8



tộc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Để làm trịn vai trị đó, Đảng
Cộng sản phải là một đảng kiểu mới, một đảng mácxít – lêninnít.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
2.1. Thực trạng về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
Tiếp tục truyền thống và kế thừa tinh thần của các đại hội trước đó, Đại hội
XIII của Đảng đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tầm quan
trọng của công tác xây dựng Đảng được thể hiện rõ cả trong chủ đề, bài học kinh
nghiệm, quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển.
Chủ đề Đại hội XIII đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Điểm mới ở đây là đã bổ sung
“xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và
không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà còn nhấn mạnh cả đến chỉnh đốn Đảng.
Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội XIII của Đảng lại xác định, đặt ra yêu
cầu đầu tiên là cần tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh. Trên thực tế, xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau;
trong đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng có vai trị hạt nhân, quan trọng vì Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đặc biệt là Đảng lãnh đạo, giới
thiệu những đảng viên ưu tú của mình ứng cử vào các vị trí chủ chốt của Nhà nước
và cả hệ thống chính trị.
Xây dựng Đảng phải gắn liền với xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; bởi lẽ, chỉ khi nào Nhà nước mạnh, liêm chính, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy mạnh mẽ vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của mình thì mới đưa được những đường lối, chủ trương của Đảng
vào cuộc sống. Nói cách khác, Đảng muốn vững mạnh và thể hiện được vai trị lãnh
đạo tồn diện của mình thì Nhà nước cũng phải được xây dựng vững mạnh, liêm
chính, vì Nhà nước chính là người thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, đưa


9


các quyết sách lãnh đạo của Đảng thành chính sách, pháp luật, chương trình, kế
hoạch cụ thể, sát hợp với thực tiễn phát triển đất nước. Cũng như vậy, Đảng và Nhà
nước chỉ vững mạnh, hoàn thành được nhiệm vụ của mình khi và chỉ khi có Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy hết vai trị, trách
nhiệm, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thành hành động thực tế của nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân
dân và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh cịn
giúp cho Đảng có được mối quan hệ mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng
sáng tạo, khát vọng phát triển vì một Việt Nam hùng cường, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, khuyến khích, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng
Đảng và Nhà nước; đáp ứng ngày càng tốt hơn sự kỳ vọng, xứng đáng với sự gửi
gắm niềm tin của nhân dân.
Như vậy, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh là yêu cầu quan trọng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền của Đảng, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, sự phù
hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đưa nước ta phát triển nhanh, bền
vững. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, do vậy, là nhân
tố quyết định tạo nên những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cơng
cuộc đổi mới ở Việt Nam trong suốt 35 năm qua.
Nhìn chung, cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
nhiệm kỳ Đại hội XII đã đạt được kết quả nổi bật là: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực; sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh
giản biên chế của hệ thống chính trị; đổi mới công tác cán bộ và ngăn chặn tình

trạng chạy chức, chạy quyền; tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý
nghiêm những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm, khơng có vùng cấm,
khơng có ngoại lệ. Kết quả của cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ
vừa qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có được

10


cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đảng ta đoàn kết, thống nhất và trong
sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng
cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong
những năm tới.
2.2. Nguyên nhân của những tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.2.1. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung vẫn cịn
nhiều hạn chế cần khắc phục
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế,
khuyết điểm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị: Việc tổ
chức thực hiện một số nghị quyết của Đảng vẫn là khâu yếu. Công tác tư tưởng cịn
có mặt hạn chế, thiếu kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Một bộ phận cán bộ, đảng
viên chưa tiên phong, thiếu gương mẫu. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi cịn
hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo
được sự lan tỏa sâu rộng. Việc hồn thiện mơ hình tổ chức tổng thể của hệ thống
chính trị cho phù hợp với tình hình thực tiễn cịn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hoạt động ở
một số nơi thực hiện thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu đề ra; cá biệt có nơi cịn
nóng vội, chưa có bước đi vững chắc. Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số
lượng, chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, cơng
chức, viên chức. Xây dựng vị trí việc làm cịn nhiều lúng túng, tiến độ triển khai
còn chậm so với mục tiêu đề ra. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ
chức cơ sở đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp thời. Chính sách cán bộ chưa thực

sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, tồn ý với cơng việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán
bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám
đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
2.2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng và hệ thống
chính trị nói chung còn nhiều bất cập, chậm được đổi mới
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp,
cách thức, quy chế, quy định, quy trình, phong cách, lề lối… mà Đảng sử dụng để
tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi cương lĩnh chính trị,

11


đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn nhìn nhận:
“Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có
mặt cịn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy
đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ
trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thởi.
Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu
tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa
nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc
bng lỏng vai trị lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi”.
Có thể thấy, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền trách nhiệm
giữa các cơ quan, tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước chưa thực sự rõ ràng. Chưa
có sự phân định thật rõ quyền hạn, trách nhiệm giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư với
Đảng đồn Quốc hội và Ban Cán sự Đảng Chính phủ, cũng như giữa ban thường
vụ, thường trực cấp ủy với ban cán sự đảng ủy ban nhân dân, đảng đoàn hội đồng
nhân dân ở địa phương. Các quy chế phối hợp đã có, nhưng vẫn cịn tình trạng
chung chung, khó triển khai trong thực tiễn. Cùng với đó, việc phân định thẩm
quyền, trách nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng với

người đứng đầu cơ quan nhà nước còn chưa thật rạch ròi và còn thiếu thống nhất,
gây nên những chồng chéo, lúng túng nhất định trong chỉ đạo, điều hành ở các địa
phương, cơ quan, đơn vị.
2.2.3. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
Đảng ta là đảng cầm quyền, đội ngũ đảng viên nắm giữ hầu hết các vị trí chủ
chốt trong bộ máy nhà nước, có quyền lực rất lớn và đi liền với đó là nguy cơ tha
hóa quyền lực, quan liêu, tham nhũng, biến chất, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích
nhóm” cũng rất cao. Trên thực tế, những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả ở cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp cao còn nhiều diễn biến tinh vi, phức tạp, khó lường.

12


Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay đã “làm tổn thương tình cảm và
suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng”, nếu không bị ngăn chặn, đẩy lùi, thì
đây sẽ “là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Chính vì
vậy, Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đã xác định đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
nội bộ là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng.
Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thối ở một bộ phận cán bộ,
đảng viên, trong đó có cả người đứng đầu, trước hết là do bản thân những cán bộ,
đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, không đủ bản lĩnh
để vượt qua những cám dỗ. Do vậy, muốn ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống thì phải bắt đầu từ việc cán bộ, đảng
viên “tự soi, tự sửa”. “Tự soi, tự sửa” là việc mỗi người phải nghiêm túc tự kiểm
điểm, tự nhìn lại mình; cái gì tốt thì phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh,
cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa chữa.

2.2.3. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng
cịn những hạn chế
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, kết quả đã đạt được, công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng hiện vẫn cịn những hạn chế. Khơng ít địa phương, cơ quan,
đơn vị tiến hành kiểm tra, giám sát cịn chiếu lệ, hình thức, chưa quyết liệt, nên hiệu
quả chưa cao, chưa đủ sức răn đe; đấu tranh với vi phạm vẫn cịn tình trạng nể nang,
né tránh, đùn đẩy, không nghiêm túc. Một số tổ chức đảng cịn tỏ ra bị động trong
phát hiện tiêu cực; cơng tác kiểm tra, giám sát chỉ được thực hiện khi có đơn tố cáo,
thiếu kiểm tra chấp hành và giám sát thường xun, đã làm cho vai trị, uy tín của
cấp ủy và tổ chức chính quyền bị giảm sút; nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, vi
phạm kỷ luật, nhưng chỉ được phát hiện bởi báo chí, truyền thông, chứ không phải
do tổ chức đảng hay cơ quan kiểm tra, giám sát... Một số cấp ủy, tổ chức đảng,
người đứng đầu cấp ủy chưa coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, giám sát; chưa
kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo; việc xác định nội dung kiểm tra, giám sát còn dàn trải,
chưa đi vào những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực.

13


Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ
luật đảng. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần được nhận
diện và nhanh chóng khắc phục.
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng
hiện nay
2.3.1. Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ
máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Về hồn thiện mơ hình tổ chức của hệ thống chính trị, kế thừa Đại hội XII,
Đại hội XIII bổ sung thêm một số nhiệm vụ, giải pháp mới; trong đó, đặc biệt nhấn
mạnh tới việc cần tiếp tục hoàn thiện mơ hình tổ chức của hệ thống chính trị. Tổng

kết các mơ hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc
phục sự chồng chéo và những bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị. Sơ kết, tổng kết, nhân rộng những mơ hình thí điểm có hiệu
quả. Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và nghiên
cứu triển khai thực hiện ở cấp tỉnh theo lộ trình phù hợp với quy hoạch tổng thể các
đơn vị hành chính các cấp. Đồng thời, Đại hội XIII cũng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh
thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
theo vị trí việc làm”.
Theo đó, cần tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp
ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Hồn thiện thể chế,
bảo đảm đồng bộ, liên thơng giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng
về tổ chức bộ máy. Đánh giá, hồn thiện mơ hình tổ chức đảng theo ngành, lĩnh vực
và những nơi có đặc điểm riêng.
2.3.2. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị, đặc biệt là đối với Nhà nước trong điều kiện mới
Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trị quan trọng, đặc biệt là trong huy
động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội trong thực hiện thắng lợi
các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng

14


đối với Nhà nước là khâu quan trọng nhất, do vậy, cần tập trung đổi mới theo
nguyên tắc: Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước.
Nhà nước quản lý xã hội, nhưng không xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới trên
cơ sở tổng kết thực tiễn công tác lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; đồng
thời, kết hợp chặt chẽ việc đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sự đồng bộ, sức mạnh tổng hợp
trong hệ thống chính trị nhằm thực hiện có kết quả, đưa nghị quyết của Đảng nhanh

chóng đi vào cuộc sống.
Trên tinh thần đó, Đại hội XIII của Đảng đưa ra yêu cầu: “Đổi mới mạnh mẽ
phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn
chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; đổi mới việc xây dựng, ban
hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng; khắc phục tình trạng ban
hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi”.
2.3.3. Đẩy mạnh thực hành dân chủ trong Đảng, xây dựng văn hóa Đảng là nhân tố
quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Để xây dựng Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như mọi công việc
khác, “thực hành dân chủ rộng rãi” là phương thuốc để phát huy quyền làm chủ và
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong đấu tranh và loại trừ những kẻ
thối hóa, biến chất, quan liêu - những kẻ “miệng nói dân chủ nhưng làm việc theo
lối quan chủ”. Muốn xứng đáng với vai trò tiền phong, Đảng phải chú trọng công
tác xây dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn; trong đó, mọi hoạt động
đều phải tuân thủ Điều lệ Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực thi và
dân chủ phải được mở rộng.
Chỉ có thực hành dân chủ trong Đảng rộng rãi thì mới có thể tiến hành mở
rộng dân chủ trong xã hội. Thấm nhuần, vận dụng tư tưởng của Người, Văn kiện
Đại hội XIII nhấn mạnh: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân
dân, tăng cường đồng thuận xã hội”.

15


Đảng ta đặc biệt chú trọng xây dựng văn hóa Đảng, xem đây là nền tảng, là
sức mạnh nội sinh bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nhận thức được tầm
quan trọng của việc xây dựng văn hóa Đảng, Đảng ta đã nhiều lần đề cập, coi đây là
nhân tố quan trọng, là hạt nhân để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh.
2.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp
Đại hội XIII nhấn các mạnh nhiệm vụ: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ
cán bộ. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sự gương mẫu, tinh thần vì nhân dân
phục vụ của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng
đầu các cấp. Coi trọng đánh giá chất lượng, hiệu quả thực tế theo chức trách, nhiệm
vụ được giao và đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Chú trọng cơ cấu hợp lý, sớm
phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu
số, nhất là ở cơ sở. Tiếp tục hồn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ
phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với cơng việc. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chiến
lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài; Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ.
2.3.5. Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
với thanh tra
Cần kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan
bảo vệ pháp luật. Nâng cao chất lượng cán bộ ủy ban kiểm tra các cấp, để họ xứng
đáng là đội ngũ tiên phong trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tăng cường phối hợp
giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường sức
mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo,
trùng lặp, lãng phí nguồn lực, khơng hiệu quả. Phát huy vai trò giám sát, phản biện

16


xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân

trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
2.3.6. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân
để xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị
Nhận thức sâu sắc về vai trị, vị thế đặc biệt quan trọng của nhân dân nói
chung và trong cơng tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị nói riêng, Đại hội XIII
của Đảng tiếp tục xác định và đề ra nhiệm vụ cần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, cả hệ thống chính trị về cơng tác dân
vận; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới.

17


KẾT LUẬN
Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam và xây dựng Đảng cầm quyền, là đường hướng, phương châm khoa học,
cách mạng, để Đảng và Nhân dân ta xây dựng Đảng của mình trở thành Đảng cách
mạng chân chính, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, đưa sự
nghiệp cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Trong xu thế mới của đất nước và
thời đại đặt ra cho vai trò lãnh đạo của Đảng những nhiệm vụ mới. Đó là lãnh đạo
nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, định hướng XHCN. Đây vừa là điều kiện thuận lợi nhưng cũng đầy khó
khăn thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải vận
dụng sáng tạo và giữ vững những nguyên tắc trong tư tưởng của Người về xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để đáp ứng được sự gửi gắm niềm tin của nhân dân, Đảng phải thường
xuyên tự chỉnh đốn, tự khắc phục sai lầm, hạn chế, khuyết điểm, phải thật sự là
đảng chân chính, cách mạng, “là đạo đức, là văn minh”, mạnh dạn thực hiện tự phê
bình và phê bình, thành tâm học hỏi quần chúng nhân dân, dựa vào nhân dân để
cùng xây dựng, chỉnh đốn, bảo vệ, phát triển Đảng và hệ thống chính trị vững

mạnh, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, sớm đạt được mục tiêu trở thành
nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 40, 185, 38
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 191
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 227, 220 221, 217, 253
4. Nguyễn Đức Bách, Nhị Lê (Chủ biên) (2018), “Một số vấn đề định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb. Lao Động, Hà Nội.
5. Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2016), “Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Dương Phú Hiệp (2018), “Triết học và đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

19



×